Ngàn năm là cái mốc thời gian. Cơ hội ngàn năm không
phải trời sinh ra vốn thế. Cơ hội Ngàn năm Thăng Long - Hà Nội là kết
tinh mấy ngàn năm phấn đấu của dòng giống Lạc Hồng.
Những con người nguyên thủy sống trên dải đất hình chữ
S thời mông muội chắc hằng ngày mải lo kiếm cho được cái ăn cho vào
bụng, kiếm tấm vỏ cây phủ ấm cái thân, tìm hang động kín đáo tránh gió
mưa sấm sét và phòng ngừa thú dữ, chắc chưa nghĩ nhiều đến tương lai
xa. Nhưng cuộc sống là tiến hóa. Cuộc sống không ngừng đi lên. Các bầy
đàn người nguyên thủy đánh bạn với nhau, dựa vào nhau để tồn tại, dần
dần liên kết thành thị tộc, bộ lạc... Con người đặt những bước chân đầu
lên hành trình vạn dặm, hành trình không bao giờ kết thúc gọi là cuộc
sống văn minh.
Theo truyền thuyết, các vua Hùng mở nước cách đây hơn
ba ngàn năm. Vậy là ít nhất hai ngàn năm trước Công nguyên, tổ tiên ta
đã bắt tay tạo dựng cơ hội cho lễ hội ngàn năm hôm nay. Tính từ thời
ấy, bất kỳ làm gì để tồn tại, để cuộc sống khá hơn, cũng góp phần tạo
cơ hội cho tương lai.
Đường Điện Biên Phủ (Hà Nội) được trang trí chào mừng ngày đại lễ. Ảnh TTXVN |
Đáng buồn là lãnh thổ ta, đất nước ta sớm bị người nước
ngoài xâm chiếm. Họ áp bức chúng ta, họ bóc lột chúng ta, họ khai thác
tài nguyên xứ sở chúng ta. Được cái, dù muốn hay không, họ vẫn phải
mang đến và truyền bá nền văn minh của họ, khách quan mà nói cao hơn
trình độ phát triển của tổ tiên ta thời bấy giờ. Và tổ tiên chúng ta,
dù muốn hay không, vẫn phải tiếp nhận nền văn minh đến từ phương Bắc,
cùng thi thoảng làn gió lạ đến từ đất Phật qua các nhà tu hành cùng
thương nhân tới bằng đường biển Nam - Đông Nam.
Cái vĩ đại của tổ tiên ta là ở chỗ từ thuở nguyên sơ,
các ngài đã biết gạn lọc những tinh hoa vật chất và tinh thần để thấm
nhuần và thực thi, các ngài sớm gạt bỏ ra khỏi cuộc sống của mình những
cái dở, vô luân, tàn bạo của bất kỳ ai khác.
Tựu trung, cái vĩ đại nhất lưu truyền cho đến hôm nay
không phải chúng ta học được của nước ngoài mà xuất phát từ bản chất
của người Việt, được nuôi dưỡng bằng máu thịt Việt. Ấy là tính ngoan
cường không khuất phục trước khó khăn, không chịu để cho ai đè đầu cưỡi
cổ. Ấy là tính chắt lọc lấy cái hay của người khác nhào nặn với cái bản
chất của mình, tạo lập nền văn minh tinh thần của chính mình.
Cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, nhân phẩm của
người Việt ta khởi đầu chẳng rõ chính xác từ buổi nào, bởi thời nguyên
sơ chưa có sử thành văn. Hậu thế chỉ được biết qua truyền thuyết. Dù
sao cũng khẳng định được một cái mốc, do nó được ghi vào chính sử của
những người thống trị, là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 43).
Tiếp đó là cả ngàn năm dài chiến đấu giành độc lập. Cho
đến cuối thiên niên kỷ thứ nhất, nền độc lập của Việt Nam mới giành hẳn
được. Với sự kiện Ngô Quyền cùng chiến thắng Bạch Đằng giang, nhà Ngô
(949-959) đặt nền móng, để anh hùng Đinh Bộ Lĩnh dựng nhà Đinh
(968-980), cùng Lê Hoàn đi vào lịch sử những năm bản lề hai thiên niên
kỷ với việc định đô tại Hoa Lư.
Cơ sở ấy là cơ hội để vua Lý Thái Tổ đi đến quyết định
ngàn năm: dời đô về Thăng Long. Ngày nay, hầu như không mấy người Việt
Nam không biết: Sự kiện ấy diễn ra năm Canh Tuất 1010, cách đây đúng
một ngàn năm.
Từ cái mốc 1010 đến Đại lễ Thăng Long - Hà Nội 2010 là
thiên niên kỷ dân tộc ta liên tục vượt qua thách thức, tiếp tục kiến
tạo cơ hội. Chỉ cần gợi lại một số thời điểm, địa danh là đủ cho mọi
người nhớ lại những sự kiện làm nên lịch sử: phá tan quân Tống (đời
Lý), chiến thắng Nguyên - Mông (đời Trần), đánh xâm lược Minh (đời Lê),
đại phá quân Thanh (đời Nguyễn - Quang Trung)...
Đến thời đại Hồ Chí Minh, ở đó Bác Hồ cùng Đảng Cộng sản lãnh đạo toàn dân đi từ Tháng Tám 1945 qua Chín năm làm một Điện Biên (thơ Tố Hữu), đến Ngày vui đại thắng
(ca khúc Phạm Tuyên) 1975, ngày vui lớn mà mọi người cùng ngợi ca, cho
dù Bác Hồ đã đi xa, Bác vẫn có mặt chung vui với sáu mươi triệu đồng
bào.
Đi đôi với giữ nước, củng cố nền tự chủ là sự nghiệp mở
mang bờ cõi. Đối với chúng ta, đời nào cũng vậy, chiến tranh là nhất
thời, do không thể tránh. Hòa bình, xây dựng mới bền lâu. Quá trình mở
mang bờ cõi của người Việt về phương Nam khó tránh khỏi chiến chinh,
cho dù phần lớn đều do đối phương gây sự. Mở nước là những bước tiệm
tiến hòa bình. Bước chân không mỏi của ông cha ta hành phương Nam, đồng
thời khám phá núi rừng miền Tây.
Đời Trần, một nàng công chúa đã "nước non ngàn dặm ra đi..." (*). Chính lời nàng Huyền Trân hay là hậu thế nói hộ nàng bầu tâm sự "cái tình chi?"
(*). Cái tình chi? Chắc chắn không phải cái tình đối với vị hôn phu
chưa hề biết mặt, thời ấy còn chịu thiên kiến là vua xứ man di.
Cái tình đây là tình đối với phụ vương đã có một quyết
định để đời, cái tình đối với triều đình cùng trăm họ, trong đó ai biết
có hay không bóng hình một chàng trai. Chuyến đi ngàn dặm vấn vương của
nàng nhằm "đền nợ Ô Ly" (*) (châu Ô và châu Ri - phần phía từ
Nam Quảng Trị trở vào Thuận, Quảng ngày nay), mở rộng bờ cõi, xây dựng
hòa hiếu, giữ cho biên cương thanh bình, trăm họ yên vui để cùng dồn
sức biến các vùng đất mới thành ruộng đồi trù phú, làng xóm xanh tươi.
Đôi rồng thời Lý bằng gốm sứ lớn nhất Việt Nam trong lễ khánh thành tại công viên Bách Thảo, Hà Nội. Ảnh TTXVN |
Cao cả xiết bao hành động của một người đàn bà. Nối
tiếp dấu chân bà, các thế hệ trai tráng giã từ làng quê ra đi, lòng
canh cánh: Từ thuở mang gươm đi mở cõi/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long (thơ Huỳnh Văn Nghệ). Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh đưa dân binh miền Trung vào khai phá lập nên các trấn Gia Định, Tân Bình.
Thoại ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại với trọng trách trấn
giữ biên cương, ngài đã huy động hàng chục vạn dân công đào kênh núi
Sạp (Thoại Hà) rồi kênh Vĩnh Tế, đắp đường, lập ấp, định hình vĩnh viễn
đường biên giới Tây Nam. Những nghĩa binh dong thuyền rời làng quê ra
đi giữa sóng cồn để trấn giữ Hoàng Sa, khai thác Trường Sa, Phú Quốc,
Côn Sơn... Những anh hùng Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Trương Định,
Nguyễn Trung Trực chiến đấu bằng súng gươm hay Nguyễn Đình Chiểu "đâm mấy thằng gian bút chẳng tà"...
Cho dù ngớ ngẩn, vẫn nên nhắc đây lại một điều ai ai
cũng rõ: Không có đại sự dời đô, đương nhiên không có Đại lễ Ngàn năm.
Không có Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, không có Tháng Tám, Điện Biên,
Mùa xuân Đại thắng, không có Đổi mới và Hội nhập, làm sao có Đại lễ
Ngàn năm.
Cái chân lý "giản đơn như chân lý" ấy nhắc nhở chúng
ta: Trong những ngày tháng trọng đại này, cho dù ta đang có mặt tại Hà
Nội hay ở bất kỳ đâu, hãy ngẩng đầu kiêu hãnh nhìn lên đến các vua
Hùng, thành kính tri ân tiên tổ cũng như công đức dân tộc, Bác Hồ. Cái
"chân lý giản đơn như chân lý" ấy đòi chúng ta gắn bó với nhau hơn, bỏ
qua những tiểu dị, vì nghĩa cả tăng cường đoàn kết, đồng thuận cho xứng
đáng với chiều dày lịch sử, như tổ tiên ta sát cánh bên nhau từ mấy
ngàn năm trước, như rồi đây con cháu ta siết chặt tay nhau trên con
đường tự chủ và phát triển.
Ngàn năm qua, Thăng Long - Hà Nội là nơi hội tụ linh
khí toàn dân tộc. Là nơi thể hiện sâu sắc và tập trung nhất tinh hoa
văn hóa của người Việt cũng như của cả cộng đồng các dân tộc anh em.
Văn hiến, đức độ, tài hoa, truyền thống... hòa quyện tại thủ đô. Văn
minh Thăng Long - Hà Nội biểu trưng văn hiến Việt Nam.
Cả nước chung sức xây dựng. Mấy năm gần đây, từ khi bắt
tay chuẩn bị cho đến trước thềm đại lễ hôm nay, cả nước đã làm hết mình
với tinh thần góp sức cùng thủ đô. Trên thực tế chúng ta đã làm được
nhiều việc lớn có ý nghĩa, sẽ lưu lại cho đời sau bao công trình xứng
đáng. Quá trình chuẩn bị đại lễ cũng là quá trình cung cấp một lượng
thông tin, giáo dục đồ sộ về đất nước, lịch sử và con người Việt Nam.
Đây là những công trình vô ảnh vô hình song sẽ hiện hữu lâu dài trong
tâm trí đồng bào.
Chiều dày lịch sử cùng nhiệt thành của cả nước đặt
trách nhiệm lên đôi vai mọi người. Trước thềm đại lễ, một câu hỏi tự nó
đặt ra: Người Việt Nam ta, trước hết là người thủ đô, nên làm sao đây
cho đại lễ thành công như náo nức mong chờ? Làm sao đây để in đậm vào
lịch sử đương đại nhiều nét vui, giảm thiểu những chuyện phiền lòng
không đáng có, cho xứng với ý nghĩa quyết định ngàn năm của vua Lý?
Mỗi người nên hành xử cách sao cho sự kiện Ngàn năm
Thăng Long - Hà Nội thể hiện được thực chất tinh anh văn hóa và bản
lĩnh con người thời đại Hồ Chí Minh? Đó là kỳ vọng đồng bào cả nước và
kiều bào ở nước ngoài gửi gắm vào những người có diễm hạnh trực tiếp
tham gia đại lễ Ngàn năm thể hiện tập trung vào những ngày tháng Mười,
những ngày mà nhìn về đâu tuồng như ta cũng thấy hiển hiện lời nhắc
nhở: "Tổ tiên trông xuống, người ta trông vào...".
(*) Câu mở đầu lời bài ca Nam Bình nổi tiếng ở miền Trung.