Nơi nương tựa vững chãi
Nơi nương tựa vững chãi
Mỗi khi trở về sau một chuyến đi dài
mệt nhọc, vừa mở cửa bước vào nhà là chúng ta lập tức thấy khoẻ nhẹ,
thoải mái ngay. Cũng như sau một ngày làm việc, phải đối phó với những
biến cố, những khó khăn của đời sống hàng ngày, khi được về nhà, được
ngồi hoặc nằm nghỉ trong căn phòng của mình ta thấy rất dễ chịu, và căn
phòng đó thật quen thuộc, ấm áp. Thực tập trở về hải đảo tự thân cũng
giống như vậy. Trong ta có sẵn một vùng rất êm ấm, an ninh. Mỗi khi ta
nương theo hơi thở để trở về vùng đất đó thì ta cảm thấy rất bình an,
thấy mình được che chở. Cái đó gọi là hải đảo tự thân. Trước khi đức Thế
Tôn nhập diệt Ngài cũng có dạy về điều này, nương tựa hải đảo tự thân.
Quê hương bình yên, êm ấm ấy vốn đã có
sẵn trong tâm ta. Mỗi khi muốn trở về, ta không cần tốn tiền và mất thời
gian đi máy bay hay tàu hỏa mà chỉ cần nương vào hơi thở có ý thức là
chúng ta lập tức chạm chân tới miền đất an lành đó. Và quê hương ấy, căn
nhà an toàn ấy đi đâu ta cũng mang theo. Tại vì cái hải đảo đó không
nằm ở không gian hay ở thời gian ngoài kia mà nó nằm ở trong tâm ta.
Đức Thế Tôn dạy chúng ta phải thường
xuyên trở về với hải đảo tự thân của mình. Khi mở những cánh cửa giác
quan thì chúng ta tiếp xúc với những cái thấy, cái nghe, cái xúc chạm từ
bên ngoài. Những pháp trần này như những luồng gió thổi vào căn nhà của
ta. Nó làm xáo trộn tâm ta. Cho nên khi trở về, chúng ta phải đóng bớt
những cánh cửa giác quan lại.
Đạo Bụt nói tới hai loại tâm thức: một phần tâm thức lớn gọi là tàng thức; một cái thức nhỏ hơn gọi là ý thức,
đây là cánh cửa mở ra đón nhận thế giới bên ngoài. Trong đời sống hàng
ngày, những âm thanh, những hình ảnh, những bận rộn, lo toan, những ồn
ào cụ thể ở bên ngoài sẽ đi vào trong ý thức để rồi rơi vào tàng thức.
Nếu những ngọn gió đó mang nhiều ô nhiễm mà cứ ồ ạt thổi vào những cánh
cửa giác quan của ta thì sẽ làm cho ta mệt mỏi. Những lúc ấy ta nên đóng
cửa lại, ở yên trong “ngôi nhà của mình”. Duy trì hơi thở vào ra có ý
thức trong khoảng vài phút thì tâm sẽ bình an trở lại. Đối với người
biết thực tập thì chỉ cần một, hai phút là lấy lại được trạng thái cân
bằng.
Mỗi khi lên giường tắt đèn đi ngủ, ta
nằm nghiêng trong tư thế “Sư tử toạ” đó là thế nằm nghiêng về phía bên
phải, trở về với ngôi nhà chân thật của mình và thở. Ta không còn nghe
gì nữa, không nói gì nữa. Ta hoàn toàn trở về với chính mình và thở thật
bình an. Sau vài ba hơi thở, tự nhiên căn phòng đó trở nên êm dịu, ấm
áp, rất thoải mái. Nếu đã quen với phương pháp thở có ý thức, thì chỉ
nội trong vài phút là tâm ta có sự lắng dịu và bình an. Và sự lắng dịu,
bình an ấy sẽ thấm nhuần giúp nuôi dưỡng và trị liệu những khổ đau trong
thân tâm ta.
Có những người không bao giờ cưỡng lại
được sự rong ruổi. Họ không biết cách trở về hải đảo tự thân để được
nuôi dưỡng. Chúng ta là những người có rất nhiều phước đức nên đã may
mắn biết tới phương pháp theo dõi hơi thở để trở về nơi hải đảo tự thân.
Và phải biết thêm rằng, nếu thực tập cho giỏi thì trong cái hải đảo tự
thân đó vốn có sẵn chim muông, cỏ cây, hoa lá; có suối, bướm, hoa, trời
xanh, mây trắng ở trong. Ban đầu ta nghĩ, chỉ có thế giới bên ngoài mới
có mặt trời, mới có hoa lá cỏ cây. Nhưng kỳ thực, ở trong này cũng có.
Và có khi nó còn đẹp hơn cả ở bên ngoài. Chúng ta từng đi qua những
giấc mơ, trong đó có những hình ảnh, những âm thanh còn đẹp hơn bên
ngoài. Vì vậy, ở trong thế giới này cũng có thể có trời xanh, mây trắng.
Và tất cả những cái đó đều là những hạt giống ta đã gieo, nay nó trở về
và biểu hiện lên bề mặt ý thức. Mây và nắng không hẳn chỉ ở ngoài, mây
và nắng nằm cả ở bên trong. Mỗi người phải biết tự chế ra mây, gầy ra
nắng, để tới khi bên ngoài không còn mây, không còn nắng thì trong lòng
mình vẫn đầy ắp mây trắng nắng vàng. Nhà thơ Mai Thảo đã viết:
“Hãy chế lấy mây và gầy lấy nắng.
Chế lấy đừng vay mượn đất trời.
Để khi nhật nguyệt còn xa vắng,
Đầu hè vẫn có ánh trăng soi.”
Ánh trăng này là từ trong tâm chiếu ra.
Hàng ngày, mỗi khi thực tập thiền hành, thiền toạ ; mỗi khi tiếp xúc
được với những mầu nhiệm như nụ hoa, đám mây, giọt nắng, bầu trời xanh,
thì tất cả những cái đó đều đi vào tàng thức của ta và trở thành “của để
dành” của ta. Thay vì để dành tiền bạc thì ta để dành nắng, để dành
mây, để dành niềm hạnh phúc, để dành sự bình an. Đó chính là tu tập.
Chăm sóc hải đảo tự thân
Có một dạo, cứ vào buổi trưa, sau nửa
ngày làm việc tôi hay đi nghỉ một chút. Khi ấy tôi hay mở CD tụng kinh
của Thượng toạ Tịnh Quang ra nghe khoảng năm mười phút để cho những bài
tụng đó thấm vào trong lòng. Nhưng tới giai đoạn sau, tôi nghĩ rằng
không cần phải nghe kinh nữa tại vì kinh đã ngấm sâu vào tàng thức của
tôi rồi. Bên trong đã có sẵn nên không cần nhận từ bên ngoài nữa. Lúc
đó, tôi chỉ nằm thở và để cho kinh ở trong tôi đi ra. Bấy giờ, sự ấm
cúng từ bên trong đi ra còn lớn hơn là sự ấm cúng từ bên ngoài đi vào.
Khi theo dõi hơi thở, có sự lắng dịu trong tâm thì ta thấy ở trong mình
có đủ hết rồi, và ta không còn cần bất cứ một cái gì từ bên ngoài nữa
hết. Rất mong rằng quý vị tập được thói quen này.
Tuỳ theo sự thực tập của ta mà hải đảo
tự thân đó có thể trở nên đẹp đẽ tới mức nào. Cũng như khi bước vào một
căn phòng sạch sẽ, có treo những bức tranh hay những bức thư pháp thì ta
cảm thấy rất thích thú, vì căn phòng gọn gàng và đẹp đẽ quá. Ý thức của
ta cũng như vậy. Nếu có tu tập thì trong tâm ta sẽ có hoa, có bướm, có
thông reo, có suối chảy. Mỗi khi trở về, ta đều cảm thấy thoải mái, hạnh
phúc. Mỗi ngày ta nên trở về nhiều lần. Ban đêm trước khi đi ngủ, nằm
trên giường và vui thú với cái vùng an ninh đó. Chỉ có mình với mình
thôi. Rất là khỏe.
Khi ta trở về với hải đảo tự thân, ta
nuôi dưỡng hơi thở, sống với hơi thở và hơi thở sẽ làm cho thân tâm êm
dịu. Bên trong ta có thể hơi có sự xáo trộn, nhưng khi đã trở về rồi thì
với hơi thở, ta chăm sóc được thân và tâm, và sự xáo trộn đó sẽ lắng
xuống. Chỉ cần trong một hai phút là ta hưởng được sự an tịnh của hải
đảo bên trong rồi. Khi có hơi thở chánh niệm và sự lắng dịu rồi thì Tam
bảo cũng nằm ngay ở trong đó. Và nương tựa vào cái vùng an ninh đó tức
là đang nương tựa vào Phật, Pháp và Tăng. Giây phút đó là giây phút ta
thật sự đang Quy y, đang được che chở bởi Bụt, Pháp và Tăng. Quy y không
phải là chắp tay lại và chỉ đọc ba câu con về nương tựa Bụt, Pháp,
Tăng. Quy y là trở về với hơi thở chánh niệm, an trú trong giây phút
hiện tại bây giờ và ở đây. Khi tâm bình an, thoải mái tức là khi ấy
trong ta đang có Tam Bảo che chở. Trong hải đảo tự thân luôn luôn có
Bụt, Pháp, Tăng; có đạo hữu, tổ tiên, bạn bè ở trong.
Tập thở
Có một phương pháp thở rất hay đó là
nương vào tiếng tích tắc của đồng hồ. Hơi thở vào của ta có thể là hai
giây hay ba giây, hơi thở ra thường là dài hơn, có thể là bốn hay năm
giây. Hơi thở của mỗi người khác nhau có thể là dài hơn, nhưng cũng có
thể là ngắn hơn. Vì vậy mỗi người có thể kết hợp thở với tiếng tích tắc
của đồng hồ phù hợp với nhu yếu lá phổi của mình.
Trong lúc
thở và đếm tiếng tíc tắc của đồng hồ thì sự chú ý tới hơi thở sẽ dễ dàng
hơn và những suy nghĩ trong đầu tự động sẽ ngưng lại. Khi nằm ngủ, ta
có thể để đồng hồ gần giường rồi thở theo, điều này sẽ giúp cho giấc ngủ
của ta nhẹ nhàng và sâu lắng.
Nếu không muốn đếm số bạn có thể sử
dụng những câu như: thở vào ba giây ta có thể nói : “Bụt, Pháp, Tăng”,
thở ra năm giây ta có thể nói: “Nương tựa Bụt, Pháp, Tăng” thay vì thầm
nói 1 2 3 và 1 2 3 4 5
Ngồi thiền
Ngồi là một trong bốn tư thế của con
người: đi, đứng, nằm, ngồi; gọi là tứ uy nghi. Ai trong chúng ta cũng
muốn mình ngồi thật đẹp, ngồi thật hạnh phúc. Vì vậy, mỗi người cần phải
tìm ra cái thế ngồi mà mình cảm thấy vững chãi, hạnh phúc nhất. Khi đã
tìm được một thế ngồi thích hợp thì ta mới có thể ngồi lâu được. Ta có
thể ngồi được nửa giờ, bốn mươi lăm phút, một giờ hoặc có thể là một giờ
rưỡi. Điều này tùy theo khả năng của mỗi người.
Khi ngồi thiền chúng ta thường hay ngồi
trong tư thế kiết già, đó là thế ngồi vững chãi nhất. Nếu không ngồi
được kiết già thì ta có thể ngồi bán già, hoặc tìm một thế ngồi nào
thích hợp với mình, như ta có thể ngồi trên một chiếc ghế, buông hai
chân chạm đất. Tư thế nào cũng được miễn sao ngồi cho thật vững chãi,
thật thoải mái, dễ chịu là được.
Tập ngồi thiền, trước hết phải học cách
dừng lại. Đầu tiên là dừng lại những hoạt động của thân, kế đến là dừng
lại những hoạt động của tâm. Trong khi ngồi thiền, trước hết ta để ý
tới hơi thở. Thở vào ta có thể nói: “Con mời Bụt thở bằng phổi của con”.
Vừa mời xong thì lập tức Bụt sử dụng phổi của ta để thở liền. Trong khi
thở như vậy, cơ thể của ta rất buông thư và ta nếm được pháp lạc. Chỉ
khi nào ngồi thiền mà có pháp lạc thì khi ấy ta biết rằng ta đang thở
đúng. Còn ngồi thiền mà không có pháp lạc tức là ta đang thở sai rồi đó.
Có thể là lúc ấy bạn đang cố gắng quá nhiều, dụng công quá nhiều nên
bạn cảm thấy cả thân lẫn tâm mình bị căng thẳng. Thở chứ có làm gì đâu
mà phải dụng công?
Tiếp theo, ta mời Bụt ngồi bằng cái lưng của
mình. Mời xong thì cái lưng của ta tự động thẳng lên bởi vì một khi Bụt
đã ngồi thì Bụt ngồi rất thẳng. Ta ngồi với cái lưng của Bụt chứ nhất
định không chịu ngồi với cái lưng của bà ngoại.
Chúng ta bắt đầu ngồi thiền bằng việc
điều thân và điều tức. Điều thân là điều chỉnh tư thế ngồi của mình cho
ngay ngắn, buông thư. Đầu không cúi xuống quá cũng không ngước lên, thân
buông thư thật thoải mái. Điều tức là điều hòa hơi thở. Hơi thở có ý
thức làm cho tâm thấm vào trong thân và thân thấm vào trong tâm. Khi
thân tâm đã nhất như, đã buông thư rồi thì trong người sẽ khoẻ nhẹ, dễ
chịu. Mỗi khi ngồi thiền chúng ta đều phải làm việc này trước hết. Làm
sao để mỗi khi ngồi thiền thân tâm phải buông thư, phải cảm thấy dễ
chịu, thư thái trong giây phút ấy.
Bạn chỉ ngồi đó và để ý tới hơi thở mà
không cần phải làm gì hết vì cuống óc đã phụ trách nhịp thở và nhịp đập
của trái tim rồi. Còn nếu muốn thì bạn có thể kéo dài nhịp thở của mình
để có thêm pháp lạc. Thành ra, khi mình thở vào, thở ra có ý thức thì
hai cánh tay, hai bờ vai rồi toàn thân từ từ được buông thư trọn vẹn.
Khi thấy thân của mình đang thư giãn, nhịp đập của trái tim chậm lại,
tức là khi ấy hệ thống miễn dịch đang được củng cố. Lúc này cơ thể của
mình có khả năng tự trị liệu được những đau đớn trong thân cũng nhưng
trong tâm.
Thiền hành
Khi đi thiền
hành bạn cũng có thể đếm bước chân của mình. Nếu thở vào bước ba bước
thì bạn thầm đếm 1, 2 3, thở ra bước năm bước thì bạn thầm nói 1, 2, 3,
4, 5. Theo dõi hơi thở và đếm bước chân khiến cho cái đầu ngưng suy
nghĩ. Khi những lao xao trong tâm lắng xuống thì sự chú tâm vào bước
chân sẽ sâu sắc hơn, và mình nếm được bình an.
Nếu đi mà như đi
chơi, mỗi bước chân đều có thảnh thơi, an lạc, không bước vội vàng, hối
hả thì trong khi đi như vậy sự trị liệu sẽ xảy ra cho thân và tâm. Cho
nên, mỗi hơi thở, mỗi bước chân đều là trị liệu hết. Là người hành giả,
ta phải biết lợi dụng bước chân, hơi thở để tự trị liệu. Thiền tọa giúp
trị lành những căn bệnh, mà thiền hành cũng có khả năng điều trị tương
tự.
Đoạn đường từ bãi đậu xe tới siêu thị là một cơ hội cho ta
thực tập thiền hành, từ phòng khách tới nhà bếp cũng là một cơ hội,…
Hàng ngày chúng ta có rất nhiều cơ hội để đi thiền hành. Mỗi bước chân
có ý thức đều là những bước chân thiền hành, đều là công phu tu tập.
Ôm ấp niềm đau
Trong chúng ta ai cũng có một chút bệnh, không bệnh nhiều thì bệnh ít.
Theo dõi hơi thở, ngồi thiền, thiền hành có thể giúp điều trị, làm giảm
bớt và chấm dứt những căn bệnh đó. Sự trị liệu này xảy ra trong từng
giây phút. Khi theo dõi hơi thở và buông thư, hơi thở vào có thể là ba
hoặc bốn giây, hơi thở ra có thể là năm hoặc bảy giây, thì ba bốn giây,
hay năm bảy giây ấy đã là trị liệu rồi. Điều này đúng cho cả thân và
tâm. Khi trong tâm có những buồn phiền, lo lắng, bực bội thì hơi thở
chánh niệm sẽ ôm lấy tâm hành đó, làm cho tâm hành đó lắng dịu xuống.
Cảm xúc là một năng lượng, cảm thọ là một năng lượng, và năng lượng đó
có thể làm cho ta dễ chịu hay khó chịu. Khi có một cảm xúc mạnh thì ta
không có bình an, dù đó là cảm xúc vui hay cảm xúc buồn. Có nhiều người
nghe tin mình trúng số độc đắc, rồi vì vui mừng quá mà lăn đùng ra ngất
xỉu. Vì vậy, biết thực tập hơi thở thường xuyên thì ta sẽ có khả năng
nhận diện và ôm lấy cảm xúc, ôm lấy cảm thọ khi gặp những chuyện bất ngờ
xảy tới. Lúc ấy ta sẽ không bị những cảm xúc mạnh chi phối vì ta đã
buông thư những cảm thọ đó rồi. Cái đó gọi là an tịnh tâm hành. Trong
kinh “An Ban Thủ Ý” có một bài thực tập gọi là “an tịnh thân hành”, tức
là làm cho thân an tịnh và buông thư. Rồi lại có một bài thực tập khác
nữa gọi là “an tịnh tâm hành”, tức là làm cho những cảm giác, cảm xúc
của ta lắng dịu lại. Sau khi đã buông thư cái thân rồi thì tiến tới bước
thứ hai là buông thư cái tâm.
Nếu đang hờn giận hay buồn
phiền, thì ta phải trở về với hơi thở liền lập tức. Biết trở về với hơi
thở thì những cảm xúc mạnh ấy sẽ yếu dần đi. Nếu cảm thọ khổ đau lớn
quá thì ta quán chiếu thêm một chút nữa về người kia, cái người mà ta
nghĩ rằng đã làm cho ta buồn khổ. Nếu nhìn sâu vào họ, ta sẽ thấy rằng
chính người kia cũng đang đau khổ. Người ấy có những thói quen không tốt
nhưng người ấy lại không có khả năng quản lý, điều phục được nó, cho
nên người đó đang tự làm khổ chính mình và làm khổ những người chung
quanh. Người đó là nạn nhân của chính người đó. Khi thấy được người ấy
đang khổ sở thì ta có thể phát khởi được tâm từ bi tại vì trong ta có
sẵn hạt giống của tình thương. Hễ thấy ai khổ thì ta thương. Sở dĩ ta
ghét người kia, ta không thể thương được họ là vì ta không thấy được nỗi
khổ của họ. Một khi đã thấy thì tự nhiên ta thương được, một khi tình
thương đã phát khởi thì lòng ta sẽ trở nên mát mẻ không còn bị nóng bức
nữa. Vì vậy cho nên cái nẻo về của tâm ý vốn có thể được thay đổi.
Chúng ta thường có hai khuynh hướng tư duy, một là đi tới cái giận, hai
là đi tới cái thương. Nhưng khổ nỗi tư duy của ta cứ thích chạy về phía
giận hờn và trừng phạt. Ta vốn có sẵn cục giận ở trong lòng nên mỗi khi
nghe điều gì không vừa tai, thấy cái gì không hợp mắt thì cái giận bị
kích thích và chúng ta bị kéo đi theo lối giận hờn. Khi giận, ta muốn
trừng phạt người kia - cái người dám làm cho ta khổ. Mình giận người ấy
vì không biết rằng người ấy cũng đang đau khổ, không biết rằng vì họ
đau khổ nên họ mới nói và làm cho ta đau khổ. Khi quán chiếu và thấy
được nỗi khổ của người ấy rồi thì lập tức tâm của ta sẽ tự động rẽ sang
một ngả khác, ngả của thương yêu. Lúc đó lòng ta khoẻ nhẹ và tâm hành
được an tịnh mau chóng.
Tôi có viết một câu thiền ngữ : “Lắng
nghe để hiểu, nhìn lại để thương”. Nhìn lại để thương tức là nhìn lại để
thấy cái người đã làm mình khổ, người ấy cũng đang đau khổ lắm. Vì họ
đau khổ nên họ mới vung vãi khổ đau của họ lên ta. Và nhìn lại để thấy
rằng trong quá khứ ta cũng đã từng chịu ơn người ấy. Thấy được hai điều
này rồi thì tự nhiên cơn giận của ta tan biến và tình thương lập tức đơm
hoa. Tâm hành giận hờn, cảm giác khổ đau trước đó từng làm cho ta điêu
đứng, khốn đốn không sao trấn ngự được. Vậy mà khi có cái thấy kia tự
nhiên ta an tịnh được tâm hành.
Chánh niệm khơi nguồn giác tính
Trong bài tụng Ba sự quay về có đoạn
“Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác
tính sớm mở lòng bồ đề”. Từ giác tính trong đoạn này chính là phật tính,
tức là khả năng giác ngộ nơi mỗi người. “Về nương Bụt trong con” có
nghĩa là quay về nương tựa vào giác tính sẵn có nơi mỗi người. Điều này
cũng cụ thể như việc ta có lá phổi, trái tim, đôi chân,… và ta quay về
nương vào chúng để sinh tồn vậy. Có nhiều người trong chúng ta có cảm
giác bấp bênh, không vững chãi, chông chênh giống như là một chiếc
thuyền không có neo, thành ra không buông neo được, không đứng yên được.
Mỗi người đều có nhu yếu được nương tựa vào một nơi nào đó để có thể
vững chãi hơn trong cuộc sống. Và ta đang kiếm tìm nó. Đạo Bụt không chủ
trương nương tựa vào một đấng thần linh ở ngoài mà hướng dẫn ta quay về
nương tựa nơi giác tính có sẵn trong ta, giác tính là khả năng tỉnh
thức, khả năng nhận biết những gì đang xảy ra trong phút giây hiện tại.
Chánh niệm là đầu giây mối nhợ của sự tỉnh thức, chánh niệm giúp ta biết
được chuyện gì đang xảy ra.
Khi thở vào mà biết được ta đang thở
vào thì ta đang có chánh niệm. Có chánh niệm là có giác tính. Chánh niệm
với giác tính là một. Bởi vì nếu mê mờ thì đâu biết cái gì đang xảy ra.
Sự ý thức rõ ràng về hơi thở vào ra của chính mình là một năng lượng
giác ngộ, và nó đích thực là Bụt. Bụt chính là hơi thở có chánh niệm.
Khi thở, Bụt biết mình đang thở. Bụt thở rất khỏe, rất nhẹ nhàng, rất dễ
chịu. Nếu hơi thở vào của ta cũng có phẩm chất như Bụt thì lúc ấy ta
đang có Bụt. Bụt cũng là một con người nhưng Bụt có ý thức rõ ràng về
từng hành động của chính mình, Bụt an trú được trong phút giây hiện tại,
có mặt cho sự sống trong phút giây hiện tại và không bị kéo theo những
thói quen. Là học trò Bụt ta phải có mong muốn làm được như Bụt: thở như
Bụt, đi như Bụt, ngồi như Bụt,… Sở dĩ bước đi của Bụt có phẩm chất là
vì Ngài có giác tính. Và cái thở, cái ngồi của Ngài cũng vậy. Ta có thể
học cách thở, cách đi, cách ngồi,… như Ngài. Nếu ta đi, thở, ngồi,… được
như Bụt thì lúc ấy giác tính của ta đang biểu hiện. Nương tựa vào giác
tính nghĩa là nương tựa vào hơi thở chánh niệm, bước chân chánh niệm,
thế ngồi chánh niệm,…Những điều này rất cụ thể, rất thực tế, không mơ hồ
chút nào. Nếu thực tập giỏi, ta sẽ có được chỗ nương tựa trong hai mươi
bốn giờ một ngày. Nhưng nên nhớ, hơi thở, bước chân, thế ngồi,… phải
thực sự có phẩm chất, có giác tính thì chúng mới trở thành nơi nương tựa
của chúng ta.
Đến Làng Mai, ta thấy xung quanh mình
ai cũng hết lòng thực tập. Chính phẩm chất tu tập của tập thể đã tạo cho
ta niềm tin rằng chính ta cũng có thể làm được. Nếu người khác ngồi có
phẩm chất, có hạnh phúc, không lý nào ta lại không làm được như họ? Thực
tập chung với tăng thân rất có lợi, sự thực tập của người này nâng đỡ
sự thực tập của người kia. Ta phải tận dụng cơ hội mỗi khi được tu chung
với tăng thân để nâng cao phẩm chất tu tập của mình, để trong mỗi bước
chân, mỗi hơi thở, mỗi thế ngồi đều có giác tính. Hai mươi bốn giờ mỗi
ngày là một tặng phẩm rất lớn, ta phải biết dùng nó cho đúng đắn, cho
thích hợp, đừng để thời gian quý báu phí hoài trôi qua. Ta phải sử dụng
thời gian thật khéo léo như một nghệ sĩ thì mới không đánh mất sự sống
một cách oan uổng. Như vậy rõ ràng, giác tính không nằm ở ngoài mà nằm
trong năm uẩn của ta. Muốn tìm Bụt chỉ cần tìm nơi hơi thở, bước chân,
thế ngồi,… có chánh niệm. Nương vào hơi thở có chánh niệm là nương tựa
Bụt, là quy y Bụt. Bụt không phải là một đấng thần linh ở bên ngoài. Đến
Làng Mai là cơ hội để chúng ta học thở, học đi, học ngồi,… để tiếp xúc
được với giác tính làm chỗ nương tựa cho chính mình.
Tăng thân trong trái tim
Chúng ta đã đi lang bạt quá nhiều rồi.
Chúng ta mong ước có một nơi để quay về, để nương tựa, để có được sự
bình an trong thân tâm. Chúng ta không nên tìm nơi nương tựa đó ở ngoài,
hãy tìm nó ngay trong giây phút hiện tại, trong năm uẩn của mình. Các
bậc hiền nhân đều biết được điều này: trở về và hiểu biết chính mình.
Nhưng phần lớn chúng ta không thấy được như vậy nên đã thường xuyên
hướng ngoại. Những người này rất khao khát có một nơi để trở về mỗi khi
có sự cô đơn, hờn tủi. Có thể họ đi tìm nơi nương tựa ở những người
khác, một người đàn ông hay một người đàn bà khác.
Có rất ít người nghĩ được rằng ta đã có
sẵn chỗ nương tựa trong chính ta. Khi tìm được chỗ nương tựa nơi giác
tính thì ta sẽ có được bình an, vững chãi thật sự. Khi ấy ta có thể làm
nơi nương tựa cho những người khác. Nếu những người đã tìm được chỗ
nương tựa nơi giác tính của chính mình mà đến sống cùng nhau thì sẽ tạo
nên một nơi nương tựa khá vững chắc cho nhiều người khác. Tập thể những
người biết nương tựa vào tự thân và nương tựa vào nhau được gọi là tăng
thân. Làng Mai là một tăng thân như vậy. Tăng thân rất vững chãi vì nó
được tạo nên từ những người có chất liệu ổn định và vững chãi. Do vậy,
Bụt mới dạy ta phải biết nương tựa vào tăng. Nhưng tăng chỉ thật sự được
hình thành khi các thành phần của tăng thân biết thực tập nương tựa vào
hải đảo của tự thân, vào giác tính của chính mình. Tăng có ở trong ta
và có ở chung quanh ta. “Về nương tăng trong con” có nghĩa là không chỉ
quay về nương tựa tăng ở xung quanh ta mà quan trọng là quay về nương
tựa tăng ở trong ta. Dù đi bất kỳ nơi đâu, ta cũng mang theo tăng thân
trong trái tim. Nếu ta thành công trong việc nương tựa vào tăng thân khi
ở Làng Mai thì ta cũng có thể làm được điều này khi trở về trú xứ.
Sau khi thành đạo, đức Thế Tôn nghĩ
ngay đến việc xây dựng tăng thân. Mặc dù Ngài đã thành đạo, đã tìm được
nơi nương tựa nhưng Ngài vẫn xây dựng một tăng thân để làm nơi cho những
người khác đến nương tựa. Ngài biết rằng tăng thân rất cần cho cuộc đời
và vì vậy Ngài đã dành nhiều thời gian cho việc xây dựng tăng thân.
Ngài là người dựng tăng rất giỏi, rất nhiều kinh nghiệm, rất kiên nhẫn.
Việc dựng tăng không dễ bởi tăng thân cũng có những cá nhân còn lên
xuống, còn bất ổn. Do đó, người làm công tác dựng tăng phải thật sự kiên
nhẫn và từ bi.
Trong tăng thân của đức Thế Tôn đôi khi
cũng có những rạn nứt, nhưng đức Thế Tôn không mất hy vọng, không nản
chí, và điều quan trọng là không mất đi tình thương. Cuối cùng, những
rạn nứt ấy cũng đã được hàn gắn. Đừng bao giờ nghĩ tăng thân phải hoàn
hảo, phải không có bất kỳ những khó khăn nào, hạn chế nào. Đức Thế Tôn
đã xây dựng tăng thân hết sức thành công, và Tăng thân đã giúp đỡ Ngài
rất nhiều. Một vị Bụt không có Tăng thân giống như một nhạc công không
có nhạc khí, chẳng làm ăn gì được. Nhạc sĩ phải đi tìm một nhạc khí, và
Bụt phải dựng tăng.
Sau khi thành đạo, Ngài đi tìm năm anh
em ông Kiều Trần Như để giáo hóa họ. Và đó là tăng thân đầu tiên của
Ngài. Tăng thân đầu tiên được hình thành gồm năm người. Tăng thân của
đức Thế Tôn đã tiếp tục được phát triển cho đến ngày hôm nay. Ngày xưa,
tăng thân của Bụt chỉ trong phạm vi nước Ấn, nhưng hôm nay tăng thân ấy
đã lan rộng khắp thế giới. Ngày xưa, đức Ki Tô cũng xây dựng tăng thân.
Tăng thân của Ngài ban đầu chỉ mười hai người, phần lớn là những người
đánh cá. Ngài nói với họ: “Theo tôi đi, mình sẽ đi cứu người. Thay vì mình tung lưới bắt cá thì hãy tung lưới giáo pháp để giúp đỡ người khác”.
Tăng thân của đức Ki Tô sau này được
gọi là tông đồ. Khi tăng thân của Ngài lên đến con số sáu mươi, Ngài căn
dặn các đệ tử của Ngài nên đi độ đời. Mục sư Martin Luther King, một
nhà vận động nhân quyền người Mỹ, rất ao ước xây dựng một tăng thân.
Ngài biết rõ, nếu không có tăng thân thì không có hạnh phúc lớn, không
đủ sức mạnh để tranh đấu được cho nhân quyền. Ngài gọi tăng thân ấy là
tăng thân yêu quý. Nhưng rất tiếc, ngài đã bị ám sát năm 34 tuổi. Do
vậy, công việc xây dựng tăng thân của ngài chưa được hoàn tất. Các bậc
vĩ nhân đều thấy rằng xây dựng tăng thân là một việc rất quan trọng, bởi
vì chúng ta không những cần nương vào chính mình mà còn phải nương vào
nhau. Nếu có thể nương vào giác tính của chính mình thì cũng có thể quay
về nương tựa nơi tăng thân. Khi xây dựng tăng thân thành công, ta sẽ có
được sự vững chãi, có được sự ổn định, và cùng với tăng thân, ta có thể
thực hiện được hoài bão của đời mình. Đánh mất tăng thân là đánh mất đi
cái quý báu nhất. Người nào có tăng thân trong trái tim thì người đó có
hạnh phúc.
Năm 1966, tôi đã một mình rời quê hương
để kêu gọi hoà bình cho Việt Nam. Đi một mình mà không có tăng thân rất
là nguy hiểm. Điều này giống như một con ong xa lìa tổ, nó có thể bị
tai nạn bất cứ lúc nào. Nhưng tôi đã không chết bởi vì tôi đã đem theo
tăng thân trong tim mình. Do vậy, tôi được tăng thân bảo hộ. Tôi làm gì,
nói gì cũng là làm cho tăng thân, cũng là nói cho tăng thân. Chúng ta
nên thực tập và tìm một tăng thân tu tập nghiêm chỉnh để làm nơi nương
tựa cho mình. Nhưng nơi nương tựa vững chãi nhất là ở chính ta. Ta thực
tập nương tựa vào người khác trong tăng thân là nhằm mục đích hướng đến
việc tìm nơi nương tựa trong chính bản thân mình. Ta thực tập hiến mình
cho tăng thân, trở thành một phần tử của tăng thân, và ta sẽ được thừa
hưởng những thành phần khác của tăng thân. Khi rời Làng Mai, nếu ta đem
theo được tăng thân trong trái tim tức là đã thành công. Tăng thân không
phải chỉ có xung quanh ta mà còn có ở trong trái tim ta.
Trong sự thực tập, một mặt ta cần quán
sát mỗi thành phần của tăng thân thực tập như thế nào trong cách đi,
đứng, nằm, ngồi, thở,… cách tìm nơi nương tựa; mặt khác ta thực tập trở
về tìm nơi nương tựa nơi chính mình trong mỗi phút giây của đời sống
hằng ngày. Thực tập như thế nào để khi đi, đứng, nằm, ngồi,… ta đều có
nơi nương tựa. Ta không đi tìm hạnh phúc trong tương lai nữa mà tìm nó
ngay trong phút giây hiện tại.