1. Về hai ngài Ca
Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan
Theo Xuất Tam Tạng ký tập
Trong Bài tựa kinh
Tứ thập nhị chương nằm trong Xuất Tam
Tạng ký tập, quyển sáu[i],
thì phái đoàn cầu pháp đã sang Đại Nguyệt Chi, trích tuyển được kinh Tứ thập nhị chương và sau đó đựng trong
14 chiếc hòm bằng đá. Bài tựa kinh Tứ
thập nhị chương không chỉ ra ai là người đã trích tuyển và không đề cập đến
danh tánh hai ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan.
Tuy nhiên, trong quyển thứ hai của Xuất Tam Tạng ký tập, đã cho rằng, phái đoàn cầu pháp: Vừa đến nước Đại Nguyệt Chi, thì gặp Sa-môn
Trúc Ma Đằng, dịch rồi sao chép kinh này và trở về Lạc Dương, cất giữ trong
gian thạch thất thứ 14 của lầu Ngự Sử[ii].
Theo Lịch đại Tam bảo ký
Trong quyển bốn, Ca Diếp Ma Đằng còn có tên là Trúc Nhiếp
Ma Đằng hoặc Nhiếp Ma Đằng, là người dịch kinh Tứ thập nhị chương ở chùa Bạch Mã.
Tuy nhiên, cũng trong quyển này, ở phần sau, khi nói về Tôn
giả Trúc Pháp Lan, tác phẩm này cho rằng, vào đời Minh Đế, lúc đầu tiên, Trúc
Pháp Lan đã cùng Ca Diếp Ma Đằng cùng dịch kinh Tứ thập nhị chương, tuy nhiên, do Ca Diếp Ma Đằng viên tịch, nên
Trúc Pháp Lan tự mình dịch bộ kinh này[iii].
Cũng trong quyển này, Phí Trường Phòng đã dẫn lời của
ngài Bảo Xướng cho rằng: Tứ thập nhị
chương do Trúc Pháp Lan dịch. Bằng chứng nghi ngờ đó có lẽ cho thấy rằng, Trúc
Pháp Lan đã đến cùng với Nhiếp Ma Đằng[iv].
Theo Chúng kinh mục lục
Trong quyển 2, tác phẩm này cho rằng, kinh Tứ thập nhị chương do Trúc Pháp Lan và
những người khác dịch vào năm Vĩnh Bình, đời Hậu Hán[v].
Theo Khai nguyên thích giáo lục
Trong quyển thứ nhất ghi rằng, Sa-môn Ca Diếp Mà Đằng
dòng dõi Bà-la-môn, bác học đa văn. Khi phái đoàn cầu pháp của vua Hán Minh Đế
sang Đại Nguyệt Chi cầu pháp thì gặp Ca Diếp Ma Đằng. Đoàn thỉnh ngài về Lạc
Dương, phái đoàn đã dùng ngựa trắng chở kinh sách và Phật tượng. Sau đó, Ca
Diếp Ma Đằng dịch kinh Tứ thập nhị chương
tại chùa Bạch Mã[vi].
Theo Cao tăng truyện
Phái đoàn cầu pháp của vua Hán Minh Đế gặp Tôn giả Nhiếp
Ma Đằng tại Thiên Trúc. Phái đoàn đã thỉnh ngài về Lạc Ấp (Lạc Dương). Vua Hán
Minh Đế đã dựng một tinh xá ở ngoài cửa thành Tây, và từ đây, đất Hán có vị Tăng
đầu tiên vậy. Có tư liệu cho rằng (有記云), Nhiếp Ma Đằng dịch kinh Tứ thập nhị chương một quyển, lúc đầu được lưu giữ tại gian nhà thứ
14 của tòa thạch thất Ngự Sử.
Về ngài Trúc Pháp Lan, người trung Thiên Trúc, là học
giả bậc thầy. Thuở nhỏ đã giỏi chữ Hán, đã dịch năm bộ kinh như Thập địa, Đoạn kết, Phật bổn sinh, Pháp hải tạng
Phật bổn hạnh, Tứ thập nhị chương. Do loạn lạc nên phần lớn các bộ kinh ấy
bị thất truyền, hiện tại ngày nay, ở miền Giang Tả chỉ còn bộ kinh Tứ thập nhị chương với hơn hai ngàn chữ.
Trong những bộ kinh hiện còn từ thời Hán, chỉ có bộ này là đầu tiên vậy[vii].
2. Nhận định về
tư liệu đã dẫn
Trong những nguồn tư liệu vừa dẫn ở trên, có nhiều điểm
không thống nhất về dịch giả bản kinh Tứ
thập nhị chương.
Về Tôn giả Ca Diếp Ma Đằng, trong tư liệu kinh lục Xuất Tam Tạng ký tập chỉ ghi rằng, phái
đoàn thỉnh kinh đã gặp Sa-môn Trúc Ma
Đằng, dịch rồi sao chép kinh này và trở về Lạc Dương[viii].
Tư liệu này không xác định ai đã dịch bộ kinh này. Tư liệu Lịch đại Tam bảo ký cho rằng Trúc Ma Đằng dịch kinh tại chùa Bạch
Mã, tác phẩm Khai nguyên thích giáo lục
cũng đồng ý với quan điểm này. Cẩn trọng hơn, trong Cao Tăng Truyện của Huệ Hạo, mặc dù cũng cho rằng Ca Diếp Ma Đằng
đã dịch kinh Tứ thập nhị chương ở
chùa Bạch Mã, nhưng không chỉ ra chính xác đó là tài liệu nào. Trong khi đó,
ngài Đạo An mặc dù biết đến chùa Bạch Mã[ix],
nhưng không biết đến bản kinh Tứ thập nhị
chương, nên không đưa vào tác phẩm Chúng
kinh mục lục của mình. Không những thế, việc phái đoàn sang Tây Vực cầu
pháp được lưu xuất từ Bài tựa kinh Tứ
thập nhị chương. Trong khi đó, Bài tựa
kinh Tứ thập nhị chương còn nhiều điều bất cập về niên đại[x],
và do vậy, chưa đủ thông tin để khẳng định rằng ngài Ca Diếp Ma Đằng đã dịch
kinh Tứ thập nhị chương.
Với ngài Trúc Pháp Lan, Lịch đại Tam bảo ký đã xác tín rằng, Tôn giả Trúc Pháp Lan đã tự
mình dịch kinh Tứ thập nhị chương sau
khi Trúc Ma Đằng viên tịch. Và cũng trong chương này, Phí Trường Phòng đã dẫn
lời Bảo Xướng khi cho rằng, kinh Tứ thập
nhị chương do chính Trúc Pháp Lan dịch. Trong Chúng kinh mục lục đã khẳng định dứt khoát rằng, kinh Tứ thập nhị chương do Trúc Pháp Lan và
những người khác dịch vào năm Vĩnh Bình, đời Hậu Hán. Đặc biệt, trong Cao tăng truyện, thông tin về Trúc Pháp
Lan được đề cập khá rõ. Đó là một học giả uyên thâm, tinh thông Hán ngữ, đã
dịch năm bộ kinh, di cảo dịch thuật đến thời ngài Huệ Hạo (497-554) chỉ còn lại
bộ kinh Tứ thập nhị chương.
Như vậy, quan điểm cho rằng Trúc Pháp Lan chính là tác
giả dịch kinh Tứ thập nhị chương có
cơ sở hơn Ca Diếp Ma Đằng.
Khi khảo sát những chi tiết liên quan đến cuộc đời của
ngài Trúc Pháp Lan, đã mở ra một hướng nghĩ mới về một dịch giả ẩn danh của bản
kinh Tứ thập nhị chương. Thông tin
quan trọng đó chính là, ngài Trúc Pháp Lan là bổn sư truyền ngũ giới cho cư sĩ
Chi Khiêm
3. Chi Khiêm thọ
giới với Trúc Pháp Lan và việc dịch kinh Tứ
thập nhị chương
Theo Xuất Tam Tạng
ký tập quyển 13, truyện Chi Khiêm, thứ sáu[xi].
Chi Khiêm tự Cung Minh, còn có tên là Việt, tổ phụ là Pháp Độ, xuất thân từ
nước Đại Nguyệt Chi. Từ nhỏ đã có tính thương người, thương vật. Năm mười tuổi
học kinh thư, có trí thông minh mẫn tiệp. Năm mười ba tuổi học sách vở tiếng
Phạn và thông thạo ngôn ngữ của sáu nước. Đời Hán Linh Đế, đệ tử của ngài Chi
Sấm là Chi Lượng sang Trung Thổ. Chi Khiêm bèn theo Chi Lượng học Phật pháp.
Cuối đời Đông Hán, Chi Khiêm chạy loạn đến nước Ngô.
Ngô Tôn Quyền nghe tiếng bác học, tài năng trí tuệ xuất
chúng của Chi Khiêm, nên triệu ông vào tham vấn về sự thâm áo của Phật pháp.
Chi Khiêm tùy theo căn cơ mà ứng đáp minh bạch. Vừa nghe qua, Ngô Tôn Quyền rất
vui mừng, bèn bái Chi Khiêm làm Bác Sĩ, đảm nhậm chức Bổ Đạo Đông Cung. Đương
thời, đã có rất nhiều kinh điển được truyền vào đất Ngô, nhưng phần lớn là kinh
tiếng Phạn, do thông thạo chữ Hán và chữ Phạn, cùng ngôn ngữ của sáu nước, nên
Chi Khiêm đã phát tâm phiên dịch ra chữ Hán nhiều bộ kinh điển. Từ năm Hoàng Vũ
nguyên niên (222) đến năm cuối Kiến Hưng (253), Chi Khiêm phiên dịch khoảng hai
mươi bảy bộ kinh. Theo Cao tăng truyện,
truyện của ngài Khương Tăng Hội, thì Chi Khiêm dịch đến 49 bộ kinh[xii].
Lúc thái tử lên ngôi, bỏ qua thế sự cuộc đời, Chi Khiêm vào ẩn cư nơi núi Khung
Ải và cầu ngài Trúc Pháp Lan thọ năm giới, và sống ở đó cho đến lúc qua đời.
Ngoài tư liệu Xuất
Tam Tạng ký tập, cho rằng, Chi Khiêm cầu thọ ngũ giới với Trúc Pháp Lan,
thì Khai nguyên thích giáo lục[xiii],
quyển thứ hai cũng khẳng định điều tương tự.
Trong nhiều bản dịch kinh điển, Chi Khiêm trân trọng ghi
phía trước tên mình ba chữ Ưu Bà Tắc, đó cũng là một cách khẳng định vai trò cư
sĩ của mình nói riêng, và đồng thời gian tiếp chia sẽ thông tin mình là đệ tử
của ngài Trúc Pháp Lan.
Theo Lịch đại Tam bảo
ký, quyển thứ năm, thì trong ba mươi sáu bộ, hoặc 49 kinh do Chi Khiêm
dịch, thì có kinh Tứ thập nhị chương[xiv].
Theo Sa-môn Thích Tĩnh Mại trong tác phẩm Cổ
kim dịch kinh đồ ký[xv],
quyển thứ nhất, thì Chi Khiêm dịch tổng cộng 129 bộ kinh, hợp thành 152 quyển,
trong số đó có bản kinh Tứ thập nhị
chương. Được biết, ngài Thích Tĩnh Mại, là một trong 11 vị Tăng được tinh
tuyển tham dự vào Viện dịch kinh Từ Ân Tự[xvi],
do đó, thông tin của ngài về bản kinh Tứ
thập nhị chương do Chi Khiêm dịch là có cơ sở.
4. Đi tìm bối
cảnh ra đời cũng như dịch giả ẩn danh của bộ kinh Tứ thập nhị chương
Để tìm được tác giả ẩn danh đã dịch kinh Tứ thập nhị chương, nên chăng chúng ta
thử điểm qua vài nét về những tác giả dịch kinh Pháp cú. Vì lẽ, từ bản dịch kinh Pháp cú của Duy Kỳ Nan, có thể phần nào cho thấy tác giả thực sự
của kinh Tứ thập nhị chương là ai.
Theo Xuất Tam Tạng
ký tập, quyển hai, thì kinh Pháp cú
có 2 quyển, do Trúc Tương Diễm và Chi Khiêm dịch. Cũng trong tác phẩm này, phần
truyện của ngài Đạo An, đã bổ sung thêm thông tin: Sa-môn Duy Kỳ Nan người Thiên
Trúc, vào năm Hoàng Vũ thứ ba (224) thời Ngô Tôn Quyền, đã đem Phạn bản kinh
Đàm bát đến Vũ Xương. Đàm Bát tức kinh Pháp cú. Khi đó Chi Khiêm cầu thỉnh dịch
kinh ấy nên Duy Kỳ Nan đã nhờ bạn đồng đạo là Trúc Tương Diễm phiên dịch, Chi
Khiêm viết sang Hán văn[xvii].
Theo, Đại Đường nội điển lục, quyển
bảy[xviii],
thì Chi Khiêm dịch toàn bộ hai quyển kinh Pháp
cú. Trong Chúng kinh mục lục,
quyển 6[xix]
cũng cho rằng Chi Khiêm dịch hai quyển Pháp
cú tập.
Theo bài tựa kinh Pháp
cú do Chi Khiêm viết, có đoạn: Kẻ quê
mùa này được ngài Duy Kỳ Nan truyền cho bản Pháp cú gồm 500 bài kệ, nên đã
thỉnh cầu đồng đạo của thầy ấy là ngài Trúc Tương Diễm dịch. Tương Diễm tuy
giỏi tiếng Phạn nhưng vốn chữ Hán vẫn chưa hoàn bị. Những lời dịch của ông ta
có khi đúng với Phạn ngữ, có khi căn cứ vào nghĩa để dịch âm nên bản dịch còn
mang tính thô phác, Chi Khiêm e rằng do vì văn chương không giỏi[xx]. Mở rộng
tìm hiều về khả năng ngôn ngữ của hai ngài Duy Kỳ Nan và Trúc Tương Diễm thì
được biết, Duy Kỳ Nan không rành lắm về ngôn ngữ của chính nước mình (難既未善國語)
và bạn đồng tu là Tương Diễm cũng không giỏi về Hán ngữ (炎亦未善漢言)[xxi] và do
vậy, Chi Khiêm, một vị cư sĩ thông thạo sáu ngoại ngữ, đã hiệu đính theo nghĩa
dịch lại toàn bộ bản kinh Pháp cú để
thành một tác phẩm hoàn chỉnh.
Vai trò của Chi Khiêm đối với dịch phẩm kinh Pháp cú rất lớn, thế nhưng, ngay như Bài tựa của kinh Pháp cú của Chi Khiêm,
cũng xếp nằm ở giữa cuốn thượng và cuốn hạ. Không những thế, trên dòng đề tên
tác giả thì chỉ ghi do Duy Kỳ Nan và những người khác cùng dịch. Điều đó đã
chứng minh ông quả thật sống đúng với tên của mình: Chi Khiêm (支謙), một người khiêm nhường ở nước Đại
Nguyệt Chi.
Trở lại với bản
kinh Tứ thập nhị chương, nối
kết lại những thông rời rạc liên quan đến bộ kinh này đã cho thấy, bối cảnh ra
đời cũng như ai là dịch giả chủ yếu, có nhiều điểm tương đồng như bản kinh Pháp cú của Duy Kỳ Nan.
Trước hết, mặc dù vẫn chưa xác định được thời điểm chính
xác Chi Khiêm cầu thọ ngũ giới với Trúc Pháp Lan, chưa rõ vào giai đoạn trung
niên hay lúc cuối đời, theo văn cảnh thì có vẽ như vào lúc cuối đời, thế nhưng
vẫn có thể xác định rằng, Trúc Pháp Lan sống cùng thời với Chi Khiêm.
Thứ hai, có khả năng Trúc Pháp Lan đã tự mình dịch kinh Tứ thập nhị chương, theo thông tin từ
tác phẩm Lịch đại Tam bảo ký, quyển
bốn. Tuy nhiên, do hạn chế về ngôn ngữ, trình độ Phật học nói chung, nên bản
dịch chưa hay, và có thể nói là chưa hoàn thành.
Thứ ba, với vốn Phật học phong phú vì đã dịch hơn 49 bộ
kinh, căn cứ theo Cao tăng truyện,
hoặc 129 bộ kinh, nói theo Cổ kim dịch kinh
đồ ký, thì Chi Khiêm có thể hiệu đính xuất sắc bản dịch kinh Tứ thập nhị chương của Trúc Pháp Lan.
Hiện tại, trong ĐTKĐCTT còn lưu giữ 55 bộ kinh do Chi Khiêm dịch, đã chứng minh
năng lực dịch thuật của Chi Khiêm. Ở đây, với những tư liệu kinh lục cho rằng,
chỉ riêng một mình Chi Khiêm dịch kinh Tứ
thập nhị chương, vì có thể việc hiệu đính bản kinh Tứ thập nhị chương của Chi Khiêm giống như một bản dịch mới.
Thứ tư, bản kinh Tứ
thập nhị chương có nguồn gốc từ Đại Nguyệt Chi. Đại Nguyệt Chi có giai đoạn
là một quốc gia rộng lớn, có trung tâm Phật giáo nỗi tiếng Gandhara với các thủ
bản kinh cổ bằng ngôn ngữ Kharostthi còn lưu lại đến này ngay[xxii].
Chi Khiêm vốn là người nước này, cộng với lợi thế am tường sáu ngôn ngữ, thế
nên sẽ gặp nhiều thuận lợi trong việc phiên dịch kinh điển có nguồn gốc từ Đại
Nguyệt Chi.
Thứ năm, với bản chất khiêm hạ của mình, mặc dù hiệu
đính bản dịch của thầy mình là Trúc Pháp Lan, thế nhưng Chi Khiêm vẫn không lưu
lại tên mình, như trường hợp kinh Pháp cú
của Duy Kỳ Nan chẳng hạn. Ở đây, để ghi nhận công lao của những người có công
đem kinh Tứ thập nhị chương sang đất
Hán, Chi Khiêm đã giữ nguyên tên của ngài Ca Diếp Ma Đằng, như là một sự tôn
trọng về cội nguồn du nhập của bản kinh.
Như vậy, theo suy luận của chúng tôi, bối cảnh xuất hiện
của kinh Tứ thập nhị chương được dựng
lên là: Việc các vua nhà Hán sai sứ đi Đại Nguyệt Chi là có thật. Trong những
chuyến giao lưu tiếp biến văn hóa trên con đường Tơ Lụa, đã tiếp nhận thư tịch
Phật giáo. Ca Diếp Ma Đằng là một trong những đại diện tiêu biểu, có công lao
trích tuyển, sao chép bản kinh Tứ thập
nhị chương bằng ngôn ngữ Đại Nguyệt Chi[xxiii],
sau đó bản kinh được đưa vào đất Hán và giữ gìn ở Thư viện hoàng gia (蘭 臺 石 室)[xxiv].
Trúc Pháp Lan đã dịch kinh ấy nhưng văn nghĩa chưa trọn vẹn, sau đó, được đệ tử
năm giới là Chi Khiêm hiệu đính và hoàn thành xuất sắc dịch phẩm. Vì tôn trọng
Thầy của mình, vì bản tính khiêm hạ, nên Chi Khiêm chỉ ghi Trúc Pháp Lan như là
dịch giả chính thức và Ca Diếp Ma Đằng như là tác giả sao lục bộ kinh này.
Thông tin về Chi Khiêm dịch kinh Tứ thập nhị chương cũng khẳng định thêm một vấn đề quan trọng: bản
kinh Tứ thập nhị chương có niên đại
xuất hiện vào giữa những năm 222-253[xxv].
[ii] 大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2145 出三藏記集錄上卷第二,
新集經論錄第一. Nguyên văn: 始 於 月 支 國 遇 沙 門 竺 摩 騰. 譯 寫 此 經 還 洛 陽. 藏 在 蘭 臺 石 室 第 十 四 間 中.
[iii]大正新脩大藏經第 49 冊 No. 2034 歷代三寶紀, 卷第四. Nguyên văn: 明帝世翻初共騰出四十二章. 騰卒. 蘭自譯.
[iv]大正新脩大藏經第 49 冊 No. 2034 歷代三寶紀, 卷第四. Nguyên văn: 寶唱又云. 是竺法蘭譯. 此或據其與攝摩騰同時來耳.
[vi]大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第一總錄之一 .
[vii]大正新脩大藏經第 50 冊 No. 2059 高僧傳,卷第一
.
[ix]大正新脩大藏經第 50 冊 No. 2059高僧傳卷第五. Nguyên văn: 安以白馬寺狹.乃更立寺名曰檀溪.
[x] Bài
tựa kinh Tứ thập nhị chương đề cập về câu chuyện Hán Minh Đế mộng
người
vàng. Về mặt văn bản, theo như lưu ý của ngài Tăng Hựu, thì chưa rõ tác
giả của
tư liệu này là ai (未詳作者), thế nên mức độ chứng thực của tài
liệu không đảm bảo. Không những thế, có một chữ Hán (漢) nhấn mạnh bổ
sung và chữ Hiếu Minh Hoàng Đế (孝明皇帝) vốn là thụy hiệu của Hán Minh Đế.
Mặt
khác, chữ Ngày xưa (昔) xuất hiện đầu tiên trong bản văn và năm chữ cuối: mãi đến nay không dứt (于今不絕也) cho thấy rằng bài tựa này được hình
thành khá muộn, ít nhất sau thời nhà Hán và có khả năng trong thời ngài Tăng
Hựu. Trong bài tựa có đề cập đến một vị Trung lang tướng tên là Trương Khiên (張 騫…中 郎 將). Theo Sử ký Tư mã thiên, tập sáu mươi ba, Đại uyển liệt truyện, vị Trung lang tướng này là người từng
đi Đại Nguyệt Chi, là người có công mở mang con đường thông thương, trao đổi
hàng hóa giữa Trung Quốc với các nước trên Con
đường Tơ lụa. Điều đáng chú ý, Trung lang tướng Trương Khiên sống ở thời Tây
Hán, dưới triều vua Hán Vũ Đế, đã từng đi sứ Đại Nguyệt Chi và năm Kiến Nguyên
thứ 2 (139 TCN). Ở đây, nếu như Bài tựa
kinh Tứ thập nhị chương đề cập chính là vị Trung lang tướng Trương Khiên
này, thì quả là môt sự thêm thắt không phù hợp với niên đại.
[xi]大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2145 出三藏記集, 卷第十三.
[xiii]大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第二.
[xv]大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2151 古今譯經圖紀, 卷第一 .
[xvii]大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2145 出三藏記集, 卷第二. Nguyên văn: 後有沙門維秖難者. 天竺人也. 以孫權黃武三年齎曇鉢經胡本來至武昌. 曇鉢即法句經也. 時支謙請出經. 乃令其同道竺將炎傳譯. 謙寫為漢文.
[xviii]大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2149 大唐內典錄, 卷第七.
[xix]大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2146 眾經目錄, 卷第六.
[xx]大正新脩大藏經第 04 冊 No. 0210 法句經卷上
, 法句經序.Nguyên văn: 僕從受此五百偈本. 請其同道竺將焰為譯. 將焰雖善天竺語未備曉漢. 其所傳言或得梵語. 或以義出音. 迎質真樸初謙其為辭不雅.
[xxii]
Richard
Salomon, Ancient Buddhist Scrolls from
Gandhara, Seattle: University of Washington
Press, 1999.
[xxiii]大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2145 出三藏記集錄上卷第二,
新集經論錄第一.
[xxiv] 蘭 臺 石 室, cũng tương tự như 蘭省芸客: Nhà chứa sách, thư viện.
[xxv] Trong
Nguyệt San Giác Ngộ số tháng 11.2013, trong bài Bàn về niên đại, truyền bản và vài khía cạnh đặc thù của kinh Tứ thập
nhị chương, chúng tôi ước đoán rằng, kinh Tứ thập nhị chương có niên đại
vào khoảng cuối thế kỷ thứ tư và đầu thế kỷ thứ năm. Đây là một suy luận chưa
đúng do hạn chế về tư liệu, chúng tôi xin thành thật cáo lỗi cùng bạn đọc.
Chúc Phú