Có nhiều đệ tử nhập
môn học Phật để mai sau đi truyền giáo nay đem một tín
ngưỡng mới đi tuyên truyền, có khi trái với tín ngưỡng
cũ nhân dân đỡ xảy ra xung đột nên cho đệ tử Chùa Thiếu
Lâm vừa học lý thuyết Phật giáo, vừa phải luyện võ để
tự vệ (một phái võ Thiếu Lâm vẫn tồn tại đến ngày
nay).
Nhiều
người xin nhập môn, nhưng thể lực kém không luyện võ được.
Tổ sư truyền dạy một phương pháp luyện tập tên gọi là
"Đạt Ma Dịch Cân Kinh" để chuyển biến thể lực của các
đệ tử từ yếu thành khỏe.
Cách
tập đơn giản, nhưng hiệu lực lớn, vì tiêu trừ được
bệnh. Yếu thì không chứng nọ cũng tật kia, khỏe là đã
hết bệnh.
Ngày
nay, người ta nghiên cứu lại phương pháp này chữa được
rất nhiều bệnh, ngay cả bệnh ung thư cũng khỏi. Và bây
giờ người ta lại áp dụng lý thuyết "khí huyết" của Đông
y để chứng minh.
Tình
trạng sức khỏe của con người liên quan chặt chẽ với "khí
huyết" của họ. Về "huyết" thì rất rõ ràng và dễ hiểu
vì ta nhìn thấy được.
Nhưng
trong Đông y: cái gọi là "huyết" thì chúng ta không thể tách
rời và hạn chế từng mặt. Nếu như máu loãng hay đặc,
hồng cầu nhiều hay ít, sắc tố như thế nào... để mà nghiên
cứu. Họ dùng cách nhìn toàn diện của quá trình sinh lý và
quá rình tuần hoàn của huyết mà xem xét.
Lý
luận Đông y có triết lý vững vàng. Nó mang tính chất khái
quát rất cao, khi nó nêu vấn đề "khí huyết" thì tất nhiên
không cô lập, như lấy một giọt máu không sức sống hoặc
một bầu máu tách rời cơ thể, mà là cần phân tích đến
trạng thái vận động, quá trình sinh lý và các mối quan hệ
khác.
Vì
"khí" cũng vậy, hào khí (là khí của người hào hiệp) không
hề lay động khi đã quyết định, người xem tướng giỏi
là người ranh xem khí. Sắc là do thiên vị "khí" (prana) có
trong khí trời, vị không rải ra khắp cơ thể được nên
mới sinh bệnh.
Cho
nên các "khí" của Đông y không bác bỏ cái khí trong không
khí mà nó mang lại một nội dung có tính khái quát rộng lớn
hơn.
Ta
thở không khí vào phổi, ăn vào bụng, ruột hấp thu chất
dinh dưỡng, các chất ấy và không khí được đưa đến các
tế bào của toàn thân, để có được oxy hóa và sinh ra nhiệt
năng, đồng thời cũng đưa những khí thải và thức ăn từ
các tế bào trên cơ thể, thu hồi về để bài tiết ra ngoài.
Tuần
hoàn tốt, phát huy tác dụng tốt của máy, thì quá trình sinh
lý của cơ thể con người tự nhiên thịnh vượng ra, sinh
hoạt sức khỏe của con người đương nhiên đảm bảo.
Cho
nên trong lý thuyết "khí huyết" không thể đơn độc chỉ
có "huyết mà không có "khí" và ngược lại chỉ có "khí"
mà không có "huyết".
Trong
Đông y cho rằng máu thuần chủ yếu trong cơ thể con người
là "Âm-Dương" mà cũng là "khí huyết" (Âm là khí và Dương
là máu).
Luyện
"Dịch Cân Kinh" làm cho khí huyết hoạt động điều hòa nên
nó có tác dụng chữa bệnh tốt.
Áp
dụng "Dịch Cân Kinh" để chữa ung thư. Người xưa dùng "Dương
tâm đan" kết hợp với luyện "Dịch Cân Kinh" để chữa khỏi
hẳn bệnh ung thư. Tác dụng của thuốc là rút ngắn thời
gian điều trị, chứ nó không có tác dụng chữa bệnh, nói
như người xưa là "Mạch máu chia đi"
Trong
một đơn vị quân đội chẳng hạn, cùng sinh hoạt như nhau,
sau một bữa ăn lạ, có người đau bụng đi kiết, đi tả,
nhưng cũng có người chẳng bị làm sao. Đây là "Mạch máu
chia đi" nên nó giúp cơ thể thải độc tốt. Vậy luyện tập
"Dịch Cân Kinh" là chính. Nay ta phân tích bệnh ung thư là gì?
Người xưa quan niệm ung nhọt chia ra hai loại: "Âm thư và
Dương thư" và có câu:
"Dương
thư dễ lành, Âm thư khó trị"
Dương
thư thì ai cũng biết là cái nhọt mọc ra ngoài, chín rồi
vỡ, có máu mủ, và ngòi mủ xanh, dán cao là lành. Âm thư
là cái nhọt mọc bên trong cơ thể, không có đầu, không vỡ,
chỉ to dần rồi lan tràn, có khi rắn như đá gọi là thạch
thư. Nguyên nhân đều do kết tụ của khí huyết làm trở
tắc kinh lạc mà các phế vật cần thải, không thải được.
Vì máu lưu thông chậm nên các chất keo, dịch gan, các chất
làm khô... do không đủ nhiệt năng, nên công năng của máy
giảm sút không thể thải được các chất không cần thiết
cho cơ thể ra ngoài.
Luyện
"Dịch Cân Kinh" tay vẫy đúng pháp, miệng dạ dày mở, máu
mới sinh ra nhiệt năng đầy đủ. Các sự chèn ép làm mất
thăng bằng trong cơ thể bị xóa bỏ, nên mới khỏi bệnh.
Vẫy
tay theo "Dịch Cân Kinh" cơ hoành lên xuống dễ dàng, ruột
và dạ dày tiếp được thêm khí nên cũng gây nên tác dụng
hưng phấn, và khi chức năng của máu tăng lên thì giúp cho
việc "tống cựu nghinh tân" được tốt, "khí huyết" thăng
bằng, là đã khỏi bệnh.
Theo
số liệu thống kê: Cụ Quốc Chu 70 tuổi, phát hiện u ác
ở não và ở phổi, được phổ biến "Dịch Cân Kinh" và luyện
ngày một buổi, mỗi tối 2.160 lần. Sau 5 tháng thì hết và
khỏi bệnh.
Ông
Trương Công Phát, 46 tuổi, phát hiện ung thư máu, tập ngày
3 buổi, mỗi buổi vẫy tay 1.800 lần (có dùng thuốc Dương
tâm đan...), sau 3 tháng đã đi làm. Đã ba năm vẫn khỏe mạnh.
Cụ
Từ Mạc Đính, 80 tuổi, bị ung thư phổi kiêm bán thân bất
toại, tập 5 tháng khỏi bán thân bất toại, kiểm tra lại
thì khối ung thư phổi cũng biến luôn.
Nguyên
nhân bệnh ung thư hiện nay trên thế giới còn đang bàn cãi,
ngay cả thuốc "Dương tâm đan" cũng không phải là thuốc đặc
hiệu chữ ung thư, mà là giúp tim hoạt động tốt hơn, để
thải chất độc trong cơ thể của bệnh nhân nhanh hơn mà
thôi.
Nhưng
về nguyên nhân ung thư thì thuyết "khí huyết" của Đông y
đã lập luận rõ ràng. Vì quá trình sinh lý của con người
là một quá trình phát triển, nó mang một nội dung đấu tranh
phức tạp. Giữa cái sống và cái chết, giữa ốm đau và
mạnh khỏe, giữa già sớm và trẻ dài. Nhưng kết quả của
cuộc đấu tranh là do nhân tố nói tại quyết định, chứ
không phải do hoàn cảnh bên ngoài.
Nên
xem cơ thể con người là một chính thể vận động.
Trong
vận động này có lục phủ, ngũ tạng đều dựa vào nhau
(tức là tương sinh), ức chế lẫn nhau (tức là tương khắc),
nhưng "khí huyết" có tác dụng đến tất cả lục phủ ngũ
tạng, cho nên việc phát sinh bệnh ung thư cũng do "khí huyết"
không chu đáo mà sinh ra. Đông y đã xác định rằng cuộc
đấu tranh của cơ thể với bệnh ung thư là cuộc đấu tranh
trong nội bộ cơ thể con người, từ đó mà xây dựng quan
điểm cho rằng bệnh ung thư là thứ bệnh chữa được.
Đương
nhiên bệnh tật do sự trì trệ "khí huyết" mà ra, nó lại
làm hao tổn thêm "khí huyết". Việc tập luyện làm cho khí
huyết thay đổi để tự chữa bệnh là thế.
Từ
đó mà xây dựng được lòng tin vững chắc của người bệnh,
đối với việc tự chữa bệnh ung thư, để tập trung tinh
thần và ý chí đầy đủ để luyện tập "Đạt Ma Dịch Cân
Kinh". Bởi phương pháp này thay đổi và tăng cường "khí huyết",
vì thế nó trị được "trĩ nội", "trĩ ngoại". Ông Hồ Thức
Nguyên bị trĩ nội và đau đầy bụng, chỉ tập một tháng
là khỏi. Trước đây mỗi lần ông ngồi xổm là đom bị
lòi ra. Chỉ sau một tháng luyện tập là đom hết lòi, mà
bệnh đau bụng cũng mất.
Tập
"Dịch Cân Kinh" thấy ăn tốt ngủ ngon, đấy là việc phổ
biến, nên đã làm tăng sức khỏe cho các bệnh nhân nói chung.
Và
chữa khá nhiều bệnh như:
Suy
nhược thần kinh.
Huyết
áp cao.
Bệnh
tim các loại.
Bệnh
thân.
Bán
thân bất toại.
Trúng
gió, méo mồm, lệch mắt.
Hen
suyễn.
Thậm
chí dứt bệnh ác hiểm là bệnh ung thư cũng khỏi
Đông
y cho rằng vấn đề cơ bản của bệnh tật con người là
do "khí huyết" (Âm-Dương) mất thăng bằng mà sinh ra. "Đạt
Ma Dịch Cân Kinh" giải quyết được vấn đề này, nên đối
với đa số các loại bệnh, nhất là bệnh mãn tính đều
có thể chữa được cả.
PHƯƠNG
PHÁP LUYỆN TẬP
"ĐẠT
MA DỊCH CÂN KINH"
Trước
tiên nói về tư tưởng
Phải
có hào khí: nghĩa là phải có quyết tâm tập cho đến nơi
và đều đặn, phải vững vàng tin tưởng, không nghe lời
bàn ra nói vào mà chán nản bỏ dở.
Phải
lạc quan: không lo sợ vì bệnh mà mọi người cho là hiểm
nghèo, và tươi tỉnh tin rằng mình sẽ thắng bệnh do luyện
tập.
Tư
thế: "Trên không dưới có, trên ba dưới bảy".
Trên
phải không, dưới nên có, đầu nên lơ lửng, miệng không
hoạt động, bụng phải mềm, lưng nên thẳng, thắt lưng mềm
dẻo, cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay trầm,
bàn tay quay lại phía sau, ngón xòe như cái quạt. Vẫy, lỗ
đít phải thót, bụng dưới thót, gót chân lỏng, hậu môn
phải chắc, bàn chân phải cứng, các ngón chân bấm chặt
như đứng trên đất trơn. Đây là những qui định cụ thể
của các yêu cầu khi luyện "Đạt Ma Dịch Cân Kinh".
Dựa
trên yêu cầu này, khi tập vẫy tay, thì từ cơ hoành trở
lên, phải giữ cho được trống không, buông lỏng thảnh thơi,
đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào việc tập,
xương cổ cần buông lỏng để cho có cảm giác như đầu
treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên (không mím, môi), ngực nên
buông lỏng để cho phổi thở tự nhiên, cánh tay buông tự
nhiên, giống như hai mái chèo gắn vào vai. Từ cơ hoành trở
xuống phải giữ cho chắc, đủ sức căng, bụng dưới thót
vào, hậu môn nhích lên, mười ngón chân bấm chặt vào mặt
đất, giữ cho đùi và bắp chân trong trạng thái căng thẳng,
xương mông thẳng như cây gỗ.
Khi
vẫy tay cẩn nhớ "lên không xuống có", nghĩa là lấy sức
vẫy tay về phía sau, khi tay trở lại phía trước là do quán
tính, không dùng sức đưa ra phía trước.
"Trên
ba dưới bảy" là phần trên để lỏng chỉ độ ba phần khí
lực, phần dưới lấy gắng sức tới bảy phần thể lực,
vấn đề này phải quán triệt đầy đủ thì hiệu quả rất
tốt.
Mắt
nhìn thẳng, đầu không nghĩ ngợi gì, chỉ nhẩm đếm lần
vẫy tay.
Các
bước tập cụ thể như sau
Hai
bàn chân để xích ra bằng khoảng cách của hai vai.
Hai
cánh tay duỗi thẳng theo vai, ngón tay xòe thẳng, lòng bàn tay
quay về phía sau.
Bụng
dưới thót lại, lưng thẳng, bụng trên co lên, cổ lỏng,
đầu miệng trong trạng thái bình thường.
Các
đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót chân sát đất, bắp
chân và đùi căng thẳng.
Hai
mắt chọn một điểm đàng xa để nhìn, không nghĩ ngợi lung
tung, chỉ chú ý vào ngón chân bám đùi vế chắc, lỗ đít
thót và nhẩm đếm.
Dùng
sức vẫy tay về phía sau, để hai tay trở hai phía trước
theo quán tính, tuyệt đối không dùng sức, chân vẫn lấy
gân, hậu môn co lên không lòi.
Vẫy
tay từ 300-400-500-600 dần dần lên tới 1.000 cái vẫy tay, ước
chừng 30 phút.
Phải
có quyết tâm tập đều đặn, lần vẫy tay dần dần tăng
lên không miễn cưỡng vì "dục tốc bất đạt", nhưng cũng
không tùy tiện bữa tập nhiều, bữa tập ít hoặc nghỉ bệnh,
vì thế dễ làm mất lòng tin trong việc luyện tập, như vậy
khó có kết quả.
Bắt
đầu luyện tập cũng không nên dùng tận lực tàm tổn thương
các ngón chân (nên sau buổi tập vân vê các ngón chân, tay,
mỗi ngón chín lần). Nôn nóng mong muốn khỏi bênh ngay mà
dùng quá sức cũng không đưa lại kết quả mong muốn. Có
quyết tâm, nhưng phải từ từ tiến lên mới là đúng cách,
sẽ thu được kết quả mỹ mãn.
Nếu
tinh thần không tập trung, tư tưởng phân tán, thì khí huyết
loạn xạ, và không chú ý đến "trên nhẹ dưới nặng" là
sai và hỏng.
Khi
vẫy tay tới 600 cái trở lên, thường thường có trung tiện,
hắt hơi, hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng...
đấy là hiện tượng bình thường đừng ngại.
Trung
tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên,
đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn
xuống cho hợp với "trên nhẹ dưới nặng". Đây là quy luật
của sinh lý hợp với vũ trụ "thiên khinh địa trọng".
Bệnh
gan: Do khí huyết, tạng gan không tốt gây nên khí không
thoát, tích lũy, làm cho khó bài tiết. Đương nhiên là bệnh
nan y ảnh hưởng tới cả mật và tì vị. Luyện "Dịch Cân
Kinh" có thể giải quyết vấn đề này. Nếu sớm có trung
tiện là có kết quả sớm.
Bệnh
mắt: Luyện "Dịch Cân Kinh" có thể khỏi đau mắt đỏ,
các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm chí nó
chữa được cả bệnh đục thủy tinh thể (thông manh).
Trong
nội kinh có nói "mắt nhờ huyết mà nhìn được", khi khí
huyết không dẫn đến bộ phận của mắt thì đương nhiên
sinh ra các bệnh của mắt. Con mắt là trong hệ thống của
thị giác, nhưng cũng là một bộ phận của cơ thể.
Những
phản ứng
Khi
tập "Dịch Cân Kinh" có thể có những phản ứng, đều là
hiện tượng thải bệnh không đáng ngại. Xin liệt kể ra
đây 34 phản ứng thông thường (còn những phản ứng khác
không kể hết được):
Đau
buốt.
Tê
dại.
Lạnh.
Nóng.
Đầy
hơi.
Sưng.
Ngứa.
Ứa
nước miếng.
Ra
mồ hôi.
Có
cảm giác như kiến bò, kiến cắn.
Giật
gân, giật thịt.
Đau
xương, có tiếng kêu lục cục.
Có
cảm giác máu chảy dồn dập.
Lông,
tóc dựng đứng.
Âm
nang to lên.
Lưng
đau.
Máy
mắt, mí mắt giật.
Đầu
nặng.
Hơi
thở ra nhiều, thở dốc.
Hảo.
Tăng
tiện.
Gót
chân nhức nhối như măng mủ.
Huyết
áp biến đổi.
Cụm
trắng ở lưỡi biến đổi.
Da
cứng và da dầy rụng đi (chai chân, mụn cóc
Sắc
mặt biến đổi.
Đau
mỏi toàn thân.
Nôn
mửa, ho.
Đại
tiện ra máu, mủ hoặc phân đen.
Tiểu
tiện nhiều.
Trên
đỉnh đầu mọc mụn.
Bệnh
từ trong da thịt tiết ra.
Ngứa
từng chỗ hay toàn thân.
Chảy
máu cam.
Các
phản ứng trên là do trọc khí trong người bị bài tiết ra
ngoài cơ thể, loại trừ chất ứ đọng, tức tử bệnh tật.
Có
phản ứng sự xung đột giữa chánh khí và tà khí, ta vẫn
tập thì sẽ sản sinh ra chất bồi bổ có nhiều ích lợi
cho chính khí. Ta luyện tập đúng phép là làm tăng mức đề
kháng, thải cặn bã trong các gân, thần kinh và cả tế bào
khác mà máu bình thường không thải nổi. Như luyện "Đạt
Ma Dịch Cân Kinh" khí huyết lưu thông mới thải nổi các cặn
bã ra nên sinh ra phản ứng. Vậy ta đừng sợ, cứ tiếp tục
tập như thường, hết một phản ứng là khỏi một căn bệnh,
tập luyện dần đưa lại kết quả tốt.
Luyện
"Đạt Ma Dịch Cân Kinh" đạt được bốn tiêu chuẩn như sau:
Nội
trung tố: tức là nâng cao can khí lên, là then chốt, điều
chỉnh tạng phủ, lưu thông khí huyết, thanh khí sẽ thông
suốt lên tới đỉnh đầu.
Tứ
trưởng tố: tức là tứ chi phối hợp với động tác theo
đúng nguyên tắc khi tập "Dịch Cân Kinh". Tứ trưởng tố
song song với Nội trung tố sẽ làm cho tà khí bài tiết ra
ngoài, trọc khí dằn xuống, cơ năng sinh sản ngày càng mạnh.
Ngũ
tâm phát: nghĩa là 5 trung tâm của huyệt dưới đây hoạt
động mạnh hơn mức bình thường:
Bách
hội: một huyệt trên đỉnh đầu.
Lao
cung: hai huyệt của hai gan bàn tay.
Dũng
Tuyền: hai huyệt ở hai gan bàn chân.
Khi
luyện "Dịch Cân Kinh" năm huyệt này đều có phản ứng và
hoàn toàn thông suốt. Nhâm đốc và 12 kinh mạch đều đạt
tới hiệu quả phi thường, nó làm tăng cường thân thể tiêu
trừ các bệnh nan y mà ta không ngờ.
Lục
phủ minh: Lục phủ là ruột non, mật, dạ dày, ruột già,
bong bóng, tam tiêu.
Nghĩa
là không trì trệ, lục phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức
ăn tiêu hóa và bài tiết được thuận lợi, xúc tiến các
cơ năng sinh sản, giữ vững trạng thái bình thường của
cơ thể, tức là âm dương thăng bằng, cơ thể thịnh vượng.
Một
số điểm cần chú ý
Số
lần vẫy tay không nên ít: từ 600 lên dần tới 1.800 (30 phút)
mới là toại nguyện cho việc điều điều trị. Bệnh nhân
nặng, có thể ngồi mà vẫy tay, tuy ngồi nhưng phải nhớ
thót đít và bấm 10 đầu ngón chân.
Số
buổi tập:
* Buổi
sáng thanh lâm tập mạnh.
*
Buổi chiều trước khi ăn tập vừa.
*
Buổi tối trước khi ngủ tập nhẹ.
Có
thể tập nhiều nhất là bao nhiêu? Ngưỡng cửa của sự chuyển
biến bệnh là 1.800 lần vẫy tay, có bệnh nhân vẫy tới 3.000-6.000.
Nếu sau khi tập thấy ăn ngon, ngủ tốt, đại tiểu tiện
điều hòa, tinh thần tỉnh táo, thì chứng tỏ con số ta tập
là thích hợp.
Tốc
độ vẫy tay: Theo nguyên tắc thì nên chậm, chứ không nên
nhanh, bình thường vẫy chậm thì 1.800 cái hết 30 phút. Vẫy
tay tới lúc nửa chừng thường nhanh hơn lúc ban đầu một
chút, đây là lục động của khí. Khi mới vẫy rộng vòng
và chậm một chút. Khi đã thuần thì vẫy hẹp vòng, người
bệnh nhẹ thì nên vẫy nhanh và dùng sức nhiều, người bệnh
nặng thì nên vẫy chậm và hẹp vòng.
Vẫy
tay nhanh quá làm cho tim đập nhanh, mà vẫy chậm quá thì không
đạt tới mục đích, luyện tập là cần cho mạch máu lưu
thông.
Vẫy
tay nên dùng sức nhiều hay ít, nặng hay nhẹ? Vẫy tay là môn
thể dục chữa bệnh, chứ không phải là môn thể thao khác
biệt. Đây là môn thể dục mềm dẻo, đặc biệt của nó
là dùng ý mà không dùng sức. Nhưng nếu vẫy nhẹ quá cũng
không tốt bởi vì bắp vai không được lắc mạnh thì lưng
và ngực cũng không được chuyển động nhiều, tác dụng
sẽ giảm đi.
Vẫy
tay không phải chỉ chuyển động cánh tay mà phần chính vẫn
là chuyển động bắp vai.
Bệnh
phong thấp thì nên dùng mức "nặng" một chút. Bệnh huyết
áp cao thì nên vẫy tay chậm và nhẹ.
Nói
tóm lại: phần lớn phải tự mình nắm vững tình trạng,
phân tích những triệu chứng. Sau khi tập, nghe sự nhận xét
của mọi người xung quanh, thấy sự chuyển biến của mình,
nhanh nhẹn hơn, tươi tỉnh hơn hay là kém khi trước, rồi
tự mình suy nghĩ và quyết định cách tập, rồi luôn luôn
tổng kết, trên nguyên tắc là tập thế nào cho người thấy
thoải mái và dễ chịu hơn là đúng, là tốt nhất.
Đông
y cho rằng động tác nhẹ là bổ ích cho cơ thể, động tác
mạnh (nặng) là bả (loại bỏ các chất cặn bã có hại trong
người, tức là bệnh tật). Lý luận này cũng đang được
nghiên cứu.
Mức
độ vẫy tay: Chỉ vẫy tay về phía sau dùng sức 7 phần, không
vẫy về phía trước, mà do phản xạ của cánh tay cho là 3
phần.
Có
cần đếm không? Đếm không phải chỉ để nhớ mà còn có
tác dụng làm cho óc được bình tĩnh, tim được trầm tĩnh,
có tác dụng làm cho bộ não được thăng bằng và nghỉ ngơi
(và không được nghỉ ngơi lung tung). Chính khí được bồi
dưỡng.
Hoàn
cảnh vẫy tay: Không có gì là đặc biệt về hoàn cảnh, tập
ở đâu cũng được, trong nhà, ngoài trời dĩ nhiên nơi nào
có dưỡng khí trong sạch và yên tĩnh vẫn tốt hơn.
Trước
và sau khi tập: Trước khi tập nên đứng bình tĩnh cho tim
được thoải mái được yên tĩnh, để chuyển hóa về sinh
lý và tâm lý. Ta có thể làm những động tác nhẹ nhàng thoải
mái như trong môn "khí công", đến khi tập cũng nên bình tĩnh
mà vò 10 đầu ngón chân, 10 đầu ngón tay. Những người không
đủ bình tĩnh, cần chú ý tới điều này.
Tập
"Dịch Cân Kinh" thế nào cho đúng? Sau khi tập cảm thấy ngực
và bụng nhẹ nhàng, dễ chịu, hơi thở điều hòa, mắt sáng,
nước miếng ứa ra, đại tiện nhuận, ăn ngon, tinh thần tỉnh
táo, bệnh tật bớt dần, thì đấy là tập đúng. Rất ít
khi tập sai, tỉ lệ không tới 1%.
Sau
khi tập đại đa số đều thấy có phản ứng, nhưng về hiệu
quả thì rất khác nhau, nguyên nhân chính là tư thế khi tập
có thích hợp với thể chất người tập hay không.
Lúc
bắt đầu tập nên chú ý đến điểm nào?
Nửa
thân trên buông lỏng thượng - hư.
Nửa
thân dưới giữ chắc - hạ thực.
Tay
ra phía trước không dùng lực (nhẹ).
Vẫy
tay ra phía sau có dùng sức (nặng).
Tập
đếm số tay vẫy ngày một tăng, ngày 3 buổi tập, kiên quyết
"tự chữa bệnh cho mình".
Trạng
thái tinh thần lúc tập: có liên quan gì đến hiệu quả không?
* Hết
lòng tin tưởng.
*
Kiên quyết tới cùng.
*
Tập đủ số nhất định, tập thường xuyên. Có thể hiệu
quả rất lớn.
Nếu
khi tập, khi nghỉ không đủ số nhất định. Lòng còn nghi
hoặc. Còn bị động dư luận ngoài. Thấy phản ứng đã lo
sợ, bỏ tập. Hỏi làm gì có kết quả tốt.
Vẫy
tay có sinh ra bệnh gì không? Có thể bệnh do tư thế không
đúng và làm sai nguyên tắc, những trường hợp ấy cũng hạn
hữu, như trên đã nói, không tới một phần trăm.
Khi
tập có phải kiêng gió, kiêng lạnh không? Tránh gió lùa, mùa
hè hay mùa đông đều tránh đứng đầu ngọn gió.
Tóm
lại có mấy điều cần lưu tâm:
Khi
tập luôn luôn bấm mấy ngón chân, thót lỗ đít, để giữ
tư thế "thượng hư – hạ thực".
Vẫy
tay từ ít tới nhiều phải đạt tới 1.800 cái trở lên mới
có hiệu quả.
Có
phản ứng đừng ngại mà ngừng tập, vì đó là diễn biến
tốt, cứ tập số đếm như cũ, qua phản ứng, sẽ tăng số
lần vẫy tay lên.
Kiên
trì, quyết tâm luyện tập, tin tưởng "các bệnh tật sẽ
khỏi".
Vững
lập trường, không hoang mang vì dư luận, lạc quan với cuộc
sống. Chỉ cần niềm tin bằng hạt cải là có thể dời núi
(nghĩa bóng là vững niềm tin mà tập luyện đến chốn, thì
bệnh nguy nan như trái núi cũng phải dời khỏi người).
Có
quyết tâm là thực hiện ngay, càng để chậm là ngần ngại
càng khó khăn thêm, càng lâu khỏi bệnh.
Ghi
chú thêm:
Khi
anh Phạm Viết Hồng Lâm tới báo cáo là anh đã khỏi ung thư
và cảm ơn tôi. Tôi hỏi: Anh xin chữa cô-ban có ba 3 tháng,
anh ăn gạo lức muối vừng, anh tập "Đạt Ma Dịch Cân Kinh"
thì biết anh khỏi bệnh nhờ phương pháp nào?
Thưa
Bác, cháu có suy nghĩ!
Nếu
bệnh ung thư khỏi vì phương pháp hiện đại thì ông Viên
sĩ Mỹ đã khỏi, ông không phải ăn theo thực dưỡng của
Giáo sư Nhật OSAWA, nhưng cũng phải mất 15 tháng ông Viên
sĩ Mỹ kia mới khỏi.
Khi
Bác phổ biến, cháu tập "Đạt Ma Dịch Cân Kinh" và cho cháu
thuốc, chỉ trong 100 ngày luyện tập, cháu ăn ngon, ngủ tốt,
sinh lực cháu bừng lên, cháu càng tin tưởng và kiên trì tập
ngày 3 buổi, chỉ trong 3 tháng là bệnh ung thư của cháu được
xóa sạch.
Thế
thì chính Bác phải cảm ơn cháu, vì trong tài liệu có viết
và dẫn chứng các cá nhân bị ung thư đã tự chữa khỏi.
Dù sao cũng chỉ là tài liệu, nay cháu đã minh chứng thì tài
liệu này đáng tin và nên khuyên mọi người tập, không những
khỏi ung thư mà các bệnh khác cũng khỏi.
Bài
Liên Quan:
Dịch
Cân Kinh, Nguyên bản : Vô danh thời Minh-Thanh, Trung-Quốc Bác-sĩ
Trần Đại-Sỹ và Võ-sư Trần Huy-Quyền chú giải
Dịch
Cân Kinh Nguỵ Tạo