Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
Phật giáo và Môi trường
17/10/2010 14:13 (GMT+7)

Thế giới ngày nay đang nói nhiều về tình trạng khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng đạo đức và nghiêm trọng hơn là khủng hoảng môi trường. Những cơn mưa acid, hiệu ứng nhà kính, lũ lụt liên miên, đất canh tác dần dần bị sa mạc hóa và tầng ozone bảo vệ bầu khí quyển hầu như mất tác dụng là những mối hiểm họa đang đe dọa sự sinh tồn của quả đất và con người. Một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên hiểm họa này là việc khai phá rừng và tận dụng quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên của nó.

Rừng là nơi cộng trú của nhiều loài động, thực vật khác nhau. Các loài động vật thường sống hài hòa và phụ thuộc vào thiên nhiên theo chu trình sinh thái. Giống như động vật, loài người cũng tùy thuộc vào môi trường sống và trở thành một yếu tố môi trường đối với những thành viên khác trong một hệ thống cân bằng sinh thái.

Vào thời tiền sử, loài người sống cộng sinh và hòa hợp với thiên nhiên. Họ cư trú trong rừng, hang động và những nơi có nguồn nước tự nhiên. Thiên nhiên cung cấp cho họ những nhu cầu cần thiết về thức ăn, chỗ ở, y phục và thuốc men. Hầu hết những dụng cụ của họ đều làm bằng đá và gỗ rất thô sơ. Họ không có máy móc và thiết bị hiện đại để tiện nghi cuộc sống như chúng ta ngày nay, nên rừng vẫn còn giữ được trạng thái nguyên sinh. Dần dần con người khám phá ra lửa và biết sử dụng đồ kim khí. Họ bắt đầu chăn nuôi gia súc, trồng trọt hoa mầu, xây dựng nhà cửa và sống tụ tập thành những cộng đồng nho nhỏ. Khi nền văn minh thiết lập, con người biết tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên chế tạo ra nhiều vật dụng để đáp ứng và phục vụ cho đời sống mới. Cuộc sống văn minh bao nhiêu, nhu cầu tiện nghi đòi hỏi càng nhiều, khoa học kỹ thuật phát triển càng nhanh, thì các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị tận dụng và khai thác cho đến cạn kiệt.

Trong lịch sử nhân loại, chưa bao giờ con người thành công rực rỡ trong việc chinh phục thiên nhiên, nhưng cũng chưa bao giờ con người gánh chịu nhiều thiên tai, hiểm họa như ngày nay, bằng chứng là gần đây nhứt, tại miền Nam Việt Nam , thiên tai lũ lụt đã gây vô lượng, vô sốthiệt hại về người và của cải. Đây là một tiến trình xảy ra tương ứng theo lý duyên khởi của Phật giáo phù hợp với khoa học tự nhiên về môi trường sinh thái. Vì ở vùng Tây Tạng, tình trạng rừng không được bảo vệ một cách kỷ lưởng và triệt để nên lượng nước băng mặc tình chảy xuống đồng bằng một cách trọn vẹn. Chính vì vậy mà các nước phụ cận, lệ thuộc vào khu vực dãy Hi-mã-lạp Sơn như Việt Nam, Lào , Campuchia v.v. . . đã bị ảnh hưởng lũ lũt trầm trọng. Thiên nhiên, đặc biệt là rừng cung cấp cho con người nhiều nguồn sống cần thiết, nhưng khi bị tận dụng quá mức, rừng mất khả năng phục hồi đưa đến tình trạng mất cân bằng sinh thái, và tạo nên những thảm họa không lường được!.

Theo tài liệu nghiên cứu của các nhà sinh thái, ngoài khả năng tự phục hồi và tái tạo, rừng còn có chức năng điều hòa khí hậu, làm màu mỡ đất đai, ngăn ngừa lũ lụt, lưu giữ và cung cấp những lượng nước cần thiết cho mọi loài. Cây xanh qua quá trình quang hợp trao đổi diệp lục tố, nhã ra những lượng oxy cần thiết, tẩy sạch khí độc carbon và thường thoát ra hơi nước làm cho bầu không khi tươi mát trong lành. Những khu đất rộng lớn ít cây xanh bao phủ thường là những môi trường sống khô cằn không lành mạnh. Do đó, bảo vệ rừng và trồng nhiều cây xanh là vấn đề cần thiết nhất, để giữ môi trường trong sạch và cân bằng sinh thái. Nếu rừng bị khai phá quá mức, sẽ đưa đến những hậu quả tai hại như đất đai bị xói mòn, lũ lụt và hạn hán thường xuyên xảy ra. Một khi rừng được bảo vệ, nó trở thành nguồn tài nguyên thiên nhiên thiết yếu cho chúng hữu tình, có khả năng ngăn chặn những cơn gió lốc thổi mạnh, và làm dịu bớt khí hậu nóng, hay lạnh. Khi mùa mưa đến, những giọt mưa đầu tiên thường rơi trên những tán lá, rồi mới chảy xuống mặt đất, ngấm dần qua lớp lá mới rơi, đến lớp rác rưỡi mục nát, lớp đất mùn và thấm sâu xuống lòng đất tạo thành những mạch nước ngầm. Trái lại ở những vùng rừng bị đốn phá trơ trọi, nước mưa rơi thẳng vào mặt đất tạo thành những dòng chảy xiết, cuốn phăng tất cả những lớp đất mùn màu mỡ được hình thành cả hàng trăm năm. Những dòng chảy xiết này tạo thành lũ lụt phá hủy đời sống và mùa màng ở những khu vực hạ lưu. Dòng nước chảy mạnh còn gây ra nạn sụt lỡ đất đai và những tai họa khác ở bất cứ nơi nào nó chảy qua. Hơn thế nữa, khi tất cả nước mưa đều trôi theo dòng lũ, mặt đất mất đi tính đàn hồi, khô cằn nhanh chóng sau cơn mưa, và nạn hạn hán tất yếu sẽ xảy ra đúng theo lý duyên sanh của Phật giáo: "cái này có thì cái kia có; cái này sanh, thì cái kia sanh."

Đức Phật ra đời và thành đạo không gì hơn là vì lòng thương tưởng đến chúng sanh đang khổ đau do ba độc tham, sân, si hoành hành. Do lòng tham muốn thỏa mãn nhu cầu vật chất, con người phải chịu nhiều thảm họa khổ đau. Muốn chấm dứt đau khổ, con người phải sống đúng theo chánh pháp, tức sống theo qui luật tự nhiên hay luật nhân duyên sanh khởi. Theo qui luật này, con người, loài vật, cỏ cây cùng tồn tại trong mối liên hệ hổ tương và tùy thuộc lẫn nhau. Thiên nhiên cung cấp môi trường sống cho loài người và động vật. Ngược lại loài người phải có ý thức bảo vệ thiên nhiên để giữ môi trường trong sạch và cân bằng sinh thái.

Cách đây trên 2.500 năm, thấm nhuần tiến trình nhân duyên sanh diệt, người Phật tử đã ý thức được nhu cầu cần thiết trong việc gìn giữ và bảo vệ thiên nhiên. Đấng đạo sư của tăng đoàn Phật giáo là bậc được sanh ra và trưởng thành trong cung vàng điện ngọc, nhưng ngài đã từ bỏ vật chất giàu sang và tiện nghi tạm bợ nơi hoàng cung để tìm kiếm một cuộc sống cao thượng có ý nghĩa hơn. Trên con đường tìm chân lý, Ngài sống và tu tập trong những khu rừng. Cuối cùng ngài chọn cây Bồ-đề làm nơi cư trú để phát triển tâm linh và chính nơi đây ngài đã chứng đạt đạo quả vô thượng chánh đẳng, chánh giác. Sau khi chứng ngộ, Đức phật cùng chư đệ tử vẫn thích sống nơi núi non rừng rậm, hang động, và cư trú dưới những cội cây. Ngài khuyên chư đệ tử không nên đốn phá cây cối, cho dù là chặt cành hay bẻ lá. Điều này được chứng minh rất rõ trong một đoạn kinh như sau: "Cây xanh cho chúng ta bóng mát trong lành, giúp chúng ta có nơi ngủ nghỉ qua đêm hay ngồi thiền định. Chặt cành hay bẻ lá của cây đều là hành vi phi đạo đức." Đức Phật còn chế giới không được ném bỏ rác rưởi hay khạc nhổ trên nước, vì sẽ làm ô nhiễm môi trường. Điểm nổi bật này được dạy chu đáo trong Hai Mươi Bốn Oai Nghi và được nói rõ trong Oai Nghi Thứ 9 của một vị Sa-di theo truyền thống Đại thừa của Trung Quốc và Việt Nam. Điểm nổi bật và vô cùng quan trọng nữa nhằm nói lên tính nhân đạo của Đức Phật là vào mùa mưa, Ngài dạy tăng đoàn tìm chỗ an cư thích hợp để tránh việc đi ra đường dẫm đạp lên cỏ non và giết hại côn trùng. Điều này, chẳng những chứng tỏ thái độ tôn trọng sự sống muôn loài vạn vật của Đức Phật mà còn biểu hiện lòng từ mẫn vô biên của Ngài đối với tất cả chúng hữu tình!!!

Thực hiện lời Phật dạy, người Phật tử chúng ta nên bắt tay vào việc trồng cây xanh tạo thêm bóng mát đễ kích thích xã hội làm sạch môi trường. Mỗi người một tay, mỗi người một cây, mỗi chùa một khuôn viên xanh nhỏ thì lo gì không có những vườn cây xanh tươi mát cho thế hệ ngày mai!

***

Phỏng viết theo tài liệu "Môi Trường và Phật giáo" trong Bộ Bách Khoa Tự Điển về Sinh Thái, Môi Trường và Ô Nhiễm Môi Trường, tập 3, do M. C. Chitakara chủ bút, nhà xuất bản Aph Publishing Corporation, năm 1998.

Thích Thiện Hữu (VN)
daophatngaynay.com

Các tin đã đăng:
Về đầu trang