Kinh điển đạo Phật chấp nhận sự tiện nghi vật chất
bằng những nỗ lực chân chánh, vốn đóng vai trò quan trọng trong việc
mang lại đời sống tốt đẹp và hạnh phúc.
1. TỔNG QUÁT
Không giống những tôn giáo khác và những lý thuyết hiện
đại về kinh tế học, đạo Phật cho rằng kinh tế học gắn liền
với đạo đức học và lý thuyết về hành vi (kamma). Mặc dù nhiều
nhà kinh tế xem kinh tế học là một khoa học “tích cực” của
một loại hiện tượng xã hội, nhưng dưới cái nhìn của đạo Phật, kinh
tế học có quan hệ đặc biệt với đạo đức học. Lý thuyết kinh tế học
của đạo Phật nhấn mạnh quan điểm về sự chủ tâm (cetan(, tác
ý) trong việc giải thích tư cách đạo đức con người. Trong bài
này, tác giả cố gắng giải thích vài khái niệm quan trọng
trong kinh tế học như đã được mô tả trong kinh điển đạo Phật
để cho thấy rằng đạo đức học đóng một vai trò quan trọng
trong kinh tế học và do đó có một tầm quan trọng lớn đối với
kinh tế học và ngược lại.
2. CƠ SỞ KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO VỀ KINH TẾ HỌC
Mặc dù những mối quan tâm thực tiễn của Đức Phật không nhằm mang lại
cuộc cách mang kinh tế, nhưng những giáo lý của Ngài có đề
cập đến những khía cạnh đạo đức của kinh tế học. Là một tôn
giáo đạo đức chủ trương sự tiến bộ đạo đức và sự phát triển
tâm linh của những cá thể trong xã hội, Phật giáo thấy rõ
rằng những khía cạnh đạo đức của thái độ ứng xử của con người
liên quan đến kinh tế học như một yếu tố quan trọng nhất,
còn hơn cả lý thuyết kinh tế học. Mặc dù không có lời dạy
trực tiếp nào về kinh tế học trong những kinh điển Phật giáo, nhưng
những lời dạy của Đức Phật về bốn nhu cầu (paccaya) – ăn
(pi((ap(ta), mặc (c(vara), ở (sen(sana) và thuốc men
(bhesajja) xuất hiện khắp trong các bản kinh đạo Phật đều có
liên quan đến kinh tế học. Nói cách khác, không có một lý
thuyết kinh tế học bao quát trong các kinh điển Phật giáo
nhưng người ta có thể tìm thấy rãi rác đây đó trong giáo lý
Đức Phật một số những quan sát chỉ dẫn và những quy định liên quan đến
những khía cạnh đặc biệt của kinh tế mà đến nay vẫn còn có
liên hệ đến những học thuyết kinh tế học hiện đại. Những lời
dạy xưa nhất của Đức Phật có liên quan đến kinh tế học là
kinh Cakkavatthis(han(da (Chuyển Luân Vương) [1] và kinh K((adanta.[1] Nghiên cứu tỷ mĩ về hai kinh này cho thấy một mặt đạo
đức học và kinh tế học, và mặt khác là sự quan trọng về mặt
đạo đức xã hội của kinh tế chính trị là có quan hệ với nhau.
Ngoài việc đề cập đến bốn nền tảng chánh niệm (satipa((h(na) và những
nguyên tắc điều hành quốc gia bằng một chế độ quân chủ phổ
quát, kinh Chuyển Luân Vương còn nhắm đến đạo đức trong sự tiến bộ vật chất của loài người. Kinh dạy
chúng ta rằng sự nghèo nàn đưa đến nạn trộm cắp và phá huỷ những định
chế xã hội, và điều này tới phiên nó lại đưa đến sự suy thoái
đời sống cá nhân và xã hội. Nó chỉ ra rằng sự phân phối sai
hàng hoá và của cải làm phá vỡ toàn bộ cấu trúc xã hội và
kinh tế của quốc gia. Nó còn cho thấy rằng để mang lại sự cải
tiến trong phẩm chất cuộc sống, những giá trị đạo đức nên
được tôn trọng và thực thi. Với quan điểm thực nghiệm khi
tiếp cận kinh tế học, kinh K((adanta phê phán nhà nước trong
việc phung phí tài sản quốc gia vào những hội hè lễ lạc vô
ích trong khi đất nước đang phải chịu đựng những bất lợi xã hội do nạn
khủng hoảng kinh tế gây ra. Ở đây Đức Phật kể lại một nhà vua
giàu có trong kiếp trước muốn làm tế lễ, hầu mong mang lại
hạnh phúc cho mình trong tương lai cũng như cho xứ sở, phù
hợp với những hành trì của bà-la-môn giáo. Nhà vua hỏi người
cố vấn của mình, lúc đó là Đức Phật trong một kiếp quá khứ,
làm cách nào để thực hiện điều đó một cách có hiệu quả. Người
cố vấn chỉ ra rằng vương quốc đang bị tàn phá do nạn trộm
cắp, cướp giật, buôn lậu. Tình huống sẽ trở nên tồi tệ hơn nếu
thực thi những việc hành hình, trừng phạt hay những biện pháp đàn áp,
vì những kẻ sống sót sẽ tiếp tục gây rắc rối.
Theo kinh này mô tả, bổn phận đạo đức của nhà vua hay chính phủ là
đề ra những chương trình xoá đói giảm nghèo: nên phát ngũ cốc
và giống cho những người làm nông và chăn nuôi gia súc, nên
phân phát vốn liếng cho những người buôn, và phát tiền lương
thích đáng cho những người làm việc chính phủ. Về mặt quản lý
kinh tế, một đất nước lý tưởng có thể được định nghĩa là một
quốc gia trong đó sự nghèo nàn được xoá bỏ, sự rối loạn trật
tự xã hội được vãng hồi rõ ràng, trong khi hoà bình và tiến
bộ đạo đức chiếm ưu thế. Trong những kinh này, đức Phật gián
tiếp đề cập đến công ăn việc làm, sản xuất phân phối, tiêu thụ và phát
triển kinh tế cá nhân hay quốc gia để nuôi dưỡng hạnh phúc vật
chất của con người. Những kinh này thường được một số lớn
Phật tử ở thế kỷ hai mươi đọc tụng, xem như những xuất xứ
quan trọng của lời Phật dạy về kinh tế học, hoặc đạo đức kinh
tế cho cả người quản lý lẫn người cộng sự. Những nguồn gốc
rãi rác khác của giáo lý Đạo Phật về kinh tế học rất nhiều và
sẽ được đưa ra khi nó có liên hệ đến bài thảo luận.
3. PHƯƠNG THỨC TẠO RA CỦA CẢI
Là một tôn giáo trung đạo, đạo Phật không xem của cải là
điều xấu, cũng không xem nó là cứu cánh trong tự thân của nó.
Tuỳ thuộc vào phương cách nó được tạo ra và mục đích con
người sử dụng nó, của cải sẽ được khuyến khích hay bị lên án.
Đối với người Phật tử, vấn đề không phải ở chỗ người ta nên có bao
nhiêu của cải, mà là cách thức họ sở hữu và sử dụng của cải thế
nào. Nếu của cải được tạo ra bằng những con đường phi pháp và
phi đạo đức, và được sử dụng cho những hoạt động chống lại
xã hội, hoặc ngay cả cho nhu cầu xa xí, đạo Phật xem của cải
như thế là điều xấu ác. Nếu của cải được làm ra do nỗ lực
chân chánh, dùng để mang lại an lạc và hạnh phúc cho chính
mình, cho gia đình mình và vì lợi ích cho xã hội, nó được coi
là một phương tiện quan trọng để tạo một cuộc sống tốt đẹp và
một cuộc sống đạo đức có thể được. Trong Kinh, đức Phật nói như sau:
Sự phát triển trong điền sản, trong của cải và ngũ cốc,
nơi người bạn đời và con cái, nơi người làm công và nơi súc
vật gồm trong mười sự phát triển mà một vị thánh đệ tử trưởng
thành trong bậc thánh, cố gắng làm để hoàn thiện mình.[1]
Nói cách khác, đạo Phật khuyến khích một đời sống chánh đáng để thiết
lập một xã hội tốt đẹp. Đoạn kinh sau đây mô tả tinh thần
tương tự:
Vì chính mình và vì mọi người, ta không làm điều xấu ác,
cũng không muốn vì những con trai con gái mình, hay vì của
cải, vì vương quốc mà làm điều xấu ác, cũng không muốn thành
công bằng những phương tiện bất thiện. Người như vậy là đạo đức, khôn
ngoan và đúng đắn.[1]
Chính từ việc này mà đạo Phật cho rằng mắc nợ là khổ[1] và không mắc nợ là nguồn gốc của hạnh phúc.[1]
Như đức Phật đã dạy rằng tâm dẫn đầu các nghiệp báo của
con người,[1] cho nên nói rằng đời sống tiện nghi hay của cải
vật chất tự thân nó là một điều xấu ác là sai lầm. Mặt khác,
đạo Phật tán thán của cải được làm ra bằng những con đường
chân chánh. Đạo Phật đề cao sự sử dụng của cải chân chánh cho
sự an lạc và hạnh phúc của chính con người, cho hạnh phúc
của cha mẹ, những thành viên trong gia đình, họ hàng, bè bạn,
người quen và cho tỳ-kheo, tỳ-kheo ni.[1] Người làm điều
thiện (kusala kamma) sẽ được giàu có trong đời này và đời sau
là một trong những điều giáo huấn tốt đẹp mà Phật tử nào cũng
biết đến.[1] Tất cả những điều này nói lên rằng đạo Phật
không phải là một tôn giáo bảo con người đừng có của cải, mà
là một tôn giáo chấp nhận của cải là một điều đáng được tầm
cầu vì nó có thể giúp ích cho một đời sống tốt đẹp. Trong số
đệ tử cư sĩ của đức Phật, Cấp Cô Độc (An(thapi((ika),[1] là
một thương gia giàu có, nổi tiếng là một người đại thí chủ của đức
Phật và tăng đoàn, thường được tán thán là một người làm lợi ích
nhiều nhất và được gọi là trưởng lão thí chủ (d(yak(nam
aggo). [1]
Tuy nhiên, đạo Phật không tán thành sự lạm dụng của cải để
xa xí, vì đó là một nguyên nhân làm mất mát của cải cũng như
đưa đến tình trạng buông lung trong lạc thú. Kinh điển Phật
giáo lên án cả hai thái độ bủn xỉn và phung phí đối với của
cải và xem những kẻ hà tiện là nô lệ, trong khi coi những kẻ
lãng phí của cải là kẻ tự huỷ hoại mình. Hai loại người này
bị coi như khó làm hài lòng[1] và khó mang đến an lạc cho
người khác.[1]
Hơn thế nữa, ngay cả của cải sanh ra bằng phương cách đạo
đức và hợp pháp, kinh điển Phật giáo cũng cảnh cáo những kẻ
trở thành nô lệ cho của cải. Chấp thủ vào của cải vật chất sẽ
là gánh nặng:
Của cải sẽ làm hỏng kẻ ngu nhưng không thể làm hỏng người
tìm kiếm bờ bên kia (niết-bàn). Vì tham lam của cải kẻ ngu
làm hỏng chính mình và làm hỏng những kẻ khác.[1]
Thái độ của người theo Phật có thể được nhìn thấy rõ ràng
qua việc chấp nhận con đường trung đạo vượt lên trên hai cực
đoan của (a) sự phóng dật trong chủ nghĩa vật chất nhằm thoả
mãn khoái lạc giác quan, và (b) sự nghèo khó, thiếu thốn mọi phương
tiện cần thiết để có đời sống đạo đức tốt đẹp. Cực đoan đầu sẽ
đưa đến nợ nần và đau khổ.[1]
Kinh Pháp Cú[1] dạy rằng “đói là căn bệnh lớn nhất.” Vì
nghèo khó được coi là nguyên nhân khuyến khích người ta nói
dối, lường gạt, sanh ra trộm cắp và phi đạo đức, làm phát
sanh sự bất ổn và rối loạn xã hội. Hơn thế nữa, trong một
tình trạng nghèo khó, người ta rất khó sống một cuộc đời đạo
đức và tâm linh, chưa cần nói đến sống một đời vì xã hội. Mặt khác,
đức Phật xem của cải vật chất là một phương tiện hỗ trợ một đời
sống đạo đức và tiến bộ trí tuệ, chứ tự thân nó không phải là
cứu cánh. Để có sống một đời đạo đức và tiến bộ tâm linh,
cần có nhiều điều kiện. Đó là (1) con người phải khoẻ mạnh,
(2) không thiếu thốn lương thực, (3) sống trong môi trường
thân thiện, và (4) tập thể hoà hợp.[1]
Một cống hiến quan trọng khác về vấn đề của cải được tìm
thấy trong kinh điển đạo Phật là khuyên người ta không nên
tiếc nuối khi của cải bị huỷ hoại hay bị mất cắp. Trong
trường hợp tăng thêm của cải, người ta nên điềm tỉnh. Thái độ đầu tiên
giúp chúng ta thoát khỏi đau khổ vì sự đổi thay
(vipari(a-dukkhat()[1] trong khi thái độ sau giúp người ta
tránh khỏi sự thoả mãn cảm giác. Thái độ quân bình như vậy sẽ
giúp cho chúng ta thoát khỏi hai cặp pháp thế gian
(lokadhamma), đó là sự được (l(bha) mất (l(bha),
và hạnh phúc (sukha) đau khổ (dukkha).[1] Khuynh hướng
chung là con người cảm thấy hạnh phúc, vui sướng và bám víu vào
điều đạt được, và đau khổ khó chịu và thờ ơ đối với điều mất
mát.
4. THÁI ĐỘ CỦA ĐẠO PHẬT ĐỐI VỚI SỰ TIÊU DÙNG
Đặt trên nền tảng thực nghiệm, đạo Phật đưa ra sự thật
rằng tất cả chúng sanh sống còn nhờ vào thực phẩm (sabbe
satt( ah(ra((hitik().[1] Vì sống nhờ vào thực phẩm nên con
người phải dùng đến những phương tiện và đường lối khác nhau,
như thiện hay bất thiện, để đối phó với nhu cầu căn bản này.
Ngược lại với những kinh tế gia hiện đại định nghĩa sự tiêu
thụ là sử dụng hàng hoá và sản phẩm để thoả mãn cảm giác hay
để làm hài lòng bản ngã, mà đúng ra là để duy trì sự khoẻ mạnh của
cơ thể, sứ khoẻ tốt để theo đuổi và đạt được cuộc sống đạo đức.
Nói cách khác, sự tiêu dùng không phải để có phẩm chất tốt
cho cuộc sống mà là để có phẩm chất tốt cho cuộc sống đạo
đức.
Khi sự tiêu thụ duy trì sự an lạc và hạnh phúc của đời sống đạo đức,
nó được xem là quan trọng cho đời sống con người. Nếu việc ăn
uống chỉ để nếm mùi vị ngon, để thoả manc cảm giác thì sự
tiêu dùng trở thành một chướng ngại đối với việc phát triển
con người. Một thái độ tiêu dùng như thế sớm muộn gì cũng sẽ
đưa đến sự bất mãn.
Theo Hoà thượng Payutto, sự tiêu dùng được coi là “một
phương tiện cho một cứu cánh, đó là sự phát triển tiềm năng
của con người”[1] hoặc là “sự an lạc nơi cá nhân, xã hội và
môi trường sinh sống” [1] Phân biệt
kinh tế học Phật giáo với kinh tế học của các kinh tế gia
hiện đại, Schumacher đã chỉ ra một cách đúng đắn rằng:
Kinh tế học Phật giáo hẳn rất khác so với kinh tế học của
chủ nghĩa duy vật hiện đại, bởi vì người theo Phật nhìn thực
chất của nền văn minh không phải trong phép tính nhân của
những nhu cầu con người mà là trong sự tịnh hoá tính cách con người.[1]
Lý do căn bản cho sự khác biệt đó là “kinh tế học Phật
giáo là một môn học có hệ thống về việc làm cách nào để đạt
những mục tiêu đã có với những phương tiện tối thiểu.”[1]
Trong khi kinh tế học hiện đại nhấn mạnh vào sự tiêu dùng tối đa. Ở
nơi khác ông nói rõ về luận điểm này như sau: “một nhà kinh tế
học Phật giáo sẽ xem phương pháp này là quá bất hợp lý bởi vì
sự tiêu dùng chỉ là một phương tiện đối với hạnh phúc con
người, mục tiêu là phải đạt được hạnh phúc tối đa bằng sự
tiêu dùng tối thiểu.”[1]
Mặt khác, Hoà thượng Payutto còn phân biệt giữa sự “tiêu
dùng chánh đáng” và “sự tiêu sai pháp”, ngài cho rằng sự
tiêu dùng chánh đáng là “làm thoả mãn cái ước muốn hạnh phúc
thật sự” trong khi “ tiêu dùng sai pháp là để thoả mãn ước muốn đối
với những cảm giác vui sướng hoặc sự thoả mãn bản ngã.”[1]
Ngài thấy rõ rằng kinh tế học hiện đại đặt căn bản trên sự giả định
về mục tiêu của con người là tìm kiếm hạnh phúc qua sự thoả
mãn lòng tham. Điều đó có nghĩa là mục tiêu luôn luôn ở phía
chân trời bởi vì lòng tham không bao giờ được thoã mãn.[1]
Tuy nhiên điều này không có nghĩa là đạo Phật chống lại sự tiêu
dùng, là cái đáp ứng được sự thoã mãn và đòi hỏi. Đạo Phật
cho rằng chỉ có sự tiêu dùng thích đáng mới làm tăng trưởng
hạnh phúc thật sự của người tiêu dùng. Điều mà đạo Phật không
tán thành là sự tiêu dùng phát sinh từ lòng tham lam, vì nó
dẫn đến những hậu quả tai hại và kéo theo sự mất mát hạnh
phúc thật sự.[1] Thú vị hơn nữa khi Schumacher nhận xét
rằngtrong khi kinh tế học hiện đại “cố gắng tối đa hoá sự
tiêu dùng bằng mô hình tốt nhất của sự tiêu dùng,”[1]
kinh tế học Phật giáo không nhấn mạnh trên những khía cạnh vật chất
đơn thuần của đời sống và sự sở hữu của cải, mà là đặt nặng
sự phát triển nội tâm của cá nhân, xem đó là một yếu tố quan
trọng trong việc phát triển xã hội, do đó không có cơ hội để
gia tăng tội phạm và sự bạo hành, rối loạn xã hội sanh ra từ
sự suy thoái kinh tế.
Đến đây thật là thú vị khi nói đến sự tiêu dùng trong chế
độ quân chủ. Theo truuyền thống, cuộc sống lý tưởng của một
tỳ-kheo hay một tỳ-kheo-ni là cuộc sống của một người có
những sở hữu tối thiểu được hỗ trợ do sự cúng dường của cư sĩ hơn là
do bất cứ nghề nghiệp nào có được. Lối sống của họ rất đơn sơ
nhưng mẫu mực đạo hạnh. [1] Tài sản cá
nhân của một tu sĩ gồm mười nhu yếu, đó là ba y, một bình
bát, một dây đai, một dao cạo, một cây kim, một đảy lọc nước, một tích
trượng và một tăm xỉa răng. Người tu được huấn luyện để hài
lòng với những sở hữu ít ỏi đó để không bị những giới hạn và
những bám víu của đời sống cư sĩ, chuẩn bị cho cơ hội lớn lao
để tu tập đạo đức và tiến bộ tâm linh.[1] Sự đơn
sơ trong tu viện của một tu sĩ được xem như đôi cánh của con
chim cần thiết cho việc bay xa:
Vị tỳ-kheo bằng lòng với thức ăn vừa đủ để bảo vệ thân
thể, và khất thực vừa đủ thức ăn cho nhu cầu của bao tử. Nơi
nào vị tỳ-kheo có thể đi đến đều mang theo những thứ này bên mình,
giống như một con chim bay xa, nơi nào nó có thể bay trên đôi cánh
của nó thì nó chỉ bay với gánh nặng trên đôi cánh.[1]
Vì phụ thuộc vào người cư sĩ cung cấp cho vật chất, đời sống của
tỳ-kheo luôn luôn đơn sơ như sự mô tả của thuật ngữ này. Sống với
những nhu cầu ít ỏi và bằng lòng với sự không sở hữu hay
những sở hữu tối thiểu sẽ giúp cho vị tỳ-kheo tránh khỏi
những sự chăm nom và lo lắng. Với tinh thần của người sống
độc thân và xả ly, các tỳ-kheo có thể dồn hết thời giờ và
năng lực cho sự phát triển đạo đức và tâm linh vì sự lợi ích
cho xã hội.
Tỳ-kheo bằng lòng với bất cứ thứ cần dùng nào miễn đó là y
áo, thức ăn khất thực được, chỗ ở và thuốc men mà họ có
được. Hơn thế nữa, vị ấy luôn luôn nỗ lực để diệt trừ những tính
chất xấu ác, đạt sự tiến bộ kiên trì và mạnh mẽ trong việc thiện và
không bao giờ rời bỏ những bổn phận của mình.[1]
Đời sống của một tỳ-kheo cũng được xem như lời bình phẩm
về những giới hạn của đời sống xa hoa có thể chịu ảnh hưởng
bởi sự buồn nãn và sa sút, phải băn khoăn lo lắng về việc mất
mát của cải, và sự tranh cãi hay tranh chấp phát sinh từ tài sản.[1]
5. SỰ ĐIỀU ĐỘ VÀ HẠNH PHÚC
Ngược lại với kinh tế hiện đại nghĩ rằng hoạt động kinh tế
là để thoả mãn tối đa những ham muốn, kinh tế học Phật giáo
hướng về sự an lạc và hạnh phúc của cá nhân và xã hội qua sự
điều độ. Tri thức và lối sống điều độ (matta((ut() trong sự
tiêu dùng và sử dụng những tài sản cá nhân là một cách tốt nhất để
giữ gìn của cải chân chánh:
Một người nam hay người nữ có đạo đức tìm kiếm điều đã
đánh mất, sữa chữa lại điều đã hư hao, ăn uống điều đôï và
rời bỏ quyền hành.[1]
Như vậy lối sống điều độ trở thành một trong những yếu tố quan trọng
trong kinh tế học Phật giáo. Theo đạo Phật, việc tu tập sự
điều độ có thể làm cho con người thoát khỏi những ham muốn vô
tận và bất thiện, và sẽ đưa đến việc kiểm soát sự rắc rối do
sản xuất quá mức và tiêu dùng quá độ. Có bốn loại điều độ để
tu tập theo bốn nhu yếu ăn, mặc, ở và thuốc men.
Về sự điều độ trong ăn uống, nhà Phật quan niệm rằng thức
ăn được xem là để dùng vào mục đích bảo hộ thân thể, đáp ứng
những năng lượng cung cầu về thể chất và tinh thần để đạt đến
đời sống cao hơn. Rõ ràng là không phải để thoả mãn sự ham
muốn, cũng không phải vì để làm đẹp:
Với sự phản tỉnh khôn ngoan, chúng ta khất thực thức ăn
không phải để vui chơi, cũng không phải vì sự quyến rũ của
mùi vị, không phải vì sự hấp dẫn, mà chỉ là để chịu đựng và
tiếp tục kiếp sống này, để chấm dứt sự lo lắng và để hỗ trợ đời sống
phạm hạnh. Nhờ sự tiêu dùng thức ăn này, chúng ta khắc phục được
những cảm giác đau đớn trước đó vì đói, và để đề phòng cảm
giác lo lắng có thể phát sinh. Như thế chúng ta sống đời
không chướng ngại, không đáng trách và sống trong sự thoải
mái.[1]
Về sự điều độ trong y phục, chúng ta được khuyên rằng áo quần được
dùng cho mục đích bảo vệ thân thể, tránh thời tiết khắc nghiệt,
để giữ thân thể khoẻ mạnh và che đậy những phần riêng tư. Nó
không được dùng cho mục đích trang sức. Kinh dạy rằng:
Phản tỉnh khôn ngoan, chúng ta sử dụng y áo để bảo vệ thân
khỏi lạnh, nóng, khỏi tiếp xúc với những con mòng, con muỗi,
gió, ánh mặt trời và loài côn trùng, và chỉ có mục đích che
dấu phần thân thể riêng tư.[1]
Về vấn đề điều độ chỗ ở, kinh điển Phật dạy rằng việc sử
dụng chỗ ở để phòng những hiểm hoạ về khí hậu và để hưởng sự
ẩn dật, trong khi dùng những nhu yếu thuốc men là để bảo vệ
khỏi những cảm giác đau đớn.[1]
Vào những ngày trai giới, người cư sĩ Phật tử cũng tu tập
đời sống xuất gia gồm có việc ăn một lần vào buổi trưa, để
dồn thời gian cho việc thiền định và tu tập lời Phật dạy. Ở
đây nên lưu ý rằng sự tu tập bốn sự điều độ trên đây mở ra
cho tất cả những ai nỗ lực vì an lạc và hạnh phúc của chính họ. Theo
tinh thần của sự điều độ, người ta cho rằng những giáo huấn của
Đức Phật về kinh tế học có thể được lập thành công thức như
sau: “hưởng hạnh phú tối đa với tài sản tối thiểu.” Nó cho
thấy sự tiêu dùng thích đáng và khôn ngoan có quan hệ lớn đến
phẩm chất đời sống kể cả sự tốt đẹp và đạo đức của cá nhân
và xã hội.
6. SỰ NGHÈO KHỔ VÀ RỐI LOẠN XÃ HỘI
Có hai giả thuyết chính về nguồn gốc tăng gia rối loạn xã
hội (dhana) theo kinh Phật đã nói, đó là lý thuyết rối loạn
xã hội do tư hữu và lý thuyết rối loạn xã hội do nghèo khổ (daliddiya).
Với lý thuyết thứ nhất, kinh Khởi Thế Nhân Bổn (Agga((a)[1]
cho rằng sự suy đồi của con người xuất hiện vào giai đoạn có
sự nghèo khổ của người dân cùng với hậu quả của sự làm biếng,
tham lam (ta(h() tiêu dùng không hợp pháp, và chủ nghĩa cá
nhân (atta) bắt đầu có mặt. Vì thiếu nỗ lực chân chính để
kiếm sống, sanh ra do sự tham lam thủ đắc nhiều tài sản hơn,
con người sanh ra trộm cắp, lừa gạt, bạo hành và điều này
mang lại sự bất ổn và rối loạn xã hội. Để mang đến công bằng,
an ninh và hạnh phúc xã hội, người dân chọn ra một người xứng
đáng nhất, về thể chất, đạo đức và trí tuệ để làm vua (mah(sammata).
Vị vua này cai trị dân đúng theo chánh pháp (dhammena jane
ra(jet(ti r(j(). Mặt khác, kinh Cakkavatthis(han(da Sutta[1]
xem sự nghèo khổ là điều kiện chính phát sinh ra những tội ác
và rối loạn xã hội. Như vậy theo hai thuyết này, sự nghèo
khổ và tham lam của cải bằng những phương tiện bất hợp pháp
hay không chánh đáng góp phần làm cho xã hội xấu ác và làm
suy sụp đất nước. Đặt vấn đề một cách khác, sự ổn định kinh
tế và đạo đức cá nhân là rất cần thiết để mang lại một xã hội
tốt đẹp và lành mạnh.
Trong “Bài pháp về nợ nần,”[1] đức Phật không khuyến khích sự nghèo khổ: “sự
nghèo khổ của người dân là sự đau khổ trong thế giới này”[1]
bởi vì người ghèo ít có cơ hội so với người khác về mặt quan hệ xã hội,
và họ có thể sống trong cảnh cực khổ, khó khăn và nợ nần.
Cũng trong bài pháp này, đức Phật khẳng định rằng “đau khổ
thay! sự nghèo nàn và nợ nần.”[1]
Theo lý duyên sinh, học thuyết cho rằng mọi điều trên thế
gian này đều có nguyên nhân và điều kiện của nó, thì tội phạm
như trộm cắp gây ra do ý định xấu ác (akusala cetan() và có
sự nghèo khó (daliddiya) làm trợ duyên. Nói cách khác, với
khuynh hướng bất thiện những kẻ không có nhu cầu căn bản của
cuộc sống sinh ra trộm cắp.[1] Như kinh
Cakkavatthis(han(da[1] chỉ ra rằng, khi sự nghèo khó trở nên
đầy dãy trong xã hội do sự phân phối sai hàng hoá, của cải và
tài nguyên, rõ ràng nó làm hư hoại cấu trúc xã hội, phá huỷ
đạo đức của xã hội, làm gia tăng tội phạm và bạo hành, và
cuối cùng đưa đất nước đến một cuộc chiến tranh trên quy mô
lớn giữa người có của và người không có. Kinh ghi rằng:
Như vậy, do việc không cấp tài sản cho người thiếu thốn,
sự nghèo khó tăng nhiều. Từ sự gia tăng nghèo khó này sẽ làm
gia tăng việc trộm cắp. Từ trộm cắp gia tăng việc dùng khí
giới. Từ sự gia tăng sử dụng khí giới, sự cướp đoạt sinh mạng người
khác gia tăng. Từ sự gia tăng sát hại đó tuổi thọ con người giảm
xuống. Sắc đẹp giảm xuống, con cái của những người có tuổi
thọ tám mươi ngàn năm chỉ còn sống đến bốn mươi ngàn năm… Như
vậy do việc hàng hoá không được ban ra… sự nói dối… nói điều
ác… sự vô đạo đức … nói lời nhục mạ … câu chuyện vu vơ… sự
tham lam phóng đảng, và tính dâm đảng đồi truỵ… cho đến cuối
cùng là thiếu tình thương con cái và sự mộ đạo, và thiếu sự
thăm hỏi đối với người trưởng tộc gia tăng… trong số những con
người như thế xuất hiện mười bài học đạo đức trong việc xử thế sẽ cùng
biến mất, tiếp đó mười bài học về hoạt động phi đạo đức sẽ
vô cùng phát triển, sẽ không có một lời đạo đức nào giữa con
người như thế và càng ít những con người đạo đức hơn nữa.
Giữa những người như thế, kẻ nào thiếu tình cảm con cái và sự
mộ đạo, và không có chút tôn trọng đối với người trưởng tộc –
đó là những người đáng để tôn trọng và tán thán - thế giới
sẽ rơi vào chỗ rối loạn… Giữa những con người như thế sự oán
cừu sâu sắc lẫn nhau là lẽ thường, sân hận dữ dội, những tư
tưởng phiền não sẽ xuất hiện, thậm chí như con muốn giết mẹ, mẹ muốn
giết con, con muốn giết cha, cha muốn giết con. Giữa những người
như vậy sẽ sinh ra một giai đoạn đấu kiếm bảy ngày, trong
suốt thời gian đó họ nhìn nhau như nhìn những con dã thú,
kiếm bén sẽ xuất hiện nơi tay, và ý nghĩ “đây là một dã thú,
đây là một dã thú” sẽ tước đi mạng sống của nhau bằng thanh
kiếm của họ.[1]
Theo nhận xét trên của đức Phật, sự nghèo khó là nguyên nhân đầu tiên
mang đến suy đồi đạo đức dẫn đến sự rối loạn trật tự và tội
phạm xã hội. Giai cấp lãnh đạo có trách nhiệm về sự gia tăng
nghèo khó, nó là mầm móng của tội phạm và rối loạn xã hội.
Điều này cho thấy sự bất bình đẳng về kinh tế giữa các cá
nhân có ảnh hưởng đến sự rối loạn và xung đột xã hội, như nói
dối, nói lời độc ác, nói lời nhục mạ, tham lam và sân hận,
hay nói chung là sự suy đồi xã hội. Nó cũng minh hoạ cho cách
nó tàn phá những giá trị và tín ngưỡng truyền thống lâu đời,
cách nó nhen nhóm lòng ganh tỵ, ghen tuông, sân hận và bạo hành, và
cách nó làm cho con người sát hại lẫn nhau. Kinh nhấn mạnh rằng
toàn bộ bức tranh nghèo khó, nói dối, trộm cắp, ghen tuông,
sân hận và bạo hành trong bất kỳ xã hội nào cũng đều do sự lơ
là của nhà lãnh đạo trong việc cung cấp sự hỗ trợ kinh tế
vững chải cho người nghèo. Sự vững vàng kinh tế là yếu tố đầu
tiên chịu trách nhiệm cho sự vững mạnh của đất nước. Điểm
quan trọng ở đây là an ninh chính trị trở thành hàng thứ yếu
đứng sau sự vững ổn kinh tế quốc gia.
Kinh K((adanta[1] nhấn mạnh trách nhiệm của nhà lãnh đạo
đối với sự gia tăng nghèo nàn và rối loạn trật tự xã hội.
Kinh đề nghị rằng thay vì tổ chức các tế lễ lãng phí để củng
cố sự an nguy của nhà vua và đất nước theo phong tục tập quán mê
tín của đạo bà-la-môn trước thời đức Phật, nhà vua nên cung cấp sự
hỗ trợ kinh tế thích đáng lẫn an ninh đầy đủ cho sự an lạc và
hạnh phúc của quần chúng. Kinh cho thấy, sự nghèo khó phát
sanh đầu tiên do sự thất nghiệp đưa đến biến động xã hội và
tội phạm. Trong tình huống này, toàn bộ đất nước bị bọn thổ
phỉ quấy rối và cướp phá. Việc đi lại trên đường trở nên
không an toàn cho tài sản và an ninh cá nhân. Vì sợ hãi do sự
mất an ninh đó người dân sống trong lo âu. Kinh mô tả rằng khi
nhà lãnh đạo không cung cấp chương trình phát triển kinh tế có định
hướng kết quả tốt đẹp, hoặc không quan tâm đến kế hoạch công
ăn việc làm dẫn đến sự an lạc cho người dân, thì sự rối loạn
và xung đột xã hội sẽ xuất hiện. Trong tình huống thuộc loại
này, việc đặt ra hình phạt thường được nhà lãnh đạo chấp nhận
không còn là biện pháp chữa trị hữu hiệu để ngăn ngừa tội
phạm phát sinh hoặc làm ngừng lại sự bất ổn xã hội. Kinh nói
rằng:
Tôi sẽ nhanh chóng làm dừng lại cơn dịch cướp bốc này bằng sự hành
hình và bỏ tù hay bằng sự tịch thu, đe doạ và trục xuất.[1]
Nhưng làm như vậy vốn không phải là giải pháp hữu hiệu và
thành công. Khi kẻ trộm cắp do nghèo khổ nghe ngóng biết được
chính sách mới của nhà vua đối với kẻ trộm cắp, họ liền tự
trang bị vũ khí bằng những lưỡi kiếm và bắt đầu cướp phá làng mạc và
thị trấn, cướp bóc của cải. Bạo lực bắt đầu tràn lan và điều này
đến phiên nó đưa dân chúng đến những xấu ác về xã hội và đạo
đức.[1]
Điểm đáng lưu ý kinh đưa ra là để diệt trừ tội phạm và
những hành động chống phá xã hội của những người bị áp lực
của cái nghèo và để mang hạnh phúc lại cho người dân cùng
phát triển đất nước, nhà lãnh đạo nên cung cấp những cơ hội kinh
tế cho người nghèo:
Bây giờ có một phương pháp được chấp nhận để làm ngưng sự
rối loạn này. Đối với những người trong vương quốc tham gia
việc canh tác mùa màng và chăn nuôi gia súc, hãy để nhà vua
phân phối ngũ cốc và cỏ khô. Đối với những người phục vụ cho chính phủ,
nên quy định tiền lương và lương thực để sống cho phù hợp.
Khi những người này theo mỗi công việc của họ, sẽ không còn
làm hại vương quốc, thu nhập hàng năm của nhà vua sẽ rất lớn,
đất nước sẽ yên ổn và hoà bình; dân chúng hài lòng nhau và
hạnh phúc để cho trẻ con của họ nhảy nhót trong tay, sẽ sống
trong nhà mà không cần đóng cửa.[1]
Kế hoạch đúng đắn có thể dập tắt những hoạt động phi pháp và mang lại
một giải pháp hoà bình, an ninh cho người dân trong đất
nước, có thể được diễn tả như sau:
(i) Nông dân và người làm nghề nông nghiệp nên được cấp
cho những phương tiện thiết yếu như hạt giống, phân bón, trâu
bò và những dụng cụ cần thiết cho nghề nông. Như vậy sản
phẩm sẽ được sản xuất nhiều hơn với chất lượng cao hơn.
(ii) Nhà buôn và doanh nhân nên được cung cấp vốn liếng
chủ yếu để họ có thể đầu tư hợp pháp với hiệu suất kinh tế
cao hơn.
(iii) Nhân viên nhà nước hay những người phục vụ trong
chánh phủ nên được trả lương thích đáng để nhổ tận gốc rễ của
việc lạm dụng chức quyền và tham nhũng.
(iv) Những người khó khăn tài chánh nên được miễn thuế để
họ có thể nhân cơ hội này mà tăng tiến công việc của họ.
Như kinh đã nói rõ, chỉ cần có kế hoạch khôn ngoan và
thích đáng về những cơ hội kinh tế, kết hợp với sự giúp đỡ có
kế hoạch tốt của nhà nước và những nỗ lực cá nhân, nhà lãnh
đạo có thể hoàn thành được bổn phận của mình để làm giảm bơt
sự nghèo khổ, mang lại hoà bình và an lạc cho người dân, mà
không phát sinh ra những loại tội ác xã hội nào hay hình phạt
như Ariyasena đã chỉ ra một cách đúng đắn:
Kế hoạch kinh tế được đề xuất trong kinh
K((adanta-suttanta nhấn mạnh vào sự cần thiết kết hợp sáng kiến cá
nhân và sự khích lệ cùng với sự giám sát của nhà nước về sự an lạc
thật sự của người dân, bảo đảm tự do cá nhân và công bằng xã
hội.[1]
Điều được chỉ ra ở đây là nhà nước nên cấp phát tư bản cần
thiết cho mục đích này, nhưng không nên dùng như sự trợ cấp
thất nghiệp cho việc tiêu dùng hàng ngày. Kinh dạy chúng ta
rằng bất cứ hành vi nào không có lòng từ thiện sẽ không phải
là biện pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề nghèo đói. Thay
vào đó, nó có thể mang đến sự gia tăng bất ổn và tội phạm xã
hội. Điều này được mô tả rõ trong kinh Cakkavattis(han(da. Khi nhà vua quan sát biết người dân vì bị áp lực của cái
nghèo nên sanh ra trộm cắp và tội phạm, Ông nên ban phát cho
họ tiền bạc, hàng hoá và dạy họ kiếm sống bằng cách kinh doanh
chân chính, để họ có thể tự giúp và giúp gia đình cũng như tham gia
vào những hoạt động phúc lợi xã hội. Ngược lại với lòng tin
tốt đẹp của nhà vua, hành động từ bi của ngài không mang lại
kết quả như mong đợi. Hơn nữa, khi những người khôn khéo và
biếng nhác nghe được điều này, họ bắt đầu dấn thân vào những
hoạt động như thế để dễ dàng có tiền. Nạn trộm cắp chỉ có gia
tăng và tình huống không còn kiểm soát được.[1]
Điều này cho thấy rằng hành vi từ bi hay lòng từ thiện không có trí
tuệ được chứng tỏ là mang đến những kết quả tai hại thay vì giải
quyết được những rắc rối. Một điểm quan trọng khác cần lưu ý
là sự phân phối đồng đều tự bản thân nó không giải quyết được
những vấn đề xã hội và kinh tế. Một lời khuyên khôn ngoan
được dâng lên nhà vua rằng những người tham gia công việc
thương mại nên được hỗ trợ tài chánh (p(bhata). Giao công
việc cho người dân nên được thực hiện theo một kế hoạch
thích đáng có liên quan đến cấu trúc kinh tế quốc gia. Ban phát việc
làm nên thích hợp với khuynh hướng, khả năng và tài khéo léo
của người thợ. Chỉ như thế sự giúp đỡ và ban phát của nhà
nước mới có kết quả và góp phần làm tiến bộ kinh tế cá nhân
và quốc gia. Nói tóm lại, để chấm dứt một cách chắc chắn sự
bạo hành và tội phạm, xây dựng một xã hội hạnh phúc và hoà
bình, kinh dạy rằng hình phạt nên được thay thế bằng cách bảo
đảm công ăn việc làm sinh lợi cho người nghèo.
7. SỰ THỦ ĐẮC CHÂN CHÁNH CỦA CẢI VÀ HẠNH PHÚC
Trong các kinh Phật giáo nguyên thuỷ[1] sự thủ đắc và gia
tăng của cải bằng những con đường chân chính và hợp pháp được
khuyến khích, vì nó cũng quan trọng như việc trau dồi đạo
đức. Một người không hề nghĩ đến việc thủ đắc của cải được so sánh với
người mù, trong khi một người không nghĩ đến gì khác ngoài
việc có tiền bạc là một kẻ chột mắt. Chỉ người nào nghĩ đến
việc thủ đắc và làm gia tăng của cải như cách y trau dồi việc
thiện và tránh việc ác mới được tán thán là người có đủ hai
mắt. Chúng ta còn được đề nghị nên tránh xa người mù cũng như
kẻ chột mắt mà của cải của họ có được bằng cách trộm cắp,
lường gạt và những phương tiện bạo lực, và nên kết giao với
người có đủ hai mắt, là người được xem là tốt nhất trong loài
người.[1]
Sự thủ đắc chân chánh của cải được kinh Phật xem là chánh
mạng (samm(-(j(va). Nó chẳng những quan trọng cho lợi ích con
người và xã hội mà còn là một trong tám yếu tố xây dựng nên
con đường đưa đến giác ngộ. Chánh mạng là những nghề nghiệp
hợp pháp, phát sinh từ nỗ lực chân chánh của con người và về
mặt đạo đức không làm tổn hại đến sự an lạc hạnh phúc của
mình và người khác. Tà mạng là những nghề nghiệp mang đến hậu quả
tổn hại xã hội, bao gồm bốn loại buôn bán:[1] khí giới
(sattha va(ijj(),[1] con người (satta va(ijj(),[1]
súc vật (ma(sa va(ijj()[1] và rượu hay thuốc độc (visa
va(ijj(). Trong tình cảnh hiện nay công việc quảng cáo cho
những nghề này hay bất cứ nghề gì khuyến khích hay phát sinh
tham, sân, si và bạo lực đều được coi là tà mạng. Trong một
kinh khác, tà mạng được định nghĩa là những nghề dựa vào hay có liên
hệ đến sự lường gạt, lừa phỉnh, nói cạnh nói khoé và giả vờ đạo
đức[1] hay những nghề nghiệp bắt phải gian xảo và trộm
cắp.[1]
Đối với Đức Phật, có bốn phương cách liên quan đến của cải
mà con người đáng bị lên án: (i) có của cải bằng nghề bất
lương (như gạt gẫm, trộm cắp, v.v…) hay những cách bất hợp
pháp, (ii) trở thành nô lệ cho của cải, (iii) bủn xỉn và
không trang trải của cải vì người khác hay vì lợi ích và sự an lạc
của người khác, và (iv) dùng của cải như một phương tiện gây tổn
hại và đau khổ cho người. Nói cách khác, đó là những thái độ
bất thiện đối với của cải (chứ không phải chính của cải) như
tham lam (lobha), chiếm đoạt, bủn xỉn (macchariya), chấp thủ
và bám víu (up(d(na) đã tạo ra rắc rối.
Kinh Phật còn khẳng định rằng sự thành công trong nghề
nghiệp đòi hỏi nhiều điều kiện đạo đức khác. Sự mô tả trong
bản kinh sau đây là một minh chứng:[1]
(i) Có tính chuyên cần (u((h(nasampad(). Có nghĩa là
người ta nên khéo léo và siêng năng trong công việc. Nếu làm
nghề nông, thương mại, chăn nuôi gia súc, binh nghiệp hay nghệ
thuật, người ta chuyên cần, làm hết sức mình và có tài khéo. Không nên
lười biếng trong công việc mà phải thông minh và say mê.
Cũng cần biết cách quản lý công việc, tận tuỵ và có trách
nhiệm.[1]
(ii) Có sự giữ gìn ((rakkhasampad(). Tức là nên chăm nom
của cải, vì của cải có được là kết quả của mồ hôi và sức lao
động, một cách chân chánh. Nhờ đó, của cải sẽ không bị đánh
mất bằng các cách a) lệnh tịch thu của nhà vua, b) bị kẻ trộm cắp lấy
đi, c) bị lửa đốt chấy, d) bị nước cuốn trôi, e) Mất mát do
người thừa kế phá của.
(iii) Kết giao với những người tốt và đạo đức
(kaly((amittat(). Tức là học hỏi và bắt chước những phẩm chất
tốt, như tin tưởng đạo đức, rộng lượng và trí tuệ của người
có đạo đức và kẻ trí.
(iv) Có một cuộc sống quân bình (samaj(vit(). Có nghĩa là
nên kiềm chế bản thân trong sự điều độ. Không phung phí thái
quá cũng không bủn xỉn. Không bị phấn chấn quá độ do sự thành
công cũng như buồn bả vì thất bại mang lại. Biết và nỗ lực làm gia
tăng của cải. Tránh chi tiêu vượt quá lợi tức. Không nên chấp thủ
và rào chặt của cải. Đồng thời cũng nên tránh bốn cách làm
suy sụp của cải, đó là: sự dâm dục quá độ, rượu chè, bài bạc
và kết giao với kẻ xấu.[1]
Là đạo từ bi, Phật giáo khuyến khích sự rộng lượng, từ
thiện và mọi hoạt động chân chánh vì xã hội. Do đó việc chia
xẻ quà biếu với người khác được xem như đóng vai trò trong
đời sống chánh mạng tích cực của người theo Phật.
Này các thầy tỳ-kheo, nếu con người có thể hiểu như Như Lai hiểu,
những kết quả của việc chia xẻ quà tặng, họ sẽ không hưởng
dụng mà không chia xẻ cho kẻ khác, cũng như họ sẽ không để sự
ô nhiễm của lòng bủn xỉn ám ảnh tâm trí họ. Thậm chí nếu họ
còn một mẫu thức ăn cuối cùng họ cũng sẽ không hưởng dụng một
mình mà không chia xẻ nó nếu có một người nào đó đang cần sự
chia xẻ với họ.[1]
Từ nhiều nguồn kinh điển Phật giáo, chúng ta thấy rằng những giúp đỡ
về tinh thần cũng giúp thêm vào sự thành công của đời sống.
Những việc này có thể được sắp xếp theo thứ tự sau:
(i) Chuyên cần và siêng năng với bổn phận và công việc.[1]
(ii) Trú ngụ ở nơi tốt đẹp, tiện lợi, và kết giao với người đạo đức và có trí.[1]
(iii) Tin tưởng vào Phật, pháp, tăng và giữ gìn đức hạnh.[1]
(iv) Tránh rượu, ma tuý, và không lãng vãng ở đường phố
vào những giờ giấc không thích hợp. Tránh đến những hội chợ,
bài bạc kết giao với những người bạn xấu và thói quen biếng
nhác.[1]
Những phẩm chất đạo đức và tâm linh này góp phần vào sự thành công của chánh mạng.
8. SỰ QUẢN LÝ KINH TẾ GIA ĐÌNH
Đức Phật ý thức nhiều hơn về sự cải thiện phẩm chất đời sống của
người dân. Sự quản lý sai lầm lợi tức kiếm được sẽ dẫn đến
khủng hoảng kinh tế và nghèo đói. Đức Phật chủ trương đời
sống quân bình giữa tài chánh kiếm được bằng phương tiện chân
chánh và những chi tiêu của con người.
Ở đây một thành viên trong gia đình biết rõ lợi tức cũng
như sự chi tiêu của cải đưa đến một đời sống quân bình, không
phấn khích hay chán nãn thái quá. Họ nghĩ: “lợi tức của tôi như
vậy sẽ vượt quá sự chi tiêu. Sự chi tiêu của tôi sẽ không vượt quá
lợi tức. Cũng như một người cầm cán cân hay người học việc
biết khi cầm cân, hoặc trút xuống nhiều quá hoặc làm nghiêng
lệch nhiều quá; cũng vậy một người trong gia đình biết lợi
tức… và vượt quá lợi tức.[1]
Lời khuyên của Đức Phật về việc quản lý kinh tế gia đình
dựa trên nhiều khía cạnh của đời sống, gồm những chi tiêu
hàng ngày, tiết kiệm gửi ngân hàng và đầu tư. Theo phương thức
này, lợi tức của một người nên được chia đều thành bốn phần: (i) một
phần tư chi tiêu hàng ngày, (ii) một phần tư gửi tiết kiệm
để dự phòng bất trắc hay cho những tình huống khẩn cấp, và
(iii-iv) một nửa để kinh doanh và đầu tư sanh lời.
[1]
Đức Phật đã đưa ra ý nghĩ cho việc đầu tư khôn ngoan một
nửa số lợi tức làm nguồn chủ yếu để bảo trì và làm gia tăng
của cải. Một phần tư lợi tức để chi tiêu hàng ngày sẽ gồm những
chi tiêu cá nhân và từ thiện xã hội, giúp cho con người khỏi khắc khe
và bủn xỉn vô ích, trong khi một phần tư lợi tức khác để
tiết kiệm ở ngân hàng sẽ giúp khỏi khó khăn trong những lúc
bị khủng hoảng kinh tế. Ở đây nên lưu ý rằng việc từ thiện
(d(na) nên cho người nghèo và đáng được cho[1] vì
từ thiện cho những người lừa đảo hay loại người chay lười được xem
là khuyến khích cho những phần tử xấu ác có cơ hội làm việc ác.[1]
Sự đầu tư được nhấn mạnh ở đây cho thấy rằng tiền không đầu
tư sẽ không có một hiệu quả phát triển kinh tế nào cho cá
nhân và xã hội. Sự đầu tư không ngoan và thích đáng là nguồn
duy nhất làm gia tăng của cải. Phương thức này giúp xây dựng
và phát triển một hệ thống kinh tế tốt đẹp đối với cá nhân và
xã hội.
Việc sử dụng của cải một cách thích đáng có thể làm cho
đời sống trở nên quân bình hơn. Việc sử dụng của cải được gọi
là thích đáng sẽ đưa đến an lạc cho cá nhân và xã hội. Những
sử dụng thích đáng ở đây bao gồm:[1] (i) bảo vệ của cải hợp
pháp của mình khỏi mất mát hay tổn hại, (ii) cúng dường cho
tăng ni, (iii) tặng cho những người họ hàng, bà con chết và
người nghèo, và (iv) mang lại hạnh phúc cho chính mình, cho
gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, người làm công và tôi tớ.
“Do sử dụng của cải đưa đến hạnh phúc bây giờ và ở đây
Do bố thí đưa đến hạnh phúc trong tương lai
Vì phung phí của cải mà không sử dụng hay vất nó đi
Chỉ còn có đau khổ. Làm sao có thể hạnh phúc? (RPR. 315).
Đức Phật cũng khuyên các đệ tử cư sĩ của Ngài cách thức
làm phát sinh của cải và sử dụng lợi tức một cách khôn ngoan,
có kết quả, và cách xử lý tốt của cải.[1]
Việc phát sinh của cải xứng đáng được tán thán khi phù hợp
với đạo đức, luật pháp và không có bạo lực. Việc tiêu dùng
sản phẩm được làm ra xứng đáng tán thán khi sử dụng nó để
được thoải mái và hạnh phúc cho chính mình, sử dụng nó vào
việc bố thí từ thiện hoặc bất cứ việc gì liên quan đến những kết quả
có lợi về đạo đức. Thái độ con người đối với của cải của họ đáng
tán thán nếu người ta không biến thành nô lệ cho nó hay bám
víu vào nó, thậm chí nếu của cải được làm ra theo những cách
hợp pháp, và dùng nó cho sự ích lợi của mình và người khác.
9. HAI LOẠI CỦA CẢI: VẬT CHẤT VÀ TINH THẦN
Như đã nói trên, một tỳ-kheo không quan tâm đến sự tiến bộ vật chất
mà phải quan tâm đến tiến bộ tinh thần. Cuộc sống lý tưởng
của họ sẽ phù hợp với con đường đưa đến giải thoát khỏi chấp
thủ và đau khổ, và không phải đưa đến sự tích luỹ của cải.[1]
Một cư sĩ Phật tử thì khác. Họ phải làm việc vất vả với
phương tiện hợp pháp và sự chân chánh để được của cải nhằm
thực hiện những công việc tốt đẹp cho chính họ cũng như cho
người khác. Nhưng họ cũng được khuyên không nên xem của cải
là một cứu cánh. Giống như hai mặt của một đồng tiền, của cải
có những giới hạn của nó:
Không phải của cải cũng không phải danh tiếng, mà chính là
những việc làm tốt đẹp, tri thức, những phẩm chất, đạo đức
và một đời sống lý tưởng mới là những tiêu chuẩn cho sự trong
sạch của con người.[1]
Đoạn kinh trên dạy chúng ta rằng mặc dù của cải là một yếu
tố quan trọng cho việc có được một cuộc sống tốt, nhưng nó
không phải là cái chí thiện của đời sống. Đời sống đạo đức
trong đạo Phật luôn luôn có nghĩa là một đời sống tốt, và một đời sống
tốt cũng có nghĩa là một đời sống đạo đức và trí tuệ, và nó có
thể hoặc không thể đi kèm với của cải vật chất. Xem đời sống
đạo đức là một đời sống tốt, đạo Phật muốn chỉ ra sự thật
rằng đạo đức, giới luật và tri thức là những nền tảng của
đời sống tốt. Toàn thế giới có thể được chứng minh rằng có
nhiều người trong đời sở hữu nhiều tiện ích và hưởng thụ sự
tiện nghi xa hoa, nhưng vẫn không là những người hạnh phúc
trong đời này, do vì thiếu trí tuệ để chứng ngộ ba sự thật
không thể phủ nhận được trong thế giới vật chất này là: tất cả các
pháp duyên sinh đều vô thường, tất cả các pháp duyên sinh đều đau
khổ và tất cả mọi hiện tượng đều hư huyễn.[1] Đoạn
kinh sau đây mô tả sự thật cay đắng này:
Ta trông thấy con người giàu có trong thế giới này: thay
vì chia xẻ của cải cho người chung quanh, họ lại làm nô lệ
cho nó; họ cất dấu nó và càng ngày càng đòi hỏi sự thoã mãn
khoái lạc giác quan.
Những nhà vua chinh phục toàn bộ đất đai, cai trị vương
quốc trải dài từ đại dương này qua đại dương kia, song họ
không hài lòng với bờ bên đây – Họ cũng muốn bờ bên kia. Cả
vua chúa và người dân thường đều phải chết giữa những ham
muốn, không bao giờ đạt đến chỗ kết thúc cho ước muốn và tham
lam. Với lòng tham không bao giờ đầy, họ vất bỏ thân thể.
Những ham muốn đối với đối tượng cảm giác trong đời này không bao giờ
được thoả mãn.
Họ hàng xoả tóc và than khóc vì người thân yêu của họ chết
đi, họ than: ôi, người thân yêu của chúng ta đã chi tay
chúng ta.” Họ quấn thi hài trong tấm vải, rồi đặt trên giàn
hoả và thiêu thành tro bụi; người đạo tỳ đẩy những chiếc que
khêu cái xác đến khi thi thể cháy hết. Tất cả những thứ mà
người chết có thể mang theo chỉ là miếng vải đơn sơ, mọi của
cải đều để lại sau lưng.
Khi giờ chết đến, không một ai hoặc họ hàng hoặc bạn bè có
thể ngăn chận trước điều không thể tránh khỏi đó. Tài sản
được những người thừa kế mang đi trong khi người chết đi theo
nghiệp của họ. Khi giờ chết đến, bạn không thể mang theo một
vật gì, thậm chí con cái, vợ chồng, của cải hay đất đai. Tuổi
thọ không thể có được do của cải, và tuổi già không thể đút lót mà có
được. Người trí nói rằng cuộc đời ngắn ngủi, không chắc chắn
và thường thay đổi.
Cả người giàu và người nghèo đều có kinh nghiệm tiếp xúc
với lãnh vực cảm giác. Cả người trí lẫn kẻ ngu cũng vậy,
nhưng người ngu vì thiếu trí tuệ nên bị cảm giác ngự trị và lừa
gạt. Còn đối với người trí, mặc dù họ có kinh qua sự tiếp xúc đó,
nhưng họ không bị khổ sở. Như vậy trí tuệ tốt hơn là của cải, vì
nó đưa đến mục tiêu cao cả trong đời này.[1]
Điều mà đoạn kinh này đưa ra ở đây là do bản chất của
chúng, của cải vật chất là những pháp duyên sinh không thể
bảo đảm sự thoả mạn đối với vật sở hữu, vì nó không chắc chắn và
vô thường. Bám chấp vào nó hay nô lệ cho nó sẽ đem đến ràng buộc và
đau khổ. Rõ ràng là của cải có thể trở thành một tài nguyên
để làm lợi ích cho xã hội đối với người trí, mặt khác nó cũng
có thể trở thành chướng ngại đối với sự phát triển của kẻ
ngu vì họ trở thành nô lệ cho nó. Đức Phật minh họa tư tưởng
này như sau: “của cải làm huỷ hoại kẻ ngu nhưng không phá
hoại được người tìm kiếm niết-bàn.”[1]
Nói cách khác, của cải và tài sản vật chất không bảo đảm
cho một cuộc sống tốt hay cuộc sống hạnh phúc, về mặt đạo đức
và tâm linh. Chính trí tuệ (pa((() và đạo đức (s(la) mới
mang đến đời sống đạo đức tốt đẹp cho con người. Thêm vào đó, bài pháp
tiếp tục cho rằng nhận xét của Đức Phật về của cải vật chất
không khác gì với nhận xét về kinh nghiệm cảm giác.
Kalupahana chỉ rõ rằng: “khi người ta nói rằng sự ràng buộc
và đau khổ là kết quả của cách chúng ta nhận thức và quan
niệm về thế giới. Nó không có nghĩa là chúng ta phải tiêu
diệt hai nguồn tri thức này và chấp nhận cái trực giác không có
cảm giác và không có khái niệm. Giải pháp nằm trong việc dập tắt cái
khía cạnh đó của nhận thức và khái niệm, nghĩa là, cái ám
ảnh gây ra sự ràng buộc và đau khổ.”[1] Một điều
cần ghi nhớ là đoạn này không có một chút ý gì cho rằng tự
thân của cải vật chất là một điều xấu ác. Đúng hơn, chính sự thủ chấp
hay thái độ sai lầm đối với của cải vật chất đã tạo ra rắc rối.
Vì lý do của cải vật chất không bảo đảm được cái hạnh phúc
chân thực và an lạc cho loài người, đức Phật kêu gọi chúng
ta nên nỗ lực đạt được tài sản tâm linh, còn gọi là của cải
thánh (ariyadhana, thất thánh tài), với giá trị vượt hẳn của cải vật
chất. Có bảy thứ của cải tinh thần hay của cải thánh: tín
(sadha), giới (s(la), hỗ thẹn tự thân (hiri), hỗ thẹn xã hội
(ottappa), đa văn (b(husacca), cao thượng (c(ga) và trí tuệ
(pa((().[1] Để chọn lựa giữa của cải vật chất và của cải tinh
thần, chúng ta được khuyên nên chọn cái sau bởi vì nó đưa
đến an lạc và hạnh phúc thật sự cho mình và người khác.
Thật vậy, một đằng là con đường đưa đến tài sản vật chất
và đằng kia là con đường dẫn đến niết-bàn. Hoàn toàn hiểu
biết điều này, vị tỳ-kheo sẽ không vui thú trong của cải có được
mà đặt mình trong chốn tịch lặng (để thực chứng niết-bàn).[1]
10. KẾT LUẬN
Nghiên cứu lời Phật dạy về kinh tế học chúng ta thấy rằng đạo Phật
không phải là một tôn giáo khắc khe vì kinh điển nhà Phật đưa
ra sự hướng dẫn sinh hoạt cho hàng cư sĩ. Kinh điển đạo Phật
chấp nhận sự tiện nghi vật chất bằng những nỗ lực chân chánh,
vốn đóng vai trò quan trọng trong việc mang lại đời sống tốt
đẹp và hạnh phúc. Mặt khác, đạo Phật không phải là một tôn
giáo khuyến khích đời sống phóng dật trong lạc thú vì điều
này sẽ đưa đến đau khổ thêm. Điều quan trọng ở đây là mặc dù
của cải vật chất có giá trị nhưng đạo Phật không coi nó là cái
chí thiện trong đời, như chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa tư bản có thể
quan niệm. Của cải chỉ có thể quan trọng hàng thứ yếu nếu và
chỉ nếu nó đưa đến an lạc, hạnh phúc và sự phát triển đạo đức
cho mình và cho người.
Khi cho rằng “nghèo nàn là sự đau khổ trên đời này”
[1] đạo Phật không phán đoán các giá trị con người hay
một quốc gia qua số lượng của cải vật chất, cũng không cho
của cải là cuộc sống tốt đẹp. Khác với một số lý thuyết kinh
tế hiện đại, đạo Phật không lên án sự tích luỹ của cải, vì
đạo Phật thấy rõ của cải tự thân nó không phải là một điều
xấu. Giá trị đạo đức của tài sản có thể được phê phán từ
đường lối hay phương cách nó được thủ đắc, và quan trọng hơn nữa là nó
được sử dụng vào mục đích gì. Sự tích luỹ của cải bằng phương
tiện bất hợp pháp và những đường lối phi đạo đức đều không
được khuyến khích. Sử dụng của cải cho mục đích làm tổn hại
sự an lạc của kẻ khác phải bị lên án.
Đức Phật không khuyến khích sự nghèo khó, bởi vì những người nghèo có
thể bận tâm với việc tranh đấu cho sự sống còn và vì vậy
không có thời giờ để hoàn thiện đạo đức của mình cũng như vì
lợi ích cho xã hội. Để của cải có thể trở thành nguồn lợi lạc
cho sự an lạc xã hội, đức Phật khuyên nên tìm kiếm của cải
bằng con đường hợp pháp và lương thiện. Nó nên được sử dụng
một cách trí tuệ để làm những việc thiện và để dự phòng cho
sự đau khổ thể chất. Điều quan trọng là người sở hữu không
nên làm nô lệ cho của cải vật chất, vì sự chấp thủ vào của cải tạo ra
gánh nặng và ràng buộc.
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là ngoài việc sử dụng của
cải như là nguồn lợi lạc cho các công ích xã hội, con người
cũng nên tu tập và nuôi dưỡng tài sản tâm linh vì nó cần
thiết cho sự tiến bộ đạo đức và đời sống đạo đức thật sự.
Bài viết tham gia hội thảo quốc tế "Phật giáo trong thời đại mới: Cơ hội và thách thức"
BẢNG VIẾT TẮT
A. Aôguttara-Nikya, I-V, ed. R. Morris, E. Hardy, C. A. F. Rhys Davids. (London: PTS, 1885-1900)
AA. Aôguttaranikya Aææhakath, (ManorathapraÏ), I-V, ed. M. Walleser, H. Kopp, (London: PTS, 1924-56)
D. Dghanikya, I-III, ed. T. W. Rhys David and J. E. Carpenter, (London: PTS, 1889-1910)
DB. Dialogues of the Buddha (PTS translation of the Dgha Nikya)
Dhp. Dhammapada, ed. K. R. Norman and O. von Hinuber. (London: PTS, 1931)
GS Gradual Sayings (PTS translation of the AÏguttara Nikya)
J. Jtaka with Commentary, I-VI, ed. V. Fausb`ll, (London: PTS, 1877-1896)
KS Kindred Sayings (PTS translation of the Saòyutta Nikya)
M. Majjhimanikya, I-IV, ed. V. Trenckner, R. Chalmers, Mrs. Rhys Davids. (London: PTS, 1888-1902)
MA. Majjhimanikya Aææhakath, I-V, ed. J. H. Woods, D. Kosambi, I. B. Horner. (London: PTS, 1922-38)
MLS Middle Length Sayings (PTS translation of the Majjhima Nikya)
S. Sa(yuttanik(ya, I-V, ed. L. Féer and Mrs. Rhys Davids. (London: PTS, 1884-1898)
SA. Saòyuttanikya Aææhakath.
Sn. Suttanipta, ed. D. Andersen and H. Smith. (London: PTS, 1913)
Vin. Vinayapiæaka, I-V, ed. H. Oldenberg. (London: PTS, 1879-83)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Kalupahana, David J. (1995) Ethics in Early Buddhism. Honolulu: University of Hawaii Press.
Payutto, Bhikkhu P. A. (1994) Good, Evil and Beyond Kamma in the Buddha’s Teaching. Bangkok: Buddhadhamma Foundation.
Schumacher, E. F. (1973) “Buddhist economics”, Small is Beautiful, HarperPerennial.