Về phương diện dứt hết nghiệp, tức không còn mầm mống sanh tử nữa, thì
sau khi chết không có sanh đi đâu hết, vì người tu khi đã đạt được cứu
cánh Niết bàn rồi, thì hằng an trụ nơi thể tánh vô sanh.
Đó là mục đích cứu cánh của người tu. Nếu còn sanh, chứng tỏ công phu tu hành của hành giả chưa viên mãn.
Có lần, các vị Tỳ kheo hỏi Phật: Một vị A la hán sau khi chết sanh về
đâu? Phật trả lời: “Như củi hết lửa tắt”. Củi là dụ cho nghiệp, lửa là
dụ cho bản thể. Củi hết là dụ cho nghiệp không còn. Vì hễ còn nghiệp là
còn sanh, hết nghiệp là hết sanh.
Hiện tượng thì có sanh diệt,
còn bản thể thì làm gì có sanh diệt? Như sóng thì có sanh, có diệt, còn
chất ướt của nước thì không sanh không diệt.
Như vậy, khi lửa tắt
không thể nói lửa sanh về đâu. Cũng như sóng dừng, thì không thể hỏi
sóng đi về đâu. Khi hiện tượng lặng dừng thì trở về bản thể, chớ không
có sanh đi đâu hết.
Tuy không sanh đi đâu, nhưng các Ngài vẫn tùy
duyên ứng hóa. Do đó, mà chúng ta thấy chư Phật, Bồ tát thường ứng thân
thị hiện khắp nơi để độ sanh.
Đối với các Ngài sanh mà không
sanh, diệt mà không diệt. Vì các Ngài không còn thấy có tướng sanh diệt,
tới lui, như phàm phu chúng ta nữa.
Về phương diện còn nghiệp,
sau khi chết, tất nhiên là còn sanh. Vì còn vô minh phiền não, tất
nhiên, là còn có tướng sanh diệt, tới lui, đến đi.
Luận về phương diện nầy, chúng tôi xin được y cứ vào Kinh điển Phật Tổ chỉ dạy để nêu ra ba luận cứ để chứng minh.
1. Y cứ vào luật nhân quả:
Căn cứ theo luật nhân quả, hễ chúng ta gây tạo nhân nào thì sẽ gặt hái
quả đó. Nếu như hiện đời chúng ta chuyên gây tạo nghiệp lành, thì sau
khi chết tất nhiên là chúng ta sẽ thác sanh về cảnh giới lành.
Kinh Pháp Cú Phật dạy:
Dục tri tiền thế nhân
Kim sanh thọ giả thị
Yếu tri lai thế quả
Kim sanh tác giả thị.
Nghĩa là: Nếu muốn biết cái nhân đời trước của mình đã gây tạo như thế
nào, thì hãy xem cái quả báo hiện tại mà mình đang mang đây. Nếu muốn
biết cái quả báo đời sau của mình như thế nào, thì chúng ta hãy nhìn kỹ
lại cái nhân hiện tại mà mình đang gây tạo. Như vậy, nếu hiện tại mình
làm điều lành như bố thí, cúng dường, ăn chay, giữ giới, niệm Phật v.v…
thì chắc chắn đời sau mình sẽ hưởng quả báo tốt đẹp.
Xin tạm
nêu ra đây hai thí dụ cụ thể để Phật tử hiểu rõ hơn. Thí như anh B
chuyên đam mê cờ bạc, hằng ngày anh ta thường hay đi vào casino để đánh
bài. Đó là vì anh ta nghiện cờ bạc quá nặng. Khi không thấy anh ấy ở
trong nhà, nếu muốn biết hắn ở đâu, thì cứ đi vào sòng bạc là sẽ gặp anh
ta ngay. Sòng bạc là “quả ”, dụ cho cảnh giới mà anh B sẽ đến. Nghiện
cờ bạc là “nhân”. Vắng nhà là dụ cho sau khi chết.
Một ví dụ
khác, như có một Phật tử thường xuyên tới chùa tu học làm công quả hằng
ngày, đó là nghiệp nặng đi chùa. Tất nhiên đây là nghiệp lành. Hành động
thường tới lui chùa, đó là cực trọng nghiệp. Ngày nào không đi là không
được. Chùa là dụ cho cảnh giới lành mà người Phật tử đến. Vắng nhà là
dụ cho sau khi chết.
Qua hai thí dụ đó, chúng ta thấy hướng tái sanh của người khi hiện đời tạo nghiệp lành hoặc dữ mà có sự thọ sanh khác nhau.
Tổ Qui Sơn có dạy: “Như nhơn phụ trái, cường giả tiên khiên”. Nghĩa là
như người mắc nợ, ai mạnh thì đòi trước. Nghiệp nào mạnh thì sẽ lôi
chúng ta đi trước để trả quả báo mà hiện đời chúng ta đã gây tạo.
Thế thì, muốn biết đời sau mình tái sanh về cảnh giới nào, thì hãy cứ
nhìn kỹ lại cái nghiệp nhân mà hiện đời mình đang gây tạo đây. Nếu đã
gây nghiệp nhân ác mà muốn sanh về cảnh giới lành, thì điều đó là một
nghịch lý, trái với luật nhân quả và sẽ không bao giờ có.
Tuy
nhiên, vấn đề nầy, còn tùy thuộc vào Cận tử nghiệp, tức cái nghiệp gần
sắp chết. Nếu cả đời mình tu tạo nhân lành ( tích lũy nghiệp) mà đến giờ
phút hấp hối sắp lâm chung, bỗng khởi một niệm ác, thì khi nhắm mắt,
tất nhiên là chúng ta phải theo niệm ác đó mà chiêu cảm quả báo.
Tuy rằng, sự trả quả báo của cận tử nghiệp thời gian không lâu lắm. Cuối
cùng, cũng phải trở về với tích lũy nghiệp. Như vậy, cái tích lũy
nghiệp không bao giờ mất.
2. Y cứ vào những thụy ứng:
Nếu y cứ vào những hiện tượng thụy ứng, chúng ta cũng có thể biết được
người đó được vãng sanh về cảnh giới lành. Hiện tượng nầy, sách sử đã
ghi lại có rất nhiều người tu theo Tịnh môn niệm Phật, khi lâm chung đã
để lại thụy ứng (điềm lành gọi là xá lợi ) vãng sanh.
Nếu Phật tử
muốn biết rõ, xin đọc Mấy Điệu Sen Thanh do cố Hòa Thượng Thích Thiền
Tâm biên soạn, sách gồm có hai tập: I và II, xuất bản ấn tống tại Sydney
– Úc Châu, năm 1994. Và quyển Những Chuyện niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá
Lợi, xuất bản năm 2000 tại Hoa Kỳ, do cư sĩ Tịnh Hải sưu tầm.
3. Y cứ qua kinh nghiệm của các bậc Cổ Đức:
Theo kinh nghiệm của Cổ Đức chỉ dạy, khi người mới chết trong vòng vài
tiếng đồng hồ trở lại, muốn biết họ thác sanh về cảnh giới nào, thì
người nhà có thể lấy tay sờ vào những nơi ứng nghiệm như sau:
Nếu toàn thân lạnh hết mà chỉ có trên đảnh đầu còn nóng, thì biết rằng
người đó sẽ sanh về cảnh giới Phật. Còn như nóng ở nơi con mắt, thì biết
người đó sẽ sanh về cõi trời. Nóng ở ngực, thì sanh lại cõi người. Nóng
ở bụng, thì sanh về ngạ quỷ. Nóng ở đầu gối, thì sanh vào loài súc
sanh. Nóng ở dưới lòng bàn chân, thì sẽ sanh vào địa ngục.
Do sự ứng nghiệm đó, nên Cổ Đức có làm bài kệ tóm tắt cho chúng ta dễ nhớ :
Đảnh Thánh nhãn sanh thiên
Nhơn tâm ngạ quỷ phúc
Bàng sanh tất cái ly
Địa ngục khước môn xuất.
Tạm dịch:
Thánh đầu, trời tại mắt
Người tim, ngạ quỷ bụng
Súc sanh hai chân xuống
Địa ngục bàn chân ra.
Tác giả bài viết: Thích Phước Thái