Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
Chút tình Đông Á
24/12/2010 11:45 (GMT+7)


rên đây là một đoạn đối thoại giữa triết gia Heidegger, đóng vai như một người hỏi (F: Fragende, trong phần dịch viết tắt là H:), với một học giả Nhật Bản (J: Japaner, trong phần dịch viết tắt là N:). Cuộc đối thoại này được ghi chép thành tiểu luận "Aus einem Gespräch von der Sprache" (Từ cuộc song thoại về ngôn ngữ) trong cuốn Unterwegs zur Sprache (Trên đường về Ngôn ngữ). Trong bài viết này, tôi muốn dùng cuộc song thoại đó như một điểm quy chiếu nhỏ để ta có dịp nhìn lại "tiến trình Âu hóa con người và trái đất" đang diễn ra trên toàn cõi địa cầu, và quan trọng nhất là trong chính nếp suy tư của chúng ta, mà có lẽ người Việt Nam là dân tộc cảm nhận mạnh nhất sức hủy hoại khốc liệt của nó, khi đất nước suốt gần trăm năm qua bị lịch sử biến thành "trường sở trụ" cho sự hoàn tất của tư tưởng phương Tây(2).

Điều dễ dàng cảm nhận nhất của "sự Âu hóa" trong tư tưởng người Việt là tình trạng tiếng Việt đang bị bộ môn ngữ pháp tàn phá tận cội nguồn trong chương trình giáo dục ngày nay, khi các nhà ngôn ngữ học cố nhồi nhét tiếng Việt vào những phạm trù hoàn toàn xa lạ của ngữ pháp phương Tây. Một việc làm cực kỳ vô lý, do thiếu sự cảm nhận chân thực về ngôn ngữ, nhưng lại được tiến hành một cách trịnh trọng theo hệ thống mang tính hàn lâm. Điều đó đang khiến cho một ngôn ngữ phong phú và giàu nhạc điệu như tiếng Việt trở thành què quặt, dị dạng. Triết gia Heidegger - người suốt một đời trầm tư một cách sâu thẳm về yếu tính của ngôn ngữ - đã phải thốt lên với học giả người Nhật:

"Thế giới người Nhật hiểu gì về từ ‘Ngôn ngữ’ (Sprache)? Hỏi một cách thận trọng hơn thì: Trong ngôn ngữ các ông có từ nào tương ứng với cái mà chúng tôi gọi là Ngôn ngữ hay không? Nếu không thì làm sao các ông thể hội được điều mà từ Ngôn ngữ mà chúng tôi muốn nói?" (3)

Đến khi nào các nhà ngữ pháp Việt Nam mới lắng nghe ra được câu nói đó? Heidegger cho rằng ngay cả khái niệm "ngôn ngữ" (Sprache) theo cách hiểu của người phương Tây vẫn không tồn tại trong tiếng Nhật (cũng có thể hiểu là tiếng Việt), thì thử hỏi đâu là mô hình ngữ pháp chung để nối kết hai bờ ngôn ngữ Đông tây? Do đó, ông khẳng định:

"Một thời gian ngắn trước đây tôi đã gọi, một cách khá vụng về, rằng Ngôn ngữ là ngôi nhà của hữu tính [tính thể của vạn hữu]. Nếu như con người, thông qua ngôn ngữ của mình, mà an trú được trong yêu sách của hữu tính thì người Âu châu chúng tôi hẳn ở trong một ngôi nhà hoàn toàn khác với người Á Đông"(4).

Trên bình diện tư tưởng, các bậc thức giả lại cứ muốn xây dựng một "ngôi nhà" y hệt phương Tây để làm "chỗ an trú cho tính thể của vạn hữu" thì mới có thể yên tâm là hiện đại, là theo kịp đà tư tưởng phương Tây. Trên bình diện ngữ pháp thì các nhà ngôn ngữ học lại hì hục vay mượn các khái niệm xa lạ của phương Tây để xây dựng "ngôi nhà ngữ pháp" dị dạng cho tiếng Việt. Giống như Bá Nhạc trị ngựa, các nhà ngôn ngữ học cắt xén không thương tiếc lông cánh của con chim Việt ngữ bay lượn nhởn nhơ ngoài đồng nội, để nhét nó cho lọt vào cái lồng sắt ngữ pháp khô cứng theo kiểu phương Tây thì mới yên tâm là "mang tính khoa học"! Thế giới ý niệm của phương Tây như một sa mạc lan dần, âm thầm tàn phá tư duy của người Đông tận cội nguồn. Và điều đó hiện nay càng trở nên trầm trọng hơn nữa khi mà mọi người ai nấy đều sính các chữ "hiện đại" và "khoa học", để khỏi bị xem là lạc hậu. Chúng ta cứ hì hục cố gắng nhét con tượng vương khổng lồ phương Đông cho lọt vào cái chuồng khái niệm của phương Tây mới cam lòng, mới yên tâm là không thua sút (?). Điều đó cũng chẳng khác nào đánh giá con sư tử bằng khả năng bơi lội giữa biển, hay đánh giá con kình ngư bằng khả năng chạy bộ trong sa mạc.

Cùng với sự chiến thắng vượt trội không thể chối cãi của nền khoa học kỹ nghệ Âu châu trên phạm vi toàn cầu, nếp suy tư theo kiểu phương Tây hầu như đã chi phối toàn bộ não trạng của chúng ta, khiến biết bao thế hệ hoàn toàn lạc lõng với nguồn cội phương Đông. Không ít bậc thức giả thế hệ trước mang nhiều mặc cảm, luôn cố nhìn phương Đông qua lăng kính phương Tây và cho rằng chỉ có cách nhìn đó là đúng, là "được đào tạo theo bài bản", hoặc hì hục cố tìm cho ra một vài điểm tương đồng với nền triết học phương Tây để có thể yên tâm rằng nền minh triết phương Đông chưa đến nỗi lạc hậu, cũng có cái để sánh vai với tư tưởng của bè bạn năm châu! Đó là hiểm họa mà triết gia Heidegger đã cảnh báo là "tiến trình Âu hóa con người và trái đất đã gây tổn hại đến những điều tinh yếu ở tận cội nguồn" (die Europäisierung des Menschen und der Erde alles Wesenhafte in seinen Quellen anzehrt). Thật là oái ăm khi sự thật rất đau xót đó lại chỉ được cảm nhận sâu sắc bởi một triết gia lỗi lạc phương Tây - người mà theo nhà thơ Bùi Giáng là một loại Pháp Vân Địa Bồ tát của phương Đông.

Tôi xin trích tiếp một đoạn đối thoại nữa, khi triết gia Nhật Bản - người muốn tiếp nối công trình của bá tước Kuki - cố gắng dùng các khái niệm mỹ học của phương Tây để tìm hiểu thi ca, nghệ thuật Nhật Bản.

H: Mỹ học và những gì nó gọi tên đều xuất phát từ tư tưởng Âu châu, từ triết học. Do đó, những quan niệm mỹ học, về cơ bản, rất xa lạ với nếp suy tư Á Đông.

N: Ông nói hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, người Nhật chúng tôi vẫn phải nhờ tới mỹ học.

H: Để làm gì vậy?

N: Nó cung cấp cho chúng tôi những khái niệm cần thiết để nắm bắt được ý nghĩa của nghệ thuật và thi ca.

H: Các ông cần đến những khái niệm đó sao?

N: Có lẽ là cần. Bởi vì từ khi tiếp xúc với tư tưởng Âu châu, điểm yếu trong ngôn ngữ chúng tôi càng hiện rõ ra.

H: Yếu ở mức độ nào?

N: Nó thiếu khả năng phân định để sắp xếp các đối tượng cho có lớp lang thứ tự trên dưới, trước sau.

H: Ông cho điểm yếu đó là sự khiếm khuyết nghiêm trọng trong ngôn ngữ của các ông?

N: Qua sự tiếp xúc không thể tránh khỏi giữa thế giới Á đông với Âu châu, câu hỏi của ông chắc chắn đòi hỏi sự cân nhắc kỹ càng.

H: Ông vừa khơi dậy một vấn đề tranh luận, mà tôi thường trao đổi với bá tước Kuki, đó là vấn đề: liệu có cần thiết và đúng đắn không, khi người Á đông phải chạy theo hệ thống khái niệm của Âu châu (5).

Thật là một điều khó hiểu vì sao những câu nói thống thiết "những quan niệm mỹ học, về cơ bản, rất xa lạ với nếp suy tư Á đông" và "liệu có cần thiết và đúng đắn không, khi người Á đông phải chạy theo hệ thống khái niệm của Âu châu" vẫn không đủ sức để cảnh tỉnh chúng ta, trong khi triết gia Heidegger trịnh trọng nói rằng tất cả những công trình của ông chỉ là nỗ lực sửa soạn cho phương Tây có đủ điều kiện để bước vào cuộc song thoại với phương Đông trong tương lai. Khi đọc các tác phẩm về Thiền của Đại sư Suzuki, ông còn phát biểu "Nếu tôi hiểu được tác gia này một cách chính xác thì đó chính là những gì tôi đã cố gắng phát biểu trong tất cả các tác phẩm của mình" ("If I understand this man correctly, this is what I have been trying to say in all my writings").

Có lẽ chúng ta dễ thấy choáng ngợp trước cung điện duy lý đồ sộ của phương Tây với những hệ thống khái niệm phong phú, mà không hiểu rằng các bậc chân nhân phương Đông từ ngàn xưa đã xem đó là những thứ phù phiếm không đáng phải bận tâm. Những thứ "chủ nghĩa", những thứ "ism" trong hệ thống khái niệm của phương Tây, những hiện tượng luận, thông diễn học, hậu hiện đại v.v… vẫn có những giá trị riêng của nó đối với não trạng phương Tây. Nhưng chúng cũng chẳng phải là cái gì tân kỳ ghê gớm lắm, mà nhiều học giả cứ cho rằng thiếu chúng thì người phương Đông chúng ta xưa nay không thể đọc nổi và không thể hiểu nổi các kháng thư thâm áo. Làm như ở phương Đông, hơn mấy ngàn năm qua các bậc chân nhân đã không dạy ta lắng nghe ra được "huyền ngoại chi âm", hay "đắc ngư vong thuyên" để đọc được phần vô ngôn trong ngôn ngữ. Làm như phải hiểu được các phạm trù mỹ học Tây phương thì chúng ta mới có thể cảm nhận được thế nào là vẻ đẹp, mới có thể hiểu được thế nào thi ca, hội họa. Chỉ cần nhìn một cánh hoa đào hé nở như Thiền sư Linh Vân, hay chợt nghe tiếng một hạt sỏi chạm vào thân tre như Thiền sư Hương Nghiêm cũng đủ khiến mọi thứ kiến thức phù hoa rơi lả tả. Chỉ một ngọn nến tắt của Sùng Tín cũng đủ để nhà sư học giả Đức Sơn đốt tất cả những bản chú sớ đầy các kiến giải uyên bác về kinh Kim Cương. Con người hễ càng đọc sách và bám vào thế giới khái niệm theo kiểu phương Tây thì càng ham mê thuyết thoại, và không bao giờ hiểu được cõi tư tưởng mênh mông "Thuật nhi bất tác" hay "Hữu dư, bất cảm tận" của Khổng Tử, càng không thể cảm nhận được cảnh giới im lặng "Niêm hoa vi tiếu" của Đức Phật.

Điều kỳ dị là trong khi ở phương Tây, các nhà tư tưởng đã cảm nhận được triết học đã đi đến hồi chung cục, thì ở phương Đông lại lịch kịch nảy sinh ra các loại triết gia! Đọc trên báo chí hoặc trên mạng, ta thấy không thiếu các vị học giả cả đời chỉ chuyên tầm chương trích cú, song vẫn luận giải rất "hệ thống" về thi ca để chê ông Nguyễn Du dùng chữ còn vụng về, tư tưởng còn đầy mâu thuẫn; chê ông Bùi Giáng tư duy còn lung tung, sai sót; hoặc lên giọng trịnh trọng về triết học để phê phán ông Trần Trọng Kim là "tầm chương trích cú", là "tư duy còn hời hợt". Cũng không thiếu các nhà nghiên cứu phê phán kinh Dịch mang những tư tưởng biện chứng còn "sơ khai non nớt" hoặc "thô sơ tự phát", nói chung là chưa được bài bản, chưa có "hệ thống hợp lôgic", nên chưa đủ trình độ để so sánh với nhiều nguồn tư tưởng phương Tây khác. Đọc những trang sách biên khảo đó - với nội dung nô lệ sách vở từ chương tận xương tủy, luôn dùng hệ thống khái niệm phương Tây làm chuẩn mực để đánh giá mọi cội nguồn tư tưởng, chúng ta dễ nghe tê cóng cả linh hồn và cảm nhận thêm thảm trạng "tiến trình Âu hóa con người và trái đất đã gây tổn hại đến những điều tinh yếu ở tận cội nguồn" đang diễn ra trầm trọng đến mức độ nào. Thử hỏi, nếu không có bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim mở ra một thông lộ kỳ tuyệt giữa trận đồ biên khảo ngổn ngang gò đống nặng óc duy lý theo kiểu phương Tây thì liệu chúng ta có tìm được một đường đi chính xác về nguồn cội tư tưởng hôm nay? Nếu không có bản dịch Nam hoa kinh của Nhượng Tống với lời chú giải của Lâm Tây Trọng- mà nhiều học giả chê là còn thô ráp (!) - thì liệu chúng ta còn lịch kịch theo đuôi các học giả để tìm hiểu Trang Tử, Lão Tử cho đến bao giờ? Nếu không có Bùi Giáng mở ra một thông đạo dị thường để nhiếp dẫn Truyện Kiều đi về giữa cuộc đối thoại của tư tưởng Ðông Tây hiện đại, thì liệu chúng ta có thực sự hiểu được Nguyễn Du, và từ đó nghe ra được nhiều nguồn tư tưởng khác? Những thứ đó vĩnh viễn không bao giờ lọt vào "cái nghe" ồn ào "full of sound and fury" của các nhà biên khảo.

Chúng ta càng hiểu vì sao Heidegger phải chấp nhận yên lặng trước bao lời công kích để sống cô đơn với căn nhà nhỏ nơi Rừng Đen hiu quạnh với một vài vần thơ của Hoelderlin và vài triết ngôn còn sót lại từ thời Hy Lạp cổ đại, giã từ chốn triết học trường trại ồn ào. Chúng ta càng hiểu vì sao Bùi Giáng lại rất coi thường các học giả gàn mà chỉ tôn trọng những con người tài hoa sáng tạo. Chỉ cần học chữ "Như thị" của Phật giáo bằng tất cả tâm nguyện "tín, giải, thọ, trì" cũng giúp ta đủ công lực để gác bỏ mọi thứ luận giải phù phiếm của các học giả về hiện tượng luận, về thông diễn học hay hậu hiện đại qua một bên, mà đi thẳng vào các tác phẩm bằng những suy niệm chân thành để tiếp cận với suối nguồn chân thực của nó, cái suối nguồn còn nguyên vẹn tinh khôi, chưa hề bị hủy hoại bởi "tiến trình Âu hóa con người và trái đất", và do đó, không hề bị khô cạn.

Có lẽ chỉ khi suy tư bằng những suy niệm chân thành thì con người mới không còn vướng vào mạng lưới lý luận phương Tây luôn giăng ra như thiên la địa võng. Đến lúc đó ta mới có thể thong dong đi vào những phương trời lộng gió của phương Đông, để nêu bâng quơ một câu hỏi, như nhà thơ thiên tài Tô Đông Pha đã dùng để hỏi Bản trưởng lão - một vị danh tăng ở đất Tam Ngô thời Bắc Tống - : "Hà thời trượng sách tương tùy khứ, Nhậm tính tiêu dao bất học Thiền? (Khi nào chống trượng theo ngài nhỉ? Mặc tính tiêu dao chẳng học Thiền).

Huỳnh Ngọc Chiến ( Nguyệt San Giác Ngộ 177)

(1) J: Man findet die unantastbare Herrschaft Ihrer europäischen Vernunft durch die Erfolge der Rationalität bestätigt, die der technische Fortschritt stündlich vor Augen führt. F: Die Verblendung wächst, so daß man auch nicht mehr zu sehen vermag, wie die Europäisierung des Menschen und der Erde alles Wesenhafte in seinen Quellen anzehrt. Es scheint, als sollten diese versiegen. (Heidegger, Unterwegs zur Sprache, Vittorio Klostermann, Frankfurt am Main, 1985, tr.99. Dưới đây sẽ gọi tắt là UzS). (2) Cf. Heidegger, Zur Sache des Denken, GA 14, Vittorio Klostermann, Frankfurt am Main, 2007, tr.71 (Die Metaphysik ist Platonismus. Nietzsche kennzeichnet sein Phisolophie als umgekerten Platonismus. Mit der Umkerhrung der Metaphysik, die bereits durch Karl Marx vollzogen wird, ist die äuβerste Möglichkeit der Phisolophie erreicht. Sie ist in ihr Ende eingegangen : Siêu hình học chính là triết học Platon. Nietzsche xem điểm đặc thù trong triết học mình như là triết học Platon đảo ngược. Cùng với sự đảo ngược của siêu hình học, vốn đã được hoàn tất bởi Karl Marx, triết học đã đạt đến khả năng tối hậu. Triết học đang đi đến hồi chung cục) . (3) "Was versteht die japanische Welt unter Sprache? Noch vorsichtiger gefragt: Haben Sie in Ihrer Sprache ein Wort für das, was wir Sprache nennen? Wenn nicht, wie erfahren Sie das, was bei uns Sprache heißt?" (Heidegger. UzS, op.cit., tr.108) (4) "Vor einiger Zeit nannte ich, unbeholfen genug, die Sprache das Haus des Seins. Wenn der Mensch durch seine Sprache im Anspruch des Seins wohnt, dann wohnen wir Europäer vermutlich in einem ganz anderen Haus als der ostasiatische Mensch." (ibid. tr.80) (5) F: Der Name [Ästhetik H.N.C] und das, was er nennt, stammen aus dem europäischen Denken, aus der Philosophie. Deshalb muß die ästhetische Betrachtung dem ostasiatischen Denken im Grunde fremd bleiben. J: Sie haben wohl recht. Allein, wir Japaner müssen die Ästhetik zu Hilfe rufen. F: Wofür? J: Sie verschafft uns die nötigen Begriffe, um das zu fassen, was uns als Kunst und Dichtung angeht. F: Benötigen Sie Begriffe? J: Vermutlich ja; denn seit der Begegnung mit dem europäischen Denken kommt ein Unvermögen unserer Sprache an den Tag. F: Inwiefern? J: Es fehlt ihr die begrenzende Kraft, Gegenstände in der eindeutigen Zuordnung zueinander als wechselweise über-und untergeordnete vorzustellen. F: Halten Sie dieses Unvermögen im Ernst für einen Mangel Ihrer Sprach? J: Bei der unausweichlich gewordenen Begegnung der ostasiatischen Welt mit der europäischen verlangt Ihre Frage gewiß eine eindringliche Überlegung. F: Sie rühren jetzt an eine Streitfrage, die ich mit Graf Kuki oft erörterte, die Frage nämlich, ob es für die Ostasiaten nötig und berechtigt sei, den europäischen Begriffssystemen nachzujagen. (ibid. tr.77)

Nguon: giacngo.vn

Các tin đã đăng:
Về đầu trang