1) Không sát sinh.
2) Không trộm cắp.
3) Không hành dâm.
4) Không nói dối.
5) Không uống rượu và dùng các chất say.
6) Không ăn ngoài giờ (không ăn sau 12 giờ trưa).
7)
 Không tham gia múa hát, thổi kèn, đánh đàn, xem múa hát, nghe đàn, kèn,
 và không trang điểm, thoa vật thơm, dồi phấn và đeo tràng hoa.
8) Không nằm hay ngồi nơi quá cao, và nơi xinh đẹp.
 
Ngày
 trai giới còn có tên gọi là ngày Bố-tát, phiên âm từ chữ "Uposatha". 
"Uposatha" có nghĩa là đi đến và lưu lại tại một ngôi chùa hay một tu 
viện. Theo phong tục Ấn Độ ngày xưa, các giáo sĩ Bà-la-môn thực hiện các
 nghi lễ thanh tịnh hóa, rồi rời gia đình, chọn một nơi thanh vắng để 
sống độc cư trọn ngày, vào ngày trăng tròn (ngày rằm) và ngày đầu trăng 
(mồng 1). Trong bối cảnh đó, Đức Phật cho phép các vị tu sĩ đệ tử của 
Ngài hội họp lại vào các ngày đó để tụng giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa 
(Patimokkha, giới luật tu sĩ) và thuyết giảng cho hàng đệ tử cư sĩ khi 
họ đến lưu lại tại chùa. Ngoài ra, cộng đồng Phật tử thời đó còn có 2 
ngày Bố-tát khác là ngày giữa tuần trăng đầu (mồng 8) và ngày giữa tuần 
trăng sau (ngày 23).
 
Đó
 là bốn ngày Bố-tát căn bản của truyền thống Phật giáo Nguyên thủy, vẫn 
còn được áp dụng cho đến ngày nay. Tuy nhiên, tại Việt Nam, Phật tử cư 
sĩ thường thọ trì 6 ngày trong tháng: 8, 14, 15, 23, 29, 30 (28, 29 cho 
tháng thiếu), hoặc 8 ngày: 5, 8, 14, 15, 20, 23, 29, 30.
1. Tám giới của bậc Thánh
Các
 bài giảng của Đức Phật có liên quan đến tám giới căn bản được ghi lại 
trong Tăng Chi Bộ, Chương Tám Pháp, Phẩm "Ngày Trai Giới". Đức Phật 
giảng rằng người nào thọ trì tám giới nghiêm túc với tâm trong sạch, 
người ấy sống tịnh hạnh như một vị thánh A-la-hán. Vì thế, các đệ tử 
của Ngài phải cố gắng giữ tám giới trong ngày Bố-tát. Ngài giảng chi 
tiết cho bà Visakha (Tỳ-sá-khư) như sau:
--"Thánh đệ tử ấy, này Visakha, suy tư như sau:
1)
 "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ sát sinh, tránh xa sát sinh, 
bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh 
phúc của tất cả chúng sinh và loài hữu tình. Cũng vậy đêm nay và ngày 
nay, ta sống từ bỏ sát sinh, tránh xa sát sinh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết
 tàm quí, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng 
sanh và loài hữu tình. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và
 ta sẽ thực hành trai giới".
2)
 "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy 
những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không 
có trộm cắp. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ lấy của không 
cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh 
tịnh, không có trộm cắp. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán 
và ta sẽ thực hành trai giới".
3)
 "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ tà hạnh, tịnh tu Phạm hạnh, 
sống giải thoát, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta
 sống từ bỏ tà hạnh, tịnh tu Phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ dâm dục 
hèn hạ. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực 
hành trai giới".
4)"Cho
 đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói 
những lời chân thật, y chỉ nơi sự thật chắc chắn, đáng tin cậy, không 
lừa gạt, không phản lại lời hứa đối với đời. Cũng vậy, đêm nay và ngày 
nay, ta sống từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y
 chỉ nơi sự thật chắc chắn, đáng tin cậy, không lừa gạt, không phản lại 
lời hứa đối với đời. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và 
ta sẽ thực hành trai giới".
5)
 "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ rượu men, rượu nấu làm cho đắm
 say, tránh xa rượu men, rượu nấu làm cho đắm say. Cũng vậy, đêm nay và 
ngày nay, ta sống từ bỏ rượu men, rượu nấu làm cho đắm say, tránh xa 
rượu men, rượu nấu làm cho đắm say. Về chi phần này, ta theo gương các 
vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".
6)
 "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán ăn một ngày một bữa, không ăn ban 
đêm, không ăn phi thời. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống ăn một 
ngày một bữa, không ăn ban đêm, không ăn phi thời. Về chi phần này, ta 
theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".
7)
 "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán tránh xa không xem múa, hát, nhạc, 
diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các 
thời trang. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống tránh xa không xem 
múa, hát, nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, 
dầu thoa và các thời trang. Về chi phần này, ta theo gương các vị 
A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".
8)
 "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ giường cao, giường lớn, tránh 
xa giường cao, giường lớn. Các vị ấy nằm trên giường thấp, trên giường 
nhỏ hay trên đệm cỏ. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta từ bỏ giường cao,
 giường lớn, tránh xa giường cao, giường lớn. Ta nằm trên giường thấp, 
trên giường nhỏ hay trên đệm cỏ. Về chi phần này, ta theo gương các vị 
A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".
"Như
 vậy, này Visakha, là Thánh trai giới, thực hành Thánh trai giới, này 
Visakha, có quả lớn, có lợi ích lớn, có chói sáng lớn, có ánh sáng lớn".
 
Trong
 Tăng Chi Bộ, Chương Mười Pháp, Đức Phật cũng khuyên các cư sĩ của bộ 
tộc Thích-ca trong các ngày Bố-tát phải nỗ lực hành trì bát quan trai 
giới, sống tinh cần, nhiệt tâm, không phóng dật trọn ngày và trọn đêm. 
Những lợi lạc do công phu tu tập đó còn to lớn hơn tài sản của cải mà họ
 có thể tích tụ được để sống sung túc cả trăm năm; vì công phu đó sẽ tạo
 thiện nghiệp đưa đến tái sinh trong các cõi trời an lạc với tuổi thọ cả
 ngàn năm.
Hơn
 thế nữa, kết quả đó sẽ giúp tạo điều kiện thuận lợi để phát triển tuệ 
giác, đưa họ nhập dòng thánh giải thoát, qua các quả vị Dự lưu, Nhất 
lai, và Bất lai. Ngài nói:
 
--"Ở
 đây, này các Thích tử, đệ tử của Ta, trong 10 năm sống không phóng dật,
 nhiệt tâm, tinh cần như lời Ta giảng dạy. Như vậy, vị ấy thực hành, vị 
ấy có thể sống trăm năm, ngàn năm, trăm ngàn năm được cảm thọ nhất hướng
 lạc. Vị ấy có thể chứng được quả Bất lai, quả Nhất lai hay quả Dự lưu 
không có sai chạy.
Này
 các Thích tử, đâu phải là 10 năm! Ở đây, đệ tử của Ta trong 9 năm, ... 
trong 8 năm, ..., trong 1 năm, ... trong 10 tháng, ... trong 9 tháng, 
... trong 8 tháng, ... trong 1 tháng, ... trong 10 đêm 10 ngày... trong 9
 đêm 9 ngày... trong 8 đêm 8 ngày... trong 1 đêm 1 ngày sống không phóng
 dật, nhiệt tâm, tinh cần như lời Ta giảng dạy. Như vậy, vị ấy thực 
hành, vị ấy có thể sống trăm năm, ngàn năm, trăm ngàn năm được cảm thọ 
nhất hướng lạc. Vị ấy có thể chứng quả Bất lai, quả Nhất lai, hay quả Dự
 lưu, không sai khác".
*
2. Tám giới trong đời sống tu sĩ
Không
 chỉ dành riêng cho hàng cư sĩ, tám giới trên cũng áp dụng cho 
đời sống xuất gia. Tám giới này được bao gồm trong 10 giới căn 
bản cho hàng Sa-di (Tiểu tụng thuộc Tiểu bộ, và Chương I, Đại 
Phẩm, Tạng Luật), trong đó, giới thứ bảy của bát quan trai 
giới được tách ra làm hai: giới không tham gia múa hát, thổi kèn, 
đánh đàn, xem múa hát, nghe đàn, kèn; và giới không trang điểm, thoa 
vật thơm, dồi phấn và đeo tràng hoa. Cộng thêm vào đó là giới không
 cất giữ vàng bạc, thành tổng cộng 10 giới.
Tám giới nầy cũng nằm trong giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa (Patimokkha) của các vị tỳ khưu:
- Không sát sinh: trong phần Triệt khai bất cộng trụ và phần Ưng đối trị.
- Không trộm cắp: trong phần Triệt khai bất cộng trụ.
- Không hành dâm: trong phần Triệt khai bất cộng trụ.
- Không nói dối: trong phần Triệt khai bất cộng trụ và phần Ưng đối trị.
- Không uống rượu và các chất say: trong phần Ưng đối trị.
- Không ăn trái giờ: trong phần Ưng đối trị.
- Không nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp: trong phần Ưng xả đối trị và phần Ưng đối trị.
 
Riêng
 giới không múa hát, thổi kèn, đàn, xem múa hát, nghe đàn kèn tuy 
không ghi rõ trong giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa nhưng có ghi trong 
các điều liên quan đến tội Tác ác (dukkata), thuộc Tiểu Phẩm 
(Chương V, Tỳ khưu Indacanda dịch Việt), của Tạng Luật. Duyên sự như
 sau:
Một
 lần nọ, tại thành Rājagaha (Vương xá) có lễ hội ở trên đỉnh núi. Các
 tỳ khưu nhóm Lục Sư đã đi xem lễ hội ở trên đỉnh núi. Dân chúng phàn 
nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các sa-môn Thích tử lại đi xem vũ, ca, luôn cả tấu nhạc, giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các
 tỳ khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. 
Các tỳ khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự 
học tập, đến trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Ngài khiển trách nhóm
 Lục Sư ấy, rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, không nên đi xem vũ, ca, hoặc tấu nhạc; vị nào đi thì phạm tội dukkata (tác ác).
Ngay
 cả đến việc ngâm nga các bài kệ, bài pháp với các âm điệu 
trầm bổng du dương cũng bị Đức Phật khiển trách và ngăn cấm. 
Một lần nọ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngâm nga giáo pháp theo âm điệu
 ca hát với sự kéo dài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các sa-môn Thích tử này ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài giống y như chúng ta ca hát vậy.
Các
 tỳ khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. 
Các tỳ khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự 
học tập, đến trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Ngài khiển trách nhóm
 Lục Sư ấy, rồi bảo các tỳ khưu rằng:
-
 Này các tỳ khưu, đây là năm điều bất lợi khi ngâm nga giáo pháp theo 
âm điệu ca hát với sự kéo dài: Bản thân vị ấy bị say đắm trong âm điệu, 
luôn cả những kẻ khác cũng bị say đắm trong âm điệu, hàng tại gia phàn 
nàn, trong khi ra sức thể hiện âm điệu thiền định bị phân tán, điều cuối
 cùng là dân chúng thực hành theo đường lối sai trái. Này các tỳ khưu, 
đây là năm điều bất lợi khi ngâm nga Pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo
 dài. Này các tỳ khưu, không nên ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca 
hát với sự kéo dài; vị nào ngâm nga thì phạm tội dukkata (tác ác).
Chương
 V, Tiểu Phẩm, cũng có ghi việc Đức Phật khiển trách và ngăn 
cấm các tu sĩ trang điểm, thoa vật thơm, đeo tràng hoa, v.v. Duyên 
sự như sau:
 
Một
 lần nọ, các tỳ khưu trong nhóm Lục Sư thoa dầu khuôn mặt, xoa bóp 
khuôn mặt, thoa phấn khuôn mặt, tô điểm mặt bằng bột phấn đỏ, vẽ màu ở 
thân thể, vẽ màu ở mặt, vẽ màu ở thân thể và ở mặt. Dân chúng phàn nàn, 
phê phán, chê bai rằng:
-
 Tại sao các sa-môn Thích tử lại thoa dầu khuôn mặt, xoa bóp khuôn mặt, 
thoa phấn khuôn mặt, tô điểm mặt bằng bột phấn đỏ, vẽ màu ở thân thể, vẽ
 màu ở mặt, vẽ màu ở thân thể và ở mặt giống như các kẻ tại gia hưởng 
thụ dục lạc vậy?
Các
 tỳ khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. 
Các tỳ khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự 
học tập, đến trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Ngài khiển trách nhóm
 Lục Sư ấy, rồi bảo các tỳ khưu rằng:
-
 Này các tỳ khưu, không nên thoa dầu khuôn mặt, không nên xoa bóp khuôn 
mặt, không nên thoa phấn khuôn mặt, không nên tô điểm mặt bằng bột phấn 
đỏ, không nên vẽ màu ở thân thể, không nên vẽ màu ở mặt, không nên vẽ 
màu ở thân thể và ở mặt; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkata (tác ác).
*
3. Áp dụng bát quan trai giới trong đời sống cư sĩ
 
Theo
 truyền thống, trong ngày Bố-tát, người cư sĩ Phật tử thức dậy sớm, sửa 
soạn thức ăn, rồi cúng dường đến các vị Tăng sĩ đi khất thực trong xóm 
làng. Hoặc họ mang thức ăn đến chùa và cúng dường đến chư Tăng ở đó. 
Đồng thời, các vị Phật tử này xin chư Tăng đọc truyền Tam quy và Bát 
quan trai giới để được thọ trì trong suốt ngày và đêm hôm đó. Có thể là 
sau đó, họ trở về nhà, sinh hoạt bình thường, nhưng vẫn tuân giữ tám 
giới cho đến sáng hôm sau. Có thể là họ thu xếp để ở lại chùa trọn ngày 
và trọn đêm hôm đó. Cần ghi nhớ ở đây là phải trì giữ trọn vẹn các trai 
giới đó trong suốt 24 giờ.
Tùy
 theo nếp sinh hoạt của mỗi chùa, chương trình có thể thay đổi. Có những
 nơi Phật tử lưu lại đó để đọc sách, nghe thuyết pháp, đóng góp vào các 
công tác Phật sự, làm công quả tại chùa. Có những nơi chú trọng đến hành
 thiền, người Phật tử dành trọn ngày và đêm để tập sống quán niệm, tĩnh 
tâm, xen kẽ các buổi ngồi hành thiền và đi kinh hành, và đến gặp thiền 
sư để tham vấn riêng về các vấn đề có liên quan đến công phu tu tập của 
mình.
Có
 những chùa tổ chức đêm thọ đầu đà, với tham dự viên nguyện không ngủ 
hay nằm, tích cực tham gia vào các buổi thuyết pháp và thảo luận về Phật
 pháp. Trong đêm đầu tháng và giữa tháng, nếu tại chùa có trên 4 vị Tỳ 
khưu, chư Tăng tụ họp tại chánh điện, nơi có kết giới Sima, để tụng đọc 
227 điều giới bổn của hàng Tỳ khưu, và cuộc lễ này có thể kéo dài hơn 
một giờ.
*
Ngày
 nay, trong môi trường xã hội kinh tế hiện đại, khi chúng ta phải sinh 
hoạt, làm việc theo lịch Tây phương, rất khó tuân giữ các ngày Bố-tát 
đúng theo âm lịch. Khuynh hướng thông thường là dời ngày Bố-tát vào 
những ngày cuối tuần, khi mọi người được nghỉ ngơi, dễ thu xếp để gặp 
nhau, hay đi đến chùa, đến các tịnh thất, thiền viện. Có những nhóm Phật
 tử đã linh hoạt tổ chức ngày "Tịnh tâm" hằng tháng, vào ngày cuối tuần 
kề cận với đêm trăng rằm, thường là ngày thứ Bảy và hành trì bát quan 
trai giới trọn ngày và trọn đêm đó cho đến sáng ngày Chủ nhật.
Nếu
 có chư Tăng Ni hiện diện thì chúng ta thỉnh quý vị ấy truyền quy 
giới. Ở những nơi không có Tăng Ni, chúng ta có thể mời một vị cư sĩ lớn
 tuổi, có uy tín, tuyên đọc quy giới, và mọi người cùng đọc theo, và tự 
nguyện thọ trì với tâm trong sạch. Chương trình sinh hoạt thì tùy duyên,
 có thể là tổ chức các buổi hành thiền, tham cứu kinh sách, xen kẽ với 
các buổi thuyết pháp hoặc đàm luận về Phật pháp, hoặc cùng tụng đọc các 
bài kinh căn bản như kinh Từ Bi, kinh Hạnh Phúc, kinh Châu Báu, kinh 
Chuyển Pháp Luân, v.v., hoặc cùng nghe các bài giảng, các bài kinh tụng 
thu âm trong băng audio-cassette hay đĩa CD.
 
Tương
 tự trong tinh thần đó, ở những nơi xa xôi, không có nhiều bạn đồng 
tu, không có chùa, không có Tăng Ni, chúng ta vẫn có thể tự tổ chức một
 ngày trai giới tại nhà riêng, tự đọc lên lời nguyện quy y Tam Bảo và 
hành trì Tám Giới, rồi lập ra một chương trình tịnh tu cho riêng mình 
trong trọn ngày ấy.
 
Điều
 quan trọng là mỗi người chúng ta cần phải tu tập giữ tâm thanh tịnh, 
nhu hòa, không bận rộn, không lo âu tính toán, và lúc nào cũng cố gắng 
tỉnh giác, chuyên chú, chánh niệm, nhất tâm hướng về Phật Pháp trong 
suốt thời gian thọ trì bát quan trai giới.