Muốn Diệu
pháp Liên hoa, hay thần chú này có linh nghiệm đòi hỏi hành giả thực hành bốn
chữ Diệu pháp Liên hoa. Diệu pháp Liên hoa nghĩa là trí tuệ là chính; trí tuệ
được ví như viên ngọc và Liên hoa ví như hoa sen. Viên ngọc cũng ví cho tâm con
người. Phật nói Phật, tâm và chúng sanh, cả ba là một. Vì vậy, trong chúng sanh
cũng có Phật, có tâm và trong chư Phật cũng có tâm và chúng sanh. Cho nên, lấy
tâm làm chính.
HT.Thích Trí Quảng cùng chư tôn thiền đức
Nếu tâm trong
sạch, sáng suốt gọi là Phật. Tâm chúng ta mê muội là chúng sanh. Lý giải như vậy,
theo tinh thần Đại thừa, Phật và chúng sanh là một, không phải hai. Nhận thức cốt
lõi này, hành giả Pháp hoa phát triển cho được viên ngọc quý nằm trong hoa sen.
Chúng ta đều
biết hoa sen mọc từ bùn, không mọc từ hư không. Bùn ví cho thân tứ đại ngũ uẩn
của chúng sanh là bùn nhơ tội lỗi. Trong nhơ bẩn có hai thứ là tâm nhơ bẩn gọi
là phiền não và thân nhơ bẩn là nghiệp. Nghĩa là chúng sanh cấu tạo bằng nghiệp
và phiền não. Có chỗ nói thân tứ đại của chúng ta là thùng phân biết đi, vì bên
trong chứa toàn đồ ô uế. Nhưng nếu chúng ta biết đem Phật pháp vào thân tâm ô uế
sẽ biến thân ô uế thành hoa sen là giới, đức, hay công đức trì giới.
Đối với các Tỳ-kheo tu hành, ban đầu Phật cho
bốn giới căn bản phải tuân thủ là sát, đạo, dâm, vọng. Phật tử tại gia cũng có
bốn giới này. Do giữ giới, thân tâm được thanh tịnh lần, ví như hoa sen. Vì vậy,
con người thì ai cũng như ai, nhưng người có giữ giới đã chuyển hóa thân ô uế
trở thành trong sạch, thể hiện mẫu người đức hạnh được kính trọng.
Nếu sát sanh,
trộm cắp, tà dâm, nói sai sự thật là con người tội lỗi không ai dám gần gũi, vì
họ tới đâu, người ta cũng phải dè dặt, coi chừng họ trộm cắp, sát hại và họ ở
trong chúng, nói gì cũng không ai tin. Đó là tội lỗi của người có thân tâm nhơ
bẩn.
Tu hành, Phật
dạy người xuất gia và người tại gia bốn giới căn bản này, phải cố gắng giữ trọn
và giữ được bốn giới này sẽ được mọi người tôn trọng. Thật vậy, cũng là Phật tử,
nhưng có người được chấp nhận, người không được chấp nhận; cũng là người xuất
gia, nhưng có người được kính quý, có người bị xem thường vì không giữ giới.
Cần biết rằng
có thọ giới hay không thọ giới, nhưng phạm bốn tội sát, đạo, dâm, vọng thì đều
có tội như nhau. Có người nói rằng không thọ giới thì không có tội, nói như vậy
là sai, vì bốn tội này là tánh tội, nếu phạm, phải tội.
Nhưng có thọ
giới là có ý thức giữ giới, nên gần là được Thiên long Bát bộ hộ trì, bảo vệ
chúng ta và chư Phật cũng hộ niệm chúng ta. Nhờ vậy, giới chúng ta được thanh tịnh
thì bấy giờ Hộ pháp Long thiên mới gần gũi, tiếp cận chúng ta và Phật mới hộ niệm
chúng ta, đó là bước thứ hai. Vì vậy, hơn nhau ở chỗ có giữ giới được Hộ pháp
chư Thiên và Phật gia hộ.
Theo tôi, Hộ
pháp Long thiên gia bị thì họ mách bảo chúng ta biết trước việc sẽ xảy ra. Thật
vậy, qua kinh nghiệm tu hành gần 70 năm, tôi thoát được tai nạn nhờ Hộ pháp
Long thiên mách bảo, vì do chúng ta giữ giới, thân tâm được thanh tịnh thì Long
thiên mới tiếp cận chúng ta.
Chư Thiên
cách chúng ta xa, vì tâm chúng ta nhơ bẩn, đã phạm bốn tội sát, đạo, dâm, vọng
làm chúng ta trở thành cái đáng ghê sợ, chư Thiên không dám đến gần. Nhưng do
thọ giới, giữ giới, tâm chúng ta thanh tịnh tác động cho thân chúng ta thanh tịnh
theo. Tùy theo mức độ thanh tịnh mà chúng ta tiếp cận được chư Thiên, chư thần,
họ mách bảo chúng ta được, vì họ tiếp cận chúng ta bằng tâm, gọi là thần giao
cách cảm.
Thật vậy, người
có tâm thanh tịnh dễ nhận ra thế giới chung quanh mình. Tâm không thanh tịnh,
chúng ta bị mắc kẹt ngũ uẩn ngăn che, nên chư Thiên, chư thần, chư Bồ-tát không
gần chúng ta.
Do mức độ giữ
giới của chúng ta giúp chúng ta tiếp cận chư Thiên, chư thần, chư Bồ tát, chư
Phật, thì trở lại thực tế cuộc sống, người tốt cũng tìm đến ta. Có người thưa với
tôi rằng con muốn tu, muốn làm tốt, nhưng xung quanh con toàn người xấu. Tôi bảo
anh muốn tu, muốn làm người tốt, nhưng thực sự anh chưa là người tốt, làm sao
người tốt đến; vì thiệt chúng ta ưa dựng chuyện, thường gian tham, sát hại, dâm
dục, những tánh xấu này có khiến người ta sợ, không dám gần gũi.
Tổ Huệ Đăng
làm cách mạng không thành công, mới trốn vào miền Nam tu, đến gặp Tổ Hải Hội. Tổ
Hải Hội đắc đạo là do Tổ giữ giới, tâm Tổ thanh tịnh, nên nhìn thấy Huệ Đăng có
tâm tốt, nhưng không ai gần gũi ông được, vì ông làm cách mạng, nên tâm ác ông
có. Thử nghĩ nếu không thù hận thì làm sao làm cách mạng.
Theo tôi, người
có tâm thù hận vì thấy bất công trong xã hội và muốn xóa bỏ bất công, đương
nhiên họ phải đương đầu với nhiều thế lực thù nghịch. Vì họ thù nghịch, nên người
phải thù nghịch lại là đúng rồi.
Tổ Hải Hội
nói với Huệ Đăng rằng ông có căn lành, có trí tuệ, nhưng vì tâm thù hận lớn
quá, nên chư Thiên, chư thần rất sợ, không dám gần ông. Tôi cho ông bộ kinh Pháp
hoa , ông nên vô núi thọ trì để tìm nghĩa lý sâu xa của bộ kinh này mà quét
sạch tâm thù hận, đó là tu giới.
Tổ Huệ Đăng ôm
kinh Pháp hoa vào hang ông Hổ ở
Bà-Rịa, Vũng-Tàu tu, dành tất cả thì giờ đọc kinh này. Chủ yếu của kinh Pháp
hoa là giới, tức làm sao thân chúng ta phải trong sạch như hoa sen, ở trong
bùn mà không nhiễm bùn. Ngày nay, quý vị tụng kinh mà không hiểu nghĩa lý thì
chỉ là tu suông sẽ không đạt được kết quả tốt đẹp.
Ở trong hang
núi tu, không tiếp cận người, tội lỗi không có điều kiện phát sinh. Thật vậy,
phần lớn quý thầy đắc giới, giữ giới thanh tịnh, hầu hết thọ giới xong thì ẩn
tu. Điển hình là Hòa thượng Quảng Đức, ngài nói với tôi rằng sau khi thọ Cụ túc
giới, ngài lên núi nhập thất ba năm. Có thể hiểu một người tu có kết quả vì ở
núi không tiếp cận ai, phiền não không phát sinh. Kinh nghiệm tôi thấy rõ điều
này.
Một Tỳ-kheo
không tiếp cận cuộc đời và tu hành thì các ác nghiệp trong người không sanh ra,
không phát khởi, nên muông thú có thể gần gũi họ. Tôi từng có thời gian ở núi
Thị Vãi tu vào sáu mươi năm trước, tất cả loài chim, thú không sợ mình, vì mình
không có ý sát hại, thù nghịch, nên nó thấy thương mình và mon men đến gần mình
làm quen. Người ăn thịt chó, chó thấy họ là sủa hoài, vì nó có cảm giác người
này sẽ giết nó. Mình muốn ăn nó, nó phải sợ mình chứ.
Do giữ giới thanh tịnh, tất cả các loài dã thú
thân cận mình, dù chỉ mới giữ một giới không sát sanh và thực tế người hiền
cũng muốn gần mình, họ không sợ. Khi ý niệm sát hại không còn, người dễ gần ta.
Thật vậy, Tổ
Huệ Đăng nhập thất ba năm ở hang ông Hổ ra, thì tất cả mọi người tìm ngài để học
đạo. Phần lớn chư Tăng tu ít chịu khổ chịu khó thực tập giáo pháp, nhưng muốn
làm thầy, muốn thiên hạ theo mình, đó là sai lầm nghiêm trọng.
Tổ Huệ Đăng
giữ giới thanh tịnh khiến các loài thú gần gũi, thương ngài và những người muốn
học đạo cũng tìm ngài. Họ học ở ngài cách tu thế nào mà cảm hóa được loài dã
thú và người thấy ngài được an lành. Họ theo Tổ Huệ Đăng, vì theo ngài, họ cảm
thấy an lành.
Vì vậy, tôi
soạn kinh Pháp hoa Bổn môn nói ý này rằng: “Ai gần người này, tâm cũng
được an”, vì tâm người này thanh tịnh rồi, không còn ý sát hại, không muốn lấy
của người. Sở dĩ người không muốn gần chúng ta, vì họ sợ chúng ta lấy của họ.
Thực tế cho thấy có những thầy ôm sổ xin tiền cất chùa cả đời, nhưng cuối cùng
không có chùa ở, không có cái am nhỏ trú thân.
Trong kinh
Nguyên thủy, có câu chuyện kể ông thầy bị loài rồng quấy phá, ông mới xin Phật
dạy cách giải quyết. Phật bảo rằng nếu rồng đến, ông chỉ xin hạt ngọc của nó là
nó sợ liền, không dám đến phá nữa.
Tỳ-kheo hơn người khác ở chỗ vô hại, đó là điểm quan
trọng. Tu hành chưa làm gì cho ai, cũng không làm hại ai. Bước ban đầu làm sao
chúng ta là người vô hại, mọi người không sợ ta thì Hộ pháp Long thiên có thể gần
chúng ta, giao tiếp với chúng ta. Còn không ai dám gần chúng ta, mà nghĩ Phật,
chư Thiên đến với mình là sai lầm lớn.
Ban đầu mọi người, mọi
loài gần gũi chúng ta và bước thứ hai, Hộ pháp Long thiên, chư Bồ-tát, chư Phật
mới đến gia bị chúng ta. Phật nói tâm Tỳ-kheo thanh tịnh hoàn toàn và trí tuệ
sáng suốt là do giới thanh tịnh, nên trí tuệ phát sinh. Như vậy, người trì kinh
Pháp hoa đã kết hợp được tâm thanh
tịnh và trí tuệ. Nếu người trì kinh Pháp hoa không có giới thanh tịnh và trí tuệ cũng
không phát sinh là giả, không phải trì kinh Pháp hoa đúng nghĩa.
Tôi nhớ mấy
chục năm trước có thầy đến nói với tôi rằng ông đã tụng 100 bộ kinh Pháp hoa.
Tôi nói vậy mà sao tôi thấy toàn thân toàn tâm thầy chưa có chữ nào của kinh Pháp
hoa. Ông này nổi khùng lên, quả quyết rằng ông đã thực sự tụng 100 bộ kinh Pháp
hoa mà. Thử nghĩ tụng 100 bộ kinh Pháp hoa mà lòng còn bực tức, còn
cố chấp thì đã thực sự tụng Pháp hoa chưa. Ông lại giận dữ nói tiếp ông
đã tụng kinh Pháp hoa, ai dám động tới ông, coi chừng chết!
Trì kinh Pháp
hoa đúng thì tâm thanh tịnh và trí tuệ ngời sáng, Hộ pháp phải hộ trì. Còn
trì kinh Pháp hoa, nhưng tâm không thanh tịnh và cũng không có trí tuệ,
lại sân hận như ông kia thì...
Tâm thanh tịnh
và huệ phát sinh là Phật. Còn tâm mới thanh tịnh, nhưng huệ chưa phát sinh là Tỳ-kheo
tu hành, thân tâm họ được thanh tịnh, nên không có phiền não tham sân si.
Dù thân tâm
thanh tịnh, nhưng huệ chưa phát sinh, kinh Pháp hoa nói người này mới tu
một phẩm của kinh Pháp hoa, tức kinh Vô lượng nghĩa nói về đạo đức.
Để nhận biết đạo đức này thì lấy con mắt của thiên hạ mà đo lường sẽ biết mình
có đạo đức hay không. Mọi người, mọi loài không sợ mình giết hại, lường gạt, trộm
cắp là đạo đức của Tỳ-kheo. Nhưng tập quán nhiều đời của chúng ta là nghiệp thì
đời này không sát sanh, nhưng túc nghiệp chúng ta còn, nên các loài sợ chúng
ta.
Ý này trong
kinh ghi rằng con chim bay tới gần ngài Xá Lợi Phất, nó dừng lại và vội bay đến
Phật. Phật nói Xá Lợi Phất trong đời này không sát sanh vì đi tu rồi, nhưng túc
nghiệp của ông còn. Ở xa, con chim thấy ông, nghĩ ông không hại nó, nhưng đến gần
nó cảm nhận được nghiệp sát khiến nó sợ.
Hòa thượng
Trí Thủ nói Tỳ-kheo giữ giới, nhìn xa thấy đẹp, vì Tỳ-kheo có chánh niệm, chánh
định, nên dáng đi nhẹ nhàng, đi mà như không đi. Trong giới luật có dạy rằng Tỳ-kheo
không được vừa đi vừa nhảy, đó là giới nhỏ nhất cũng không phạm.
Thân tâm Tỳ-kheo
thanh tịnh, nên từ xa thấy dáng đi của họ đẹp, nhưng quan trọng tới gần phải thấy
đẹp hơn. Vì những nghiệp vi tế còn, nên phải giữ đủ 3.000 oai nghi mới trọn vẹn
thanh tịnh.
Trong Thập
tam Tăng tàng, quan trọng là việc quan hệ của chư Tăng. Thí dụ các Tỳ-kheo trẻ
muốn cất chùa phải đọc kỹ điều này. Muốn cất chùa thì sao. Hòa thượng Thiện Hòa
nói đó là chỗ ở của nhiều người phải hợp pháp, không chướng ngại.
Chùa này trước
kia nằm trong Quân khu 7. Nhưng khi tôi làm Trưởng ban Trị sự Phật giáo TP.HCM,
ông Nguyễn Minh Triết mời tôi đến giao chùa Phổ Quang, chính quyền cấp sổ đỏ là
đất này hợp pháp, mới không trở ngại. Nếu cất chùa không hợp pháp sẽ bị tháo gỡ.
Đường vô chùa
này, người buôn bán tràn lan, nay được dọn sạch, là quý vị tu có kết quả, Hộ
pháp Long thiên quan tâm, giải quyết cho cảnh chùa được thanh tịnh. Trong khi
trước kia, bằng đủ cách dẹp hoài cũng không được. Nay cố gắng tu, có giới, có đức,
gần nhất là chính quyền ủng hộ chúng ta thì chắc chắn Hộ pháp Long thiên gia bị.
Tỳ-kheo thanh
tịnh tiếp cận được chư Thiên. Khi chúng
ta ngồi yên, tâm thanh tịnh mới có giao thoa với thế lực vô hình, mới nghe được
chư Thiên bằng tâm thanh tịnh, gọi là lục căn hỗ dụng, nghĩa là dùng tâm để thấy
nghe, không dùng mắt, tai thấy nghe. Điều này được diễn tả là người mù thấy được,
người điếc nghe được.
Người tu bế
quan, ngồi yên để không thấy bằng mắt, nghe bằng tai, thoát ra sự chi phối của
lục trần. Đóng kín sáu giác quan, nghe bằng tâm, nhưng tâm còn dao động thì tất
cả những gì đã lưu giữ trong A-lại-da thức hiện ra. Nhưng khi tâm thanh tịnh,
vượt qua sự chi phối của Thức, ta nghe được chư Thiên, thấy cảnh giới của chư
Thiên là chứng Thiên nhãn thông dùng tâm thấy cõi Trời, thấy Cực lạc. Bấy giờ
theo kinh Pháp hoa, A Nan nói rằng không nghe mà nghe.
Thật vậy, ban
đầu, Tỳ-kheo đọc kinh, nghe thông thường; nhưng Tỳ-kheo vào định, vượt lên trên
là không nghe mà nghe, tức không nghe Phật nói pháp, nhưng vào định, tâm thanh
tịnh, nghe được pháp âm Phật là không nghe mà nghe.
Trên bước đường
tu, từng bước đi vào định, chứng được Thiên nhĩ thông, thì ta ở thế giới này,
nhưng nghe được Phật thuyết pháp, nghe được chư Phật mười phương, nghe được Phật
Oai Âm Vương… Thật vậy, Phật nói trong kinh Pháp hoa vào kiếp quá khứ,
Ngài tu đạo Bồ-tát tên Thường Bất Khinh, khi nghiệp hết, Ngài nghe được 200
muôn ức bài kệ của Phật Oai Âm Vương.
Không nghe
ngôn ngữ, nhưng nghe pháp âm Phật là tâm chúng ta thanh tịnh, bước qua phẩm thứ
2 của kinh Vô lượng nghĩa là trí tuệ. Do giữ giới thanh tịnh, trí tuệ sanh, thấy
chư Thiên mới là cái thấy thật. Và quan trọng hơn, thấy nhân duyên giữa mình và
người trong nhiều kiếp.
Thực tế cho
thấy lý này. Một vị Thiền sư đắc đạo biết sẽ có người đến đòi nợ. Ngài đang Thiền,
tên cướp vác dao đến định giết ngài. Ngài bảo hắn rằng ta thiếu ngươi vàng,
không thiếu mạng và ngài ném túi vàng cho hắn, hắn liền lấy vàng rồi bỏ đi. Như
vậy là ngài đã biết rõ túc nghiệp của ngài và giải quyết một cách nhẹ nhàng.
Trong khi người khác chê bai ngài là người tu mà còn giữ vàng.
Hay trường hợp
ngài An Thế Cao biết mình thiếu mạng người ở Trung Hoa. Ngài liền đi sang nước
này. Có người thấy ngài quấn y lạ, tưởng là yêu quái, nên chém ngài. Ngài thấy
đúng nhân duyên như vậy nên đã trả nợ mạng.
Trên bước đường
tu, quán nhân duyên và thấy nhân duyên, ta biết được nhiều việc mà bình thường
không thể biết. Còn không thấy nhân duyên thì ấm ức, nói mình giúp nó, nhưng tại
sao nó phản, hại mình. Bị như vậy, phải trở về tu giới trở lại để huệ sanh mới
thấy đúng.
Có Hòa thượng
nuôi ông đạo học giỏi, nhưng hoàn tục khiến Hòa thượng buồn, khóc. Tôi nói ông
đạo mà Hòa thượng nuôi để mong ông ấy trở thành Sa-môn trụ trì trong tương lai;
nhưng điều quan trọng, Hòa thượng phải quán nhân duyên của ông này với đời sống
tu hành và nhân duyên của ông với thế tục. Người hảo tâm xuất gia quyết tu đắc
đạo, nhưng trường hợp của ông này không phải như vậy, thì nghiệp nào nặng, nghiệp
đó kéo. Ông này phải như vậy là phải hoàn tục mới đúng chứ.
Đọc lại lịch
sử, Lý Khánh Vân nuôi Lý Công Uẩn, nhưng dạy không được, vì ông quậy phá, nên
nói ông này khó dạy. Vạn Hạnh đắc đạo, thấy biết ông này sẽ làm vua, không thể
làm sư. Ngài mới bảo sư huynh để ngài dạy ông cách làm vua. Và quả đúng như vậy,
về sau ông trở thành vua Lý Thái Tổ. Vạn Hạnh Thiền sư đã thấy rõ lý nhân
duyên.
Tu hành, do
giới sanh huệ mới thấy nhân duyên là thấy pháp thì chúng ta ở trong pháp tu mới
được an lạc, giải thoát. Không thấy pháp, không trụ pháp, luôn bị phiền não quấy
rầy. Trụ pháp, tùy duyên giáo hóa là giai đoạn ba, Phật xuất hiện trên cuộc đời
làm lợi ích cho chúng hữu tình.
Còn chúng ta
chỉ ở giai đoạn hai. Người ta nói các thầy xuất gia không làm gì, khất thực rồi
ngủ. Nhưng chính yếu của chúng ta không làm gì, ngồi yên để tâm thanh tịnh lần
để quán sát, đắc đạo thì mới hành Bồ-tát đạo, mới qua giai đoạn ba của Vô lượng
nghĩa là làm lợi ích cho chư Thiên và loài
người.
Vì vậy, khi
Phật giáo hóa năm anh em Kiền Trần Như, chỉ có Kiều Trần Như đắc La-hán là huệ
sanh, thì Phật và Kiều Trần Như đi khất thực, bốn ông kia không làm gì, ở tịnh
xá tu, ngồi yên suy nghĩ Thiền Tứ niệm xứ để đắc Thánh quả.
Giai đoạn đầu
không làm gì, chuyên tu và đắc La-hán rồi phát tâm hành Bồ-tát đạo. Nhưng thành
tựu quả vị La-hán mà không tin Pháp hoa nghĩa là không phát tâm tu Bồ-tát hạnh
thì đó là tăng thượng mạn, không phải La-hán thật.
Vì không thấy
nhân duyên không thể giáo hóa chúng sanh được. Nhưng thấy nhân duyên mà không độ
người là mất tâm từ bi. Vì vậy, đối với người đáng độ, Phật mới độ. Với người
không đáng độ mà gần gũi, cảm hóa họ, chẳng những không được, còn bị thọ quả
báo.
Tóm lại, do giữ giới, tâm thanh tịnh, trí tuệ phát
sinh. Tâm thanh tịnh và trí tuệ kết hợp lại thể hiện hành giả Pháp hoa đúng
nghĩa và từ đó tiến tu, hành Bồ-tát đạo cho đến khi viên mãn phước đức, trí tuệ
mới đạt quả vị Phật.
HT.Thích Trí Quảng