Nhà
ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, đại tá
Hàn Thuỵ Vũ, nhà giáo Đoàn Thanh Hương (thư ký Đoàn) làm một nhóm khác
cùng đông đảo các nhân chứng. Và kỳ diệu như trong chuyện cổ tích, các
nhà ngoại cảm với khả năng đặc biệt siêu phàm như thấu thị, đối thoại
(nhìn thấy và trò chuyện với các vong hồn) đã nhanh chóng tìm thấy các
hố chôn tập thể hài cốt liệt sĩ giữa mênh mông đồng bãi, ngút ngàn cỏ
lau, điệp trùng suối, núi, hơn thế, còn xác định được danh tính của từng
người, điều mà với những con mắt trần thường tình của người đời là điều
không thể.
Bích Hằng (trái) và Thuý Hoàn
(phải)
đang ngồi trò chuyện với vong
linh LS Minh
ở hố chôn thứ nhất, dọc con suối
Đắc-lốp, trong lùm cây rậm rạp, dưới gò mối lớn tìm được 22 liệt sĩ. Qua
Bích Hằng, các liệt sĩ cho biết: đây là hố chôn tập thể. Phần nửa
phía tây, gần căn cứ K’Nak, bị địch chất đống đổ xăng đốt nhưng mùi da
thịt cháy khét lẹt bốc lên đồi khiến chúng không chịu nổi nên nửa hố
phía đông, chúng dùng máy xúc đào đất lấp vùi. Bích Hằng lấy được tên
tuổi, địa chỉ quê quán của cả 22 người. Điều đặc biệt là sau này, khi
đối chiếu những tên tuổi này với danh sách các liệt sĩ ở Trung đoàn 95A
và Tiểu đoàn đặc công 409 thì trùng khít.
ở hố chôn thứ 2, bên dãy cây bạch đàn có
gò mối lớn, cách hố thứ nhất khoảng 100m, tìm được tên 12 liệt sĩ.
8h sáng ngày 1 tháng 4 năm 2002, Đoàn
lên đồi thông K’Nak để xác minh một ngôi mộ vô danh. Đây chính là cứ
điểm phía Bắc của cụm cứ điểm biệt kích K’Nak. Nhà ngoại cảm Bích Hằng
thắp hương mời vong liệt sĩ lên trò chuyện. Liệt sĩ cho biết tên là
Nguyễn Văn Minh, chính trị viên Đại đội 40, Tiểu đoàn đặc công 409, quê ở
Thạch Khê, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Nhân chứng tại chỗ, anh hùng lực lượng vũ
trang, trung tá Nguyễn Ngọc Bình, nguyên Đại đội trưởng đại đội đặc
công 40 (D409) xác nhận: thông tin trên hoàn toàn chính xác. Ông kể: khi
quả pháo nổ trước mặt, anh Minh ngã vật xuống, anh Lê Xuân Hổ văng ra,
đồng chí liên lạc hy sinh tại chỗ còn ông thì bị thương gẫy tay phải.
Liệt sĩ Minh hỏi Trung tá Bình (qua nhà
ngoại cảm): “Anh Lê Xuân Hổ thế nào?”. Trung tá Bình, tay chắp trước
ngực, mắt nhìn vào làn khói hương nghi ngút trên mộ đồng đội, trả lời,
giọng run run: “Anh Lê Xuân Hổ lên giúp Tây Nguyên. Năm 1972, chuyển đơn
vị về Chu Lai, làm trung đoàn phó chiến đấu ở Tuyên Phước. Trong lúc đi
điều tra, anh ấy đã hy sinh”. Liệt sĩ Minh: “Anh Trần Tấn Ước (tiểu
đoàn phó tiểu đoàn 409 – tác giả) có khoẻ không? Tôi rất xúc
động khi gặp các anh. Tuy nằm ở trên đồi này mát mẻ nhưng tôi không
thích vì gần đồn địch. Tôi muốn về quê. Bố tôi là Nguyễn Văn Tỉnh ở
Thạch Khê, Hà Tĩnh nhưng đã mất. Còn em là Nguyễn Văn Tiến nhà nghèo,
không đủ khả năng đưa tôi về. Trước mắt cho tôi về nghĩa trang liệt sĩ
với anh em. Chân phải tôi bị gãy. Tôi nằm trong một khe đá nhỏ, không có
người chôn. Giỗ tôi ngày 8 tháng 3″.
Người tìm thấy hài cốt liệt sĩ Minh là
anh Giang Xuân Lâm, 40 tuổi, quê ở Thái Bình. Ngày 18 tháng 10 năm 1992
(Âm lịch), trong khi đào phế liệu, anh Lâm phát hiện cạnh tấm tôn có
xương hàm nên bới cẩn thận, lật lên thấy hài cốt. Xương dài, cao. Xương
chân bên trái còn có băng cuốn. Gia đình anh đã di chuyển mộ 2 lần. Năm
1995, đưa về an táng trên đồi thông.
9h30′ cùng ngày, đoàn khảo sát một số
khu vực dọc suối, thuộc phía đông đồn cũ của địch, Bích Hằng phát hiện
dưới vườn khoai lang của dân có 5 liệt sĩ. Do có nhóm công binh đi cùng,
đoàn cho khai quật một hố nhỏ, rộng 0,60m, dài 1,2m, sâu 0,60 m thì tìm
thấy một chiếc răng và mảnh xương. Sợ không đủ sức nên đoàn không dám
đào thêm.
Sát mép suối, dưới gốc cây sung, Thẩm
Thúy Hoàn đọc được tên 5 liệt sĩ. Liệt sĩ Việt bảo: “Cảm ơn đoàn đã bỏ
nhiều công sức đi tìm chúng tôi. Cảm ơn anh em đồng đội đã đến đây. Tại
sao khi chúng tôi đi có họ tên mà bây giờ vô danh không ai biết tới”.
Thấy chị Đoàn Thanh Hương ngồi ghi chép tên tuổi, quê quán các liệt sĩ,
liệt sĩ Việt nhắc: “Chị ghi nhầm quê của tôi rồi”.
Cuộc tìm kiếm kết thúc vào ngày 2 tháng 4
năm 2002. Đoàn đã xác định được 10 hố chôn với 128 liệt sĩ trong tổng
số gần 500 người hy sinh tại K’Nak. Có danh sách cụ thể và đã đối chiếu
với đơn vị. Các nhân chứng từng là cán bộ chỉ huy xác nhận là phù hợp
với thực tế.
Đưa anh về với mẹ
Đội quy tập đang tìm kiếm hài
cốt 8 LS dưới lòng hồ Đắc-Lốp
Lại một mùa mưa rừng qua đi. Giữa lúc
lòng anh Mẫn nóng ran như người ngồi trên đống lửa vì hài cốt của người
anh và đồng đội vẫn chìm dưới hồ nước bạc thì bất ngờ anh nhận được tin
nhắn từ K’Nak: Hồ chứa nước trên dòng suối Đắc-lốp đã cạn. Anh Mẫn mừng
rơn như người bộ hành trên sa mạc trong cơn khát cháy bỗng gặp nguồn
nước mát. Anh tức tốc báo cáo với Ban chủ nhiệm Bộ môn cận tâm lý, đề
nghị cử nhà ngoại cảm vào giúp đỡ khai quật ngay. Anh Mẫn kể lại: “Trước
hôm trở lại K’Bang, tôi phải tổ chức buổi họp mặt gia đình gấp. Không
hiểu sao, suốt 30 năm vượt thác băng rừng tìm anh, biết bao hiểm nguy
rình rập, tôi không sợ. Vậy mà đêm ấy, lòng cứ thấp thỏm không yên. Tôi
thông báo với gia đình toàn bộ việc làm của mình cùng toàn bộ hồ sơ, tài
liệu, phòng khi gặp chuyện chẳng lành, con cháu có thể thay tôi tiếp
tục hành trình tìm kiếm. Nửa đêm, tôi dậy thắp hương cho anh Thành, thầm
cầu nguyện vong linh anh sống khôn chết thiêng phù hộ cho tôi chân cứng
đá mềm để tìm thấy anh. Và lạ kỳ thay, bát hương trên bàn thờ anh bốc
cháy. Tôi hiểu, ở nơi rừng rú heo hút ấy, anh đã nghe được lời nguyện
cầu của tôi”.
Sáng 27 tháng 7 năm 2002, nhà ngoại cảm
Thẩm Thuý Hoàn (Bích Hằng có việc tại Liên Bang Nga nên vắng mặt) cùng
bộ phận tìm kiếm vào đến suối Đắc-lốp. Nhưng đập chứa vẫn còn mênh mông
nước. Bằng chính tấm tình tha thiết với các liệt sĩ, anh Mẫn đã thuyết
phục được chính quyền và nhân dân huyện K’Bang làm một việc “động trời”:
tháo đập nước Đắc-lốp. Sau nhiều ngày ăn trực nằm chờ, đập cạn trơ đáy.
Lòng vừa khấp khởi mừng thì bất ngờ cơn mưa rừng ập đến. Mưa như trút
nước. Mưa sầm sập từ ngày qua đêm. Đập nước lại đầy. Cả đoàn ngồi khóc.
Anh Mẫn một lần nữa lại phải cầu xin những người giữ đập xả nước. Lần
này, đích thân anh lặn xuống vực nước sâu hơn 4m ùng ục réo để nâng từng
tấm gỗ chắn lên. Mọi người ngồi trên bờ sợ thót tim. Chỉ sơ sểnh một
tý, cái xác thân vạm vỡ của anh sẽ bị dòng nước cuồn cuộn gào thét cuốn
phăng. Nhưng cuối cùng, sức người, nói đúng hơn, lòng người đã thắng.
Vài ngày sau, nước rút cạn.
Bích Hằng đang ngồi trò
chuyện với các vong linh LS
Việc xác định các mốc: gốc cây lớn đã
cưa cụt, đường xuống suối cũ, sườn đồi liên quan tới khu vực trạm trung
phẫu đều khớp với những dự báo của Bích Hằng từ đợt trước. Về vị trí mộ
cũng đã được xác định và cắm cọc từ đợt đó. Vậy mà 4 ngày đào bới cật
lực vẫn không thấy dấu vết gì. Mọi người trong đoàn đều hoang mang. Anh
Mẫn cũng nản lòng.
Đầu giờ chiều, vừa ăn cơm trưa xong,
đoàn đang chuẩn bị đào bới một lần nữa thì mây đen từ đâu ùn ùn kéo đến.
Cả khu rừng tối sầm. Bầu trời đen kịt. Anh Mẫn quỳ sụp xuống lạy bốn
phương, vừa lạy, vừa khóc. Lần đầu tiên anh khấn trách: “Cháu vào đây
làm những việc chưa ai từng làm để tìm anh cháu và các chú, các bác. Vậy
mà các bác không thương cháu. Lần này cháu lại phải về không rồi”. Đang
tuyệt vọng than vãn như vậy thì bất ngờ, một tiếng reo to như thức tỉnh
cả núi rừng: “Chú Mẫn ơi! Tìm thấy rồi”. Người cất tiếng reo vui ấy là
Quang, một tân binh vừa tròn 20 tuổi. Cả đoàn hăm hở đào liên tục trong
hai tiếng đồng hồ. Và đây rồi, các anh đã hiện ra. 8 bộ hài cốt nằm
thành hai hàng, cách nhau 0,5m đều tăm tắp. Tiếng khóc xen lẫn tiếng
cười cứ hoang hoải buông trong buổi chiều tàn giữa rừng sâu thăm thẳm.
37 năm vùi sâu dưới lòng nước
bạc, hài cốt các anh còn ít quá!
Khi đoàn làm lễ đưa các liệt sĩ lên xe
về huyện đội K’Bang, trời giăng mưa trắng xoá. Thế là, sau 37 năm nằm
lạnh lẽo dưới lòng nước bạc, không một nén hương tàn, không một lời thăm
viếng, các anh lại trở về trong vòng tay đồng đội, trong niềm xúc động
nghẹn ngào của người thân, gia đình.
Ngày đưa anh Thành về nghĩa trang quê
nhà (xã Xuân Trung, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định) trong không khí
long trọng và trang nghiêm cũng là ngày nước mắt mặn mòi của người mẹ 84
tuổi đổ thật nhiều. 37 năm vò võ đợi tin con. 9 lần phấp phỏng chờ Mẫn
vào Tây Nguyên đưa Thành về là 9 lần mẹ mừng huỵt, 9 lần mẹ khóc oà tức
tưởi. Tưởng vĩnh viễn đời này, kiếp này mẹ mãi mãi mất Thành. Nên lần
này, mặc dầu Mẫn điện về thông báo đã tìm được hài cốt anh Thành, chính
quyền và nhân dân huyện Xuân Trường đang khẩn trương chuẩn bị đèn, hoa,
kèn, trống để tổ chức đón nhận và làm lễ truy điệu cho anh, mẹ vẫn hồi
hộp, thấp thỏm không yên. Mẹ sợ trái tim già nua không đủ sức chịu đựng
trước trò đùa của tạo hoá lần nữa. Đầu giờ chiều, mẹ đã ra gốc đa đầu
làng ngồi chờ. Đêm xuống, sương giăng lạnh, mẹ vẫn lặng câm ngồi như hoá
đá. 37 năm, gần 14 nghìn đêm thâu mẹ đã chờ đã đợi. Giờ chờ thêm một
đêm nữa có sao. Cho đến 1h sáng, khi chiếc xe trở Thành vừa đỗ, mẹ cuống
cuồng lao đến, giang vòng tay gầy guộc ôm trùm lên chiếc tiểu sành phủ
lá cờ tổ quốc. Mẹ khóc nấc lên. Ôi! Đứa con yêu của mẹ! Da thịt của mẹ!
Máu xương của mẹ! Ngày tiễn con đi mẹ lén lau dòng nước mắt. Giờ đón con
về nước mắt mẹ lại tuôn rơi. Có điều, nước mặt mẹ bây giờ mặn chát,
chất chứa cả một đời thương đau.
Mẹ LS Thành: “Ôi! đứa con yêu
của mẹ!”
Nỗi băn khoăn được giải toả
Có một niềm băn khoăn, day dứt kể từ
buổi trò chuyện với liệt sĩ Ngô Trọng Đãi trong buổi chiều ngày 26 tháng
3 năm 2002: “Nếu không đi Vĩnh Thạnh, chuyến đi của cậu sẽ chẳng còn ý
nghĩa gì”. Mãi sau này, anh Phạm Văn Mẫn mới giải toả được. Chuyện là,
được tin anh Mẫn tìm được nhiều hài cốt liệt sĩ ở trận đánh K’Nak, gia
đình ông Phạm Văn Minh (cùng quê Nam Định) đã tìm gặp anh Mẫn, đề nghị
giúp đỡ tìm mộ em trai là liệt sĩ Phạm Xuân Ninh cũng hy sinh trong trận
đánh đó. Anh Mẫn và nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng vui vẻ nhận lời.
Ngày 18 tháng 1 năm 2003, đoàn xuất phát
từ Hà Nội. Trời cuối đông rét cắt da, cắt thịt, cộng với mưa rừng khiến
cuộc tìm kiếm vô cùng gian nan. Cuối cùng, Bích Hằng cũng tìm được hài
cốt liệt sĩ Phạm Xuân Ninh gần rừng le phía bờ suối cạn. Hài cốt liệt sĩ
còn đủ với các đặc điểm được gia đình ông Phạm Xuân Minh công nhận.
Trên đường trở ra Hà Nội, anh Mẫn đề nghị đoàn đi vòng đường Vĩnh Thạnh,
cách K’Nak khoảng hơn 60km. Đến nghĩa trang huyện Vĩnh Thạnh, anh Mẫn
dẫn mọi người tới một ngôi mộ có bia đề tên: Liệt sĩ Phạm Văn Thành
(Miền Bắc). Anh Mẫn kể: Từ năm 1995, ông đã đến đây nhiều lần thắp hương
và khóc thương người anh của mình nhưng trong lòng vẫn nghi ngờ. Nay
lại tìm thấy hài cốt anh Thành ở suối Đắc-lốp. Vậy ngôi mộ này là thế
nào?
Bích Hằng làm lễ và thực hiện cuộc trò
chuyện với người dưới mộ. Liệt sĩ cho biết đúng tên là Phạm Văn Thành
nhưng hy sinh tháng 6 năm 1966 tại trạm xá 210. Quê ở Aí Mộ, Bồ Đề, Gia
Lâm (Hà Nội). Nay liệt sĩ còn người anh là Phạm Văn ất khoảng 80 tuổi.
Anh Mẫn lập tức điện thoại ra Hà Nội nhờ người đến Aí Mộ để xác minh. Và
thật bất ngờ, những thông tin trên hoàn toàn chính xác. Ông Phạm Văn ất
hiện vẫn còn nhưng do hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không có điều kiện
vào thăm và đưa hài cốt em mình về quê được. Đến đây, nỗi băn khoăn,
vướng mắc bao ngày, anh Mẫn mới giải toả hoàn toàn. Điều đó, càng khiến
ông biết ơn vong linh liệt sĩ Ngô Trọng Đãi.
Hành trình tìm kiếm còn dài
Anh Mẫn: “Chừng nào còn sức,
còn tiền là tôi còn đi tìm kiếm hài cốt các LS”
Tìm được hài cốt anh Thành, hơn thế, đưa
được anh trở về quê hương, ước nguyện một đời của anh Mẫn đã hoàn
thành. Nhưng đêm đêm, anh vẫn thảng thốt giật mình khi chợt nhớ, ở núi
rừng K’Bang heo hút, giá lạnh, vẫn còn đó những đồng đội của anh Thành
thân xác đang nằm dưới chuồng lợn, nhà xí, dưới hồ sâu, cỏ hoang. Không!
Anh phải đi, phải tiếp tục đi tìm cho tới khi tất cả các liệt sĩ được
về yên nghỉ tại nghĩa trang. Không thể để cho các anh hy sinh thêm một
lần nữa. Và thế là, cứ một năm vài lần, tạm gác lại khối công việc đồ sộ
của giám đốc S.phone Hà Nội, anh cùng nhiều cựu chiến binh một thời vào
sinh ra tử, lại khoác ba lô đưa các nhà ngoại cảm vào K’Bang tìm kiếm
hài cốt. Thành quả của những chuyến đi ngược ngàn ấy là hơn hài trăm hài
cốt liệt sĩ đã được tìm thấy và quy tập tại nghĩa trang huyện K’Bang.
Điều ấy, khiến anh Mẫn vui lắm. Anh bảo: “Chừng nào còn sức, còn tiền là
tôi còn đi”.
Để kết thúc bài viết bày, chúng tôi
xin được mượn những vần thơ đong đầy nước mắt mà nhà ngoại cảm Phan Thị
Bích Hằng đã đọc trong buổi chiều mưa rừng mịt mù tiễn đưa linh hồn liệt
sĩ Ngô Trọng Đãi về quê hương. Đây được xem như những nén tâm nhang
chứa chan lòng biết ơn và cả niềm tiếc thương vô hạn đối với những chiến
sĩ đã hy sinh thân mình vì nước mà xác thân còn vùi sâu dưới nước lạnh,
cỏ hoang, trong sự thờ ơ, lãng quên vô cảm của người đời.
Cầu xin cho linh hồn các anh được siêu
thoát.
Lời ru ngọn cỏ
Cỏ xanh bên mộ khẽ ru
à ơi! Rừng đã vào thu lá vàng
Người ơi dù có muộn màng
Dẫu chưa về được nghĩa trang quê nhà
Nơi đây nhiều cỏ, ít hoa
Hãy say giấc ngủ như là tuổi xanh
Mặc ai xây mộng viễn hành
Mặc ai ngắt lá, bẻ cành, rung hoa
Đất này dù đất miền xa.
Thân thương như đất quê nhà người ơi!
Lá vàng lại lá vàng rơi
Lẻ loi lại vắng xa nơi đất rừng
Ru người giữa chốn mông lung
Giọt sương cũng muốn đọng ngưng nỗi
niềm
Dấu chân đã trải trăm miền
Về đây ấm với Tây Nguyên nghĩa tình
Người hy sinh, đất hồi sinh
Máu người hoá ngọc lung linh giữa đời
Thương đau ru đến muôn đời
Và xanh xanh mãi những lời ru êm
à ơi! Ai nhớ ai quên
Thì đây cỏ biếc vẫn bên mộ người.
K’Bang ngày 2 tháng 4 năm 2002
Phan Thị Bích Hằng
Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh:
Thượng Tướng Nguyễn Nam Khánh
và tác giả
“Trong suốt hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, chưa có trận đánh nào chúng ta bị tổn thất nặng
nề như trận đánh căn cứ biệt kích của địch ở K’Nak năm 1965. Việc tổ
chức tìm kiếm hài cốt liệt sĩ ở đó là rất tốt, góp phần thực hiện chính
sách của Đảng, đồng thời sẽ có thêm kinh nghiệm để chỉ đạo việc tìm
kiếm hài cốt liệt sĩ trên phạm vi cả nước. ở riêng Quân khu 5, có khoảng
10 trận đánh tổn thất như thế này”.
Thiếu tướng Châu Khải Địch: “Số
lượng anh em hy sinh quá lớn. Nếu tính cả dân quân du kích địa phương,
số hy sinh trong trận này lên tới hơn 1.000 người. Lại bị chôn tập thể.
Nhiều chiến sĩ bị địch chất đống đổ xăng đốt mất xác nên dẫu tìm kiếm
hết sức cũng không thể nào hết được. Cần xây dựng đài tưởng niệmi để
chính quyền, nhân dân địa phương, gia đình thân nhân liệt sĩ đến viếng
thăm”.
Ông Phan Minh Túc – chủ tịch
huyện K’Bang:
Với sự giúp đỡ tận tình, đầy trách
nhiệm của các đồng chí lãnh đạo Bộ quốc phòng, Bộ môn cận tâm lý – Trung
tâm nghiên cứu tiềm năng con người, đồng đội và thân nhân liệt sĩ, đặc
biệt là nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng và gia đình ông Phạm Văn Mẫn đã
giúp cho huyện K’Bang tìm kiếm, cất bốc, quy tập và đưa vào an táng tại
nghĩa trang huyện hơn 200 hài cốt liệt sĩ. Hiện nay, nghĩa trang liệt
sĩ K’Bang đã bị quá tải. Việc tìm kiếm vẫn tiếp tục. Chúng tôi đang
chuẩn bị mở rộng nghĩa tranh để thời gian tới, có thể quy tập thêm nhiều
hài cốt liệt sĩ. Chúng tôi cũng tha thiết đề nghị Bộ lao động thương
binh và xã hội sớm có kế hoạch và kinh phí đầu tư cho địa phương triển
khai xây dựng Đài tưởng niệm các liệt sĩ trong trận đánh đồn K’Nak trong
năm 2006 và đầu năm 2007, kịp khánh thành vào dịp kỷ niệm 60 năm ngày
thương binh liệt sĩ 27 tháng 2 năm 2007.
* Trong bài viết này, chúng
tôi có sử dụng một số tư liệu của Bộ môn cận tâm lý, Trung tâm nghiên
cứu tiềm năng con người.
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật
Giáo Việt Nam Net)