Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật
Giáo Việt Nam Net)Việc
tìm kiếm hài cốt, khi hội đủ
duyên may thì ly kỳ, huyền hoặc như những thiên cổ tích. Song nếu chưa
đủ duyên thì khó khăn như tìm bóng câu, tăm cá, khổ chủ sinh ra bất mãn,
ngán ngẩm, chán chường. Chính vì thế đã xuất hiện những luồng dư luận
trái chiều: người được chứng kiến việc tìm thấy mộ thì hết lời ngợi ca
các nhà ngoại cảm, thậm chí còn thần thánh hoá khả năng đặc biệt của họ,
người không tìm được mộ người thân hoặc cố tình không tin thì phủ nhận
sạch trơn, thậm chí còn riết róng tố cáo họ là những kẻ đại bịp, lừa
đảo.
Mong muốn có một cái nhìn chân
xác
về thế giới huyền bí này, suốt nửa năm trời đằng đẵng, tôi đã theo chân
các nhà ngoại cảm lên rừng, xuống biển, đến những vùng thậm xa xôi để
chứng kiến, ghi hình, tìm hiểu công việc làm đặc biệt của họ – tìm hài
cốt. Tôi cũng đã gặp hàng trăm nhân chứng, hàng chục các nhà khoa học đã
và đang nghiên cứu về lĩnh vực tâm linh huyền bí này để thu thập tài
liệu, chứng cứ, kiểm chứng. Thiên phóng sự đặc biệt “Những chuyện kỳ bí
về thế giới tâm linh” là kết quả của những chuyến khoác ba lô vượt rừng,
ngược suối ấy. Hàng trăm câu chuyện ly kỳ, huyền hoặc với hàng ngàn
tình tiết hấp dẫn, đầy xúc động về chuyện nghề, chuyện đời của các nhà
ngoại cảm đã được tôi ghi lại một cách trung thực, sinh động. Khởi đăng
thiên phóng sự này, chúng tôi hy vọng rằng nó sẽ giúp ích phần nào cho
các nhà nghiên cứu và những người quan tâm đến ngoại cảm trong việc vén
bức màn bí mật của thế giới tâm linh kỳ bí. Và cũng có thể, sẽ giúp cho
hàng ngàn những người mẹ, người vợ liệt sĩ sớm tìm thấy hài cốt của
chồng con mình sau mấy chục năm dằng dặc đỏ mắt mỏi mòn ngóng trông.
Bài 1: Hành trình đi tìm gần 500
hài cốt liệt sĩ ở Tây Nguyên
Cuối cùng, chúng tôi cũng có mặt ở
K’Nác, huyện K’Bang, tỉnh Gia Lai sau hành trình ngót 2 ngày đêm vượt
1.500 cây số bằng ô tô từ Hà Nội. Tây Nguyên vào tiết thu đẹp nao lòng.
Trời ngằn ngặt xanh, mây trắng lốp, nắng vàng rượi, gió mơn man. Xa xa,
dòng suối Đắc- lốp, nơi 41 năm trước đã nhuốm đỏ máu liệt sĩ vẫn rì rầm
chảy giữa cỏ lau ngút ngàn. Ngọn đồi trước mặt, nơi căn cứ biệt kích của
địch chiếm đóng xưa, nay là toà nhà 4 tầng khang trang, trụ sở của lâm
trường Kông- Hà – Nừng. Dưới chân đồi, nơi từng diễn ra trận đánh khốc
liệt, gần 500 chiến sĩ đã vùi xác, giờ chỗ là ao hồ, chỗ là nhà cửa,
chuồng trại. Chao ôi cái sự xoá nhoà khắc nghiệt của thời gian.
Đang miên man nghĩ, bất giác, tôi chợt
rùng mình khi nghe nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, người đang chắp tay
trước bàn thờ thực hiện cuộc trò chuyện với các vong liệt sĩ từ sáng,
quay sang chúng tôi nói, giọng nghèn nghẹn: “Liệt sĩ Ngô Trọng Đãi, tiểu
đoàn trưởng tiểu đoàn đặc công 409, quân khu 5 khóc ghê quá. Chú ấy
bảo: Ngót 40 năm, lâu quá rồi, thời gian đủ để xoá nhoà tất cả, kể cả
chúng tôi, những người đã hy sinh vùi xác thân vĩnh viễn nơi này. Chỉ có
các bạn là những người còn nhớ đến để đi tìm. Còn những người chúng tôi
nằm xuống xanh cỏ để cho họ đỏ ngực, để được thăng quan tiến chức thì
có bao giờ họ nghĩ đến chúng tôi đâu. Giá như họ nhớ đến chúng tôi chỉ
một chút thôi và sớm hơn một chút thôi thì giờ đây, đâu đến nỗi các bạn
phải khổ sở và nhất là chúng tôi, mấy trăm con người phải vùi thịt xương
nơi rừng xanh núi đỏ, không một nén hương tàn. Tôi không nỡ bỏ anh em ở
lại núi rừng để mà về quê dù rất thương em trai tôi. Các em ở đây chúng
còn trẻ quá. Hầu hết mới 18 – 19 tuổi đầu. Tôi phải đưa bằng được họ về
với quê. Tôi sẽ chỉ dẫn cho các bạn tìm hài cốt của họ”.
Kỳ 1: Gần trọn một đời tìm anh
Khởi hành gian nan
Nếu không có cuộc hành trình tìm kiếm hài cốt người anh thân yêu
của
giám đốc công ty S-fone Phạm Văn Mẫn thì có lẽ mãi mãi, người đời sẽ
chẳng biết gì về trận đánh khốc liệt vào trường biệt kích của địch ở
K’Nác năm xưa. Và chắc chắn, thịt xương của ngót năm trăm chiến sĩ sẽ
vĩnh viễn chìm sâu trong lòng đất, dưới đáy ao chuôm, chuồng trại, nhà
cửa. Bởi lẽ, trong hầu hết các trang sử của những đơn vị bộ đội, chẳng
có một dòng ghi chép nào nhắc đến trận đánh K’Nác tối ngày mồng 7 rạng
ngày 8 tháng 3 năm 1965 buồn thảm ấy. Bộ đội ta hy sinh quá nhiều. Máu
của các chiến sĩ đã nhuốm đỏ dòng suối Đắc – lốp. Xác các anh phơi trắng
chân đồi. Theo thượng tướng Nguyễn Nam Khánh thì sở dĩ người ta cố tình
quên đi vì sợ bị quy trách nhiệm. Cách hành xử ấy không những có lỗi
với các chiến sĩ đã hy sinh mà còn có lỗi với thân nhân các gia đình
liệt sĩ vì sẽ gây rất nhiều khó khăn cho họ trong việc tìm kiếm hài cốt
chồng con mình sau này.
Anh Mẫn thắp hương tại đền
tưởng niệm các LS ở K’Nack
Trở lại câu chuyện đi tìm mộ liệt sĩ của
anh Phạm Văn Mẫn. Mẫn có người anh trai tên Phạm Văn Thành, quê ở Xuân
Trung, Xuân Trường, Nam Định, lên đường nhập ngũ năm 1964. Năm ấy, cậu
bé Mẫn mới tròn 10 tuổi. Lúc lên xe, anh Thành đã dúi vào tay Mẫn nắm
cơm, khẩu phần ăn duy nhất của anh trước lúc lên đường. Thương anh, mắt
nhoè lệ, lòng quặn đau như kim châm, dao cứa.
Chiến trường ác liệt. Anh đi biền biệt
không về. Chẳng một lá thư, một dòng nhắn gửi. Mẹ đỏ mắt ngóng chờ. Năm
1972, tin sét đánh ngang tai. Anh Thành đã hy sinh. Cả nhà chết lặng.
Hoà bình lập lại. Nhớ thương anh, Mẫn
quyết chí đi tìm. Nhưng biết tìm ở đâu? Giấy báo tử chỉ vỏn vẹn ghi: “Hy
sinh ở mặt trận phía Nam”. Kệ, Mẫn cứ đi. Lúc bắt xe khách, khi cuốc bộ
ngược đường Trường Sơn. Cứ thấy nghĩa trang liệt sĩ là anh vào. Lần tìm
từng tấm bia trên mộ nhưng cái tên Phạm Văn Thành, quê Nam Định vẫn
biệt vô âm tín. Thấm thoắt đã ngót 30 năm. Từ lúc tóc Mẫn còn xanh đến
khi điểm bạc mà thông tin về phần mộ người anh vẫn biền biệt phương
trời.
Đúng lúc tưởng như vô vọng nhất thì tình
cờ anh gặp được đồng chí Trần Văn Thức, đồng đội cũ của anh Thành cùng
trực tiếp tham gia trận đánh K’Nak. Anh Thức kể: “Tôi thuộc đơn vị bộ
đội chủ lực tham gia hỗ trợ bộ đội Quân khu 5 đánh Trường biệt kích Tây
Nguyên. Súng nổ mở màn lúc 23h 30′ thì chừng vài phút sau, tôi bị thương
cùng với anh Thành. Nhưng mãi đến sáng mới được đưa ra Trạm xá Trung
phẫu, cách K’Nác khoảng 8 -10 km. Tại đây, tôi có nhìn thấy dân công hoả
tuyến đưa đồng chí Thành đi mai táng cạnh trạm Trung phẫu. Vị trí chôn
cất thì không rõ lắm vì lúc đó tôi bị thương nặng, lúc tỉnh, lúc mê”.
Thông tin ấy khiến cho anh Mẫn khấp khởi hy vọng và càng quyết chí đi
tìm anh.
Từ đồng chí Thức, anh Mẫn đã gặp gỡ được
nhiều nhân chứng vốn từng tham gia trận đánh K’Nak xưa. Gặp đồng chí
Trần Duy Trung thuộc Trung đoàn 95 A, sư đoàn 325 bộ đội chủ lực, nay
đang ở Xuân Trường, Nam Định. Gặp Trung tá Trần Tấn Ước, nguyên chính
trị viên phó tiểu đoàn 409, hiện ở thị trấn Bình Sơn, Bình Định. Gặp
trung tá, anh hùng Nguyên Ngọc Bình nguyên là đại đội trưởng đại đội 1
của tiểu đoàn 409, người được phong anh hùng trong trận đánh K’Nak. Gặp
trung tá Nguyễn Văn ẩm, nguyên chính trị viên phó tiểu đoàn, phụ trách
việc chôn cất các liệt sĩ cùng một số nhân chứng khác. Cả một trận đánh
khốc liệt năm xưa chợt hiện về qua hồi ức của những người một thời vào
sinh ra tử ấy.
Vén bức màn bí mật về trận
đánh khốc liệt K’Nak
Căn cứ biệt kích K’Nak nằm trên 3 quả
đồi chạy dọc Bắc Nam, có nhiều lợi thế quân sự. Nơi đây đồi núi lô nhô,
thuận lợi cho việc xây dựng phòng thủ và bố trí binh lực, hoả lực, xuất
phát tiến công. Lại có nhiều thung lũng sình lầy, có sông Ba và khe suối
bao bọc, cản trở khi bị đối phương tiến công. Mỹ nguỵ đã xây dựng ở đây
một cụm cứ điểm bao gồm đồn luỹ bảo vệ, sân bay dã chiến và trại pháo
nhằm chặn cắt đường giao liên giữa Bình Định và Gia Lai. Quân ta đã
nhiều lần tập kích căn cứ này nhưng đều không thành công. Mùa xuân năm
1963, Đảng uỷ, Bộ tư lệnh quân khu 5 và Bộ tư lệnh mặt trận Tây Nguyên
quyết định tập trung lực lượng trên quy mô lớn tấn công căn cứ này. Lực
lượng ta gấp 3 số lượng địch, gồm: Tiểu đoàn đặc công 409 quân khu 5,
một đơn vị đặc công của tỉnh Bình Định, trung đoàn số 10 và Bộ phận chỉ
huy tiền phương quân khu 5. Tổng quân số lên tới gần 750 người.
14h ngày 7 tháng 3 năm 1965, bộ đội ta
xuất quân từ Kông-Hà-Nừng, cách K’Nak hơn 20 km. 18h, cách suối khô
500m. 19h, bắt đầu tiếp cận. Đến 23h, quân ta đã chiếm lĩnh xong các vị
trí quy định. Theo kế hoạch, đặc công mở cửa diệt các vị trí trọng yếu.
Sau đó, bộ binh dùng xung lực mạnh giảI quyết trận địa. Song do quá
trình trinh sát địa hình chuẩn bị trận đánh trước đó một tháng đã để lộ
dấu vết nên địch biết trước kế hoạch tấn công của ta. 23h 30′, bộ đội ta
vấp phải mìn nổ, mìn sáng. Địch lập tức nổ súng trùm lên toàn bộ đội
hình của ta. Pháo sáng chúng bắn sáng rực như ban ngày. Ta tiến công
cưỡng hành. Bộ đội ta chiến đấu cực kỳ dũng cảm, đã đánh chiếm được điểm
cao phía Bắc và phía Nam nhưng hướng chủ yếu ở giữa chỉ chiếm được “đầu
cầu”. Lô cốt cố thủ của địch bắn chặn quyết liệt. Đến 0h 30′ ngày 8
tháng 3, quân ta thương vong gần hết. Xác của các chiến sĩ nằm la liệt
trắng cả ven suối và chân đồi K’Nak. Lực lượng còn lại buộc phải rút
lui. Địch vẫn bắn truy kích dữ dội. Gần 500 thương binh và tử sĩ của ta
không mang theo được. Một phần địch gom lại, đổ xăng đốt. Số còn lại,
dùng xe ủi đào từng hố hất các liệt sĩ xuống rồi san phẳng.
Đồng chí Nguyễn Văn ẩm, chính trị viên
phó Tiểu đoàn 409, phụ trách công tác thương binh ở trạm trung phẫu
(cách vị trí địch khoảng 8km) cho đào sẵn 50 huyệt mai táng. Mỗi hàng 10
huyệt, cách nhau 60 – 80cm nhưng duy nhất chỉ mai táng được 8 đồng chí,
trong đó có tiểu đoàn trưởng Ngô Trọng Đãi và liệt sĩ Phạm Văn Thành. 8
đồng chí này bị thương ngay từ đầu trận đánh nên mới đưa ra được phía
sau. Lực lượng cứu thương và dân công hoả tuyến (đều là người dân tộc)
cũng hy sinh hết cả nên không còn người cấp cứu và tải thương ra cứ
được. Nếu tính cả lực lượng này, hơn 1.000 người đã để lại xương thịt ở
trận địa K’Nak.
Cuộc điện đàm… huyền hoặc
Chuyện tìm hài cốt liệt sĩ Phạm Văn
Thành giờ tưởng chừng dễ dàng như trong lòng bàn tay. Nhưng khi đưa các
nhân chứng vào K’Nak, anh Mẫn đã bật khóc nức nở. Ngót 37 năm trời dằng
dặc, cảnh vật thay đổi quá nhiều. Trạm trung phẫu trước kia có 4 cây đa
cổ thụ to lắm, che chắn cho trạm xá, nay chỉ còn một cây. Suối Đắc-lốp
giờ đã ngăn dòng làm đập thuỷ điện. Đồng đội cũ của anh Thành giờ đều
tuổi cao, sức yếu, trí nhớ giảm sút nên việc xác định vị trí ngôi mộ rất
khó khăn. Nhiều lần, anh Mẫn phải cầu viện đến các nhà ngoại cảm. 9 nhà
ngoại cảm nổi tiếng từ Bắc chí Nam anh đều đã vời vào nhưng không hiểu
sao, người ra đến sân bay thì cáo ốm xin về, người bước đến cửa rừng thì
kêu: “khu rừng này thiêng lắm, sợ lắm, không tìm được đâu” rồi hớt hải
bỏ về. Có nhà ngoại cảm vừa đào đào bới bới bỗng lăn đùng ra đất, tay ôm
chặt đầu lăn lộn, miệng kêu gào: “Ôi! đau đầu quá! Đau quá”. Lần cuối
cùng, ngày 26 tháng 12 năm 2001, nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy cùng anh
Mẫn đi Tây Nguyên. Trước khi đi, nhà ngoại cảm bằng khả năng đặc biệt đã
cung cấp những thông tin ban đầu khá chính xác:
- Nơi liệt sĩ Thành nằm còn có
7 người nữa.
- Khu mộ cách con suối từ 20 –
50m, có nhiều bụi rậm, trong đó có một cây cụt.
- Anh Thành nằm hàng thứ 2,
ngôi thứ 2 từ phải qua trái. Ngôi đầu, hàng đầu là một người chỉ huy.
Nhưng vào làm việc tại thực địa, nhà
ngoại cảm cho khai quật một số điểm đều không thấy. Tranh luận nổ ra.
Một số người trong đoàn giảm niềm tin và chán nản. Lúc đó, nhà ngoại cảm
Nguyễn Khắc Bảy mới gọi điện thoại di động trao đổi với thiếu tướng
Nguyễn Chu Phác – chủ nhiệm Bộ môn cận tâm lý (Trung tâm nghiên cứu tiềm
năng con người), rồi chuyển điện thoại cho anh Mẫn trực tiếp nói
chuyện. Từ Hà Nội, thiếu tướng Chu Phác hỏi: “ở đấy ai là Thành?”. Anh
Mẫn đáp: “Thưa chú! Thành là anh ruột cháu. Anh ấy là liệt sĩ. Chúng
cháu đang tìm nhưng không thấy”. Thiếu tướng lại hỏi: “ở đấy có ông chỉ
huy tên Ngô Trọng Đãi đeo súng ngắn hy sinh không?”. “Thưa chú! Chú Ngô
Trọng Đãi là tiểu đoàn trưởng, hy sinh cùng anh cháu”. Thiếu tướng bảo:
“Ông ấy đeo súng lục, tay cầm cái gậy, đuổi các cậu về và nói: ở đây có
hàng trăm liệt sĩ, chúng nó không tìm mà chỉ nhăm nhăm đi tìm một người
là Thành – anh nó thì không cho tìm”. Thiếu tướng trùng giọng: “Thôi!
Các cậu về đi. Về ngay để nghiên cứu, tổ chức lại cuộc tìm mộ này”.
Ngày 20 tháng 2 năm 2002, anh Phạm Văn
Mẫn đã làm một lá đơn gửi Bộ môn cận tâm lý và Trung tâm nghiên cứu tiềm
năng con người nhờ giúp đỡ tìm mộ anh trai và đồng đội ở K’Nak. Hơn một
tháng sau, Bộ môn đã cử một đoàn công tác đặc biệt gồm 3 nhà ngoại cảm
nổi tiếng: Phan Thị Bích Hằng, Thẩm Thuý Hoàn, Nguyễn Khắc Bảy do Đại tá
Hàn Thuỵ Vũ phụ trách trở lại Tây Nguyên. Anh Phạm Văn Mẫn đã trực tiếp
mời Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, nguyên Phó tư lệnh quân khu 5 cùng
nhiều nhân chứng khác tham gia đoàn. Trước khi lên đường trở lại chiến
trường xưa, Đoàn và nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, bằng khả năng đặc
biệt đã mời vong linh liệt sĩ Ngô Trọng Đãi, tiểu đoàn trưởng và vong
linh liệt sĩ Phạm Văn Thành về nhà riêng ở Khu tập thể Kim Liên để xin ý
kiến. Cuộc trò chuyện kéo dài hơn 1 tiếng đồng hồ trong bảng lảng hương
khói và nước mắt với rất nhiều thông tin của liệt sĩ Ngô Trọng Đãi đã
mở ra hướng đi mới cho việc tìm mộ tập thể liệt sĩ ở Tây Nguyên.