Giành lại chủ quyền
Chủ quyền của một vị quốc vương
Hơi thở và bước chân chánh niệm sẽ đem tâm về với
thân. Khi thân tâm hợp nhất thì chúng ta mới thật sự có mặt trong giây
phút hiện tại và có chủ quyền về thân và tâm của mình. Nếu đánh mất
chánh niệm thì chúng ta sẽ bị đời sống hằng ngày kéo đi, ta sẽ bị chìm
đắm, trôi lăn theo những lo lắng sầu khổ, theo tập khí và thói quen. Một
khi đã bị chìm đắm và trôi lăn thì ta mất hết tự do, ta không còn chủ
quyền đối với thân tâm mình nữa. Ta có chủ quyền nhưng không biết sử
dụng chủ quyền đó thì chẳng khác gì một vị vua bị tước mất quyền làm
vua, cứ để mặc cho người khác muốn làm gì thì làm và vương quốc lâm vào
tình trạng bê bối.
Tâm ta là một vương quốc với lãnh thổ khá rộng. Nó bao gồm sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
Nếu ta để cho những cảm xúc và tri giác bị kéo đi bởi những thói quen
và tập khí thì ta đánh mất chủ quyền trên lãnh thổ của mình. Khi dùng
hơi thở và bước chân để trở về với giây phút hiện tại, để hợp nhất thân
tâm là ta bắt đầu có chủ quyền. Ta đi là tại ta muốn đi chứ không phải
bị kéo đi; ta nói là vì ta muốn nói chứ không phải bị ma xúi bẩy. Thực
tập chánh niệm giúp ta khôi phục chủ quyền và làm lớn mạnh chủ quyền.
Có hay không có tự do ý chí?
Trong lĩnh vực triết học, người ta đang đặt vấn đề
rằng có hay không có tự do ý chí. Có những trường phái triết học khẳng
định có tự do ý chí, nhưng cũng có những trường phái thì phản bác lại
quan điểm trên. Vấn đề này vẫn chưa ngã ngũ. Tuy nhiên, Bụt xác nhận
rằng nếu biết thực tập chánh niệm, ta sẽ có nhiều chủ quyền và đạt đến
tự do lớn. Khi ấy, ta có tự do nói những điều ta muốn nói, và làm những
điều ta muốn làm. Tuy nhiên sự tự do này còn bị giới hạn vì trong ta vẫn
còn bị những thói quen và tập khí kéo đi. Một người mới tu thì những tự
do đó còn hạn hẹp. Nhưng nếu chánh niệm và chánh định lớn lên thì tự do
cũng sẽ lớn lên theo, càng thực tập thì giới hạn đó càng mở rộng ra. Tự
do để không bị chìm đắm và trôi lăn. Chìm là chìm xuống, lăn là trôi
đi.
Thi vị hóa sự thực tập
Tôi đã có rất nhiều tự do và hạnh phúc nhờ công phu
thực tập thiền thở và thiền đi. Trong khi thực tập, tôi đã kết hợp với
việc áp dụng các bài thi kệ. Và lâu lâu, tôi cũng thay đổi các bài kệ để
sự thực tập mới mẻ hơn, hiệu quả hơn. Bài thi kệ đã được tôi sử dụng
trong một thời gian dài là bài “Nương Tựa A Di Đà” (xem bài Phát
nguyện –Công phu chiều thứ sáu, Nhật tụng thiền môn năm 2010). Trong
khóa tu tổ chức tại nước Anh vừa rồi, tôi đã sử dụng bài này rất nhiều.
Đôi khi tôi cũng sử dụng bài “Đây Là Tịnh Độ”. Nhưng bài kệ được tôi sử dụng nhiều nhất (nhiều hơn cả bài Nương Tựa A Di Đà) là bài “Quay Về Nương Tựa”. Tôi đã sử dụng bài này suốt mấy chục năm qua:
Quay về nương tựa
Hải đảo tự thân
Chánh niệm là Bụt
Soi sáng xa gần
Hơi thở là Pháp
Bảo hộ thân tâm
Năm uẩn là Tăng
Phối hợp tinh cần
Thở vào, thở ra
Là hoa tươi mát
Là núi vững vàng
Nước tĩnh lặng chiếu
Không gian thênh thang
Trong thiền đi, nếu ta phối hợp được giữa ba
yếu tố: hơi thở, bước chân và thi kệ thì sự thực tập của ta sẽ trở nên
rất thi vị. Ta cần sắp đặt việc ngắt nhịp câu chữ của bài thi kệ như
thế nào cho khớp với bước chân và hơi thở của chính mình. Khi thở vào ta bước hai bước và đọc thầm “quay về”, thở ra ta bước hai bước và đọc thầm “nương tựa”, thở vào : “hải đảo”, thở ra : “tự thân”.
Ta cũng có thể bước ba bước khi thở vào, ba bước khi thở ra. Thở vào:
"con quay về", thở ra "và nương tựa". Tôi có thêm một bản ba chữ cho
bài kệ này:
Con quay về
Và nương tựa
Nơi hải đảo
Của tự thân
Chánh niệm ấy
Chính là Bụt
Đang soi sáng
Khắp xa gần
Hơi thở này
Là Chánh Pháp
Đang bảo hộ
Thân và tâm
Năm uẩn đó
Là Tăng Thân
Đang phối hợp
Rất tinh cần
Con thở vào,
Con thở ra
Là bông hoa
Con tươi mát
Lá đỉnh núi
Con vững vàng
Là nước tĩnh
Con lặng chiếu
Là không gian
Con thênh thang.
Bài bốn chữ hay sáu chữ là do ta đặt ra, tuỳ theo ta
phối hợp. Bài nào ta cũng có thể biến chế cho phù hợp với sự thực tập
của mình. Khi thực tập thiền chạy ta cũng có thể thực tập hơi thở. Thở
vào ta chạy bốn bước kết hợp với niệm bốn chữ “quay về nương tựa”, thở
ra “hải đảo tự thân”. Ta cần luôn nhớ phối hợp hơi thở, bước chân với
bài kệ. Các bài kệ sẽ giúp ta duy trì được tâm định. Và điều quan trọng
là ta cần làm như thế nào để gây được hứng thú, để chế tác được niềm vui
trong mọi thực tập, dù là trong lúc thiền hành, chạy bộ hay tập khí
công,…
Thực tập cho những người thương
Tôi rất thích bài “Để Bụt thở để Bụt đi”:
Bụt đang tản bộ
Bụt đang rong chơi
Bụt đang hạnh phúc
Bụt đang thảnh thơi.
Bụt là ta. Ta thấy được Bụt đang tản bộ, đang rong
chơi, đang hạnh phúc, đang thảnh thơi, và ta cũng có thể làm được tất cả
những điều này:
Con đang tản bộ
Con đang rong chơi
Con đang hạnh phúc
Con đang thảnh thơi.
Con cũng không thua gì Bụt. Ta có thể đi cho mẹ, cho ba. Khi đi, ta thấy hai chân này là của mẹ, của ba.
Mẹ đang tản bộ
Mẹ đang rong chơi
Mẹ đang hạnh phúc
Mẹ đang thảnh thơi
Hay là :
Ba đang tản bộ
Ba đang rong chơi
Ba đang hạnh phúc
Ba đang thảnh thơi.
Ta cũng có thể đi cho Thầy:
Thầy đang tản bộ
Thầy đang rong chơi
Thầy đang hạnh phúc
Thầy đang thảnh thơi.
Tất cả những người đó đều là ta, đang có trong ta và
họ cũng đang thực tập. Để cho sự thực tập của đời sống hằng ngày thêm
phong phú, ta có thể chế tác bài kệ theo những sinh hoạt hàng ngày cho
phù hợp, ví dụ:
Bụt đang quét nhà
Bụt đang rong chơi
Bụt đang hạnh phúc
Bụt đang thảnh thơi
Hay :
Con đang quét nhà
Con đang rong chơi
Con đang hạnh phúc
Con đang thảnh thơi.
Khi thực tập như vậy ta phải đem hết tâm trở về với
thân trong giây phút hiện tại, ta sẽ thấy sự sống thật mầu nhiệm, sẽ
thấy Tịnh độ có mặt ngay trong giây phút hiện tại. Một khi đã nếm được
hạnh phúc trong giây phút hiện tại rồi, ta không còn đi tìm hạnh phúc
hay Tịnh độ trong tương lai nữa.
Nếu có cơ hội pháp đàm, chúng ta cần tạo điều
kiện để cho mọi người nói ra cách thực tập của chính bản thân. Người đó
thực tập thiền đi như thế nào? Thiền thở ra làm sao? Qua sự chia sẻ đó,
ta sẽ có cơ hội nhìn lại sự thực tập của chính mình: Ta đã thực tập hết
lòng chưa? Đã giỏi chưa? Đã có đủ hạnh phúc chưa? Tu tập chung với tăng
thân là cơ hội lớn cho ta tập làm những chuyện này, năng lượng của tăng
thân sẽ giúp sự thực tập của ta trở nên tự nhiên và dễ dàng hơn. Bởi ai
cũng đang thực tập, đang an trú trong hiện tại, lẽ nào ta lại đơn độc
trong sự rong ruổi và trôi lăn? Chính điều này giúp ta có thêm ý chí và
quyết tâm trong sự thực tập. Ta có thể tự thách thức mình rằng: "Hiện
nay, đang có thầy, có bạn cùng thực tập chung, nếu tôi không tìm ra được
hạnh phúc thì chẳng bao giờ tôi tìm ra hạnh phúc".
Tịnh độ là đây
Sự thực tập của Làng Mai chú trọng ở giây phút
hiện tại. Nếu muốn tìm Thiên chúa, Niết bàn hay Tịnh độ thì phải tìm
ngay trong giây phút hiện tại. Nếu muốn tìm an lạc, hạnh phúc cũng phải
tìm trong giây phút hiện tại. Nếu muốn tìm sức khoẻ cũng tìm nó trong
hiện tại, dù rằng ta đang có bệnh. Trong giây phút ấy, nếu biết thở,
biết đi, bệnh sẽ bắt đầu được thuyên giảm. Còn làm ngược lại thì bệnh
trạng sẽ càng tệ hơn mà thôi. Hãy trở về với giây phút hiện tại, thân và
tâm của ta sẽ được tận hưởng rất nhiều nguồn năng lượng tươi mát, lành
mạnh của tăng thân và những nhiệm mầu của cuộc sống. Nếu ta không tìm
được hạnh phúc ở hiện tại thì sức mấy mà ta tìm được hạnh phúc ở tương
lai? Hiện tại ta mà không tìm được hạnh phúc, liệu ta có tìm được hạnh
phúc ở Tịnh độ? Giả sử hiện giờ bạn đang bất an, nếu đặt chân lên Tịnh
độ thì ngựa cũng sẽ quen đường cũ, bạn cũng vẫn cảm thấy không dễ chịu,
không thể ở yên được, và bạn cũng sẽ bỏ đức A Di Đà mà ra đi thôi.
Hạnh phúc chỉ có thể là bây giờ, hoặc không bao
giờ! Ta cần phải biết lựa chọn: An trú trong hiện tại, hạnh phúc trong
hiện tại hay là trầm luân? Hơi thở và bước chân là những chiếc phao giúp
ta nổi lên trên dòng chảy của quá khứ, của tương lai mà không bị nó
nhấn chìm. Hơi thở và bước chân cũng là những chiếc neo giúp thuyền của
ta không trôi đi theo những dòng chảy. Thực tập hơi thở và bước chân có
nội dung là ta bắt đầu xác lập được chủ quyền với chính mình.
Sự thực tập hơi thở và bước chân là thực tập căn bản
của Làng Mai. Và thực tập phải có phẩm chất, đừng để rơi vào hình thức.
Khi đi, phải biết là ta đang đi chứ không phải bị kéo đi; khi thở, biết
là ta đang được thở chứ không phải bị thở. Khi phát ra một tư tưởng buồn
giận thì ta biết đây là một tư tưởng buồn giận và ý thức rằng tư tưởng
buồn giận sẽ không có lợi cho sức khoẻ của mình, không đem lại hạnh phúc
cho mình. Như vậy là ta có chủ quyền về thân tâm của ta rồi. Đừng hiểu
lầm rằng không có tư tưởng buồn giận mới là có chủ quyền. Có tư tưởng
buồn giận mà biết đây là tư tưởng buồn giận tức là ta có chủ quyền tại
vì lúc ấy ta có chánh niệm. Có chủ quyền với hơi thở và bước chân thì
ta có thể làm nơi nương tựa cho mọi người. Đó là phẩm vật quý giá nhất
dâng lên Tam Bảo, trong đó có Tăng Thân. Ta đâu cần phải làm gì to tát?
Đơn giản chỉ cần biết uống trà, chải răng, đi toilet, quét nhà, rửa
rau… trong hạnh phúc và thảnh thơi. Điều đó tưởng chừng như đơn giản
nhưng nó lại là một thách thức. Có được gọi là người tu chính hiệu hay
không đều tùy thuộc vào việc ta có vượt qua những thách thức kia được
hay không.
Hãy hiểu khổ đế như những nỗi khổ đau có thực của chính bản thân và thời đại
Chúng ta thường được học và hiểu về khổ đế
như là cái khổ của sinh, già, bệnh và chết; như là sự ham muốn nhưng
không được thỏa mãn yêu thương nhau mà phải xa lìa; ghét nhau mà phải
gần nhau; như là khổ đau khi năm uẩn chống báng nhau… Đây là cách diễn
tả về khổ đế của người xưa. Nó mang tính biểu trưng, tính hình thức. Nếu
nói nguyên nhân xuất gia của thái tử Tất Đạt Đa chỉ vì thấy cảnh sanh,
lão, bệnh, tử trong một chuyến du ngoạn qua bốn cổng thành thì quá sơ
sài. Chúng ta được biết lúc đi xuất gia, thái tử đã 26, 27 tuổi rồi, lại
là người rất thông minh, tinh thông triết học, lẽ nào lại không biết
sanh, lão, bệnh, tử là gì? Trong "Đường Xưa Mây Trắng" tôi
nói thái tử đi xuất gia là vì thấy trong dân chúng khổ và trong triều
đình cũng khổ, vua cha khổ mà các quan đại thần cũng khổ. Tuy họ có
quyền hành và địa vị nhưng họ vẫn khổ vì sự chia rẽ, tranh giành quyền
lực, đấu đá lẫn nhau; vì chính họ cũng có những khó khăn không giải
quyết được nên họ không thể nào giúp được cho người dân, để cho dân
chúng lâm vào cảnh nghèo đói, bệnh tật. Từ thực tế ấy, Ngài thấy được
rằng chính trị, quyền hành và địa vị không thể mang lại niềm an vui cho
chính mình và cho đất nước. Do đó, Ngài muốn đi tìm hạnh phúc, an vui
cho mình, cho những người xung quanh theo một hướng khác.
Ở thời đại này, khi đề cập đến khổ đế,
ta cần phải trình bày sao cho khế hợp. Trong khóa tu với nội dung: "Đạo
Phật Dấn Thân" được tổ chức tại Hà Nội nhân dịp lễ Phật đản năm 2008, tôi
có nói rằng khi nhắc đến khổ, trước tiên ta cần đề cập đến những nỗi
khổ có thật trong thân và tâm của chính ta như: lo lắng, sợ hãi, căng
thẳng, bạo động, giận hờn, trừng phạt… Đó là những căn bệnh kinh niên.
Không biết lo cái gì, sợ cái gì, nhưng cứ lo hoài, sợ hoài. Khi năng
lượng của sự giận dữ xâm chiếm thì ta muốn đập phá, muốn trừng phạt và
muốn làm cho người kia đau khổ, tại vì người đó đã dám làm cho ta đau
khổ. Trong ta sẵn có năng lượng bạo động, bực tức, muốn phản ứng và muốn
phá đổ.
Hiện nay trong xã hội có rất nhiều năng lượng
bạo động. Việc khủng bố vốn là bạo động nhưng chống khủng bố cũng bạo
động không kém gì. Tôi còn nhớ, trong chuyến hoằng pháp tại Nam Hàn, tôi
có tham dự một buổi diễn đàn hoà bình của tổ chức Liên Tôn. Lúc ấy,
tình hình Iraq rất căng thẳng. Dù Mỹ chưa chiếm đóng Iraq nhưng mọi thứ
chuẩn bị cho việc đánh chiếm Iraq đã sẵn sàng. Iraq có thể bị bỏ bom, có
thể bị bao vây bất cứ lúc nào. Trong buổi thuyết trình ấy, tôi
có nói là nếu là một người dân đang sống tại thành phố sắp bị chiếm
đóng thì sẽ rất lo sợ, không biết bom sẽ dội xuống thành phố lúc nào.
Những người dân phải sống trong tình trạng sợ hãi như vậy trong suốt một
ngày thì sức khỏe sẽ bị ảnh hưởng rất xấu. Huống hồ gì phải sống trong
tình trạng ấy liên tục nhiều ngày nhiều tháng? Thành phố có thể chưa bị
bao vây, chưa bị chiếm đóng, nhưng người dân đã lo lắng và sợ hãi rồi.
Cái đó là bạo động, là khủng bố. Khủng bố và bạo động với chính mình.
Như vậy, bạo động và khủng bố đến từ hai phía chứ không đến từ một phía
như thông thường ta hay nghĩ. Bạo động có trong tất cả chúng ta. Người
có nhiều bạo động thì khổ nhiều, người có ít bạo động thì khổ ít.
Bạo hành trong gia đình
Một trong những vấn đề được quan tâm nhất hiện nay
của xã hội là hiện tượng bạo hành trong gia đình. Khi cha mẹ chống báng
nhau, gia đình đổ nát thì những đứa con phải lãnh chịu rất nhiều bất
hạnh và khổ đau. Chúng khó có thể phát triển toàn diện và bình thường về
nhân cách được. Khi trưởng thành, đại đa số những người con ấy mất niềm
tin vào cuộc sống lứa đôi. Trên thế giới, tỉ lệ ly dị của các cặp vợ
chồng rất lớn. Ở Hòa Lan tỉ lệ ly dị lên tới hơn 50%.
Những rạn nứt trong đời sống gia đình, lứa đôi
và sức ép của xã hội đã dẫn đến những hậu quả khá nghiêm trọng và rất
thương tâm. Đặc biệt là tình trạng tự tử. Theo thống kê, ở Việt Nam,
khoảng vài giờ đồng hồ là có một người tự tử. Ở Pháp, mỗi năm, có trên
mười hai ngàn (12.000) người trẻ tự tử. Nghĩa là mỗi ngày, có khoảng ba
mươi ba (33) thanh niên chết vì tự tử. Bên cạnh đó còn có chiến tranh,
khủng bố, sự phá hoại của môi trường và sự hâm nóng của địa cầu. Đây là
những cái khổ đang có thực trong đời sống và ta phải gọi đúng tên chúng.
Ta phải hiểu rằng Khổ đế là những nỗi khổ
đang đích thực có mặt. Đừng hiểu lầm ý Bụt mà khẳng định rằng cái gì
cũng chỉ toàn là khổ đau. Ta cần phải phân biệt được rõ ràng hai vấn đề
sau: Chấp nhận khổ đau đang có mặt, và xử lý khổ đau. Rõ ràng, hai vấn
đề này hoàn toàn khác nhau. Chúng ta cần điều chỉnh lại cách nhận thức
của mình về giáo lý khổ đế mà Bụt đã dạy. Ví
dụ, chúng ta có thể nói cái bàn vô thường hoặc vô ngã thì được, chứ còn
nói cái bàn khổ thì hơi khó nghe. Mình khổ chỉ khi nào mọi vật vô thường
mà mình cho là thường, mọi vật vô ngã mà cho là ngã. Khổ là một thái
độ, một sự phản ứng của ta với các hiện tượng chứ không phải là bản chất
của sự vật. Ta đừng nên bị nhồi sọ bởi thái độ giáo dục: Đi tìm khổ như
bản chất của vạn hữu. Nếu làm vậy, ta đang nghĩ oan cho Bụt. Bụt chỉ
nói rằng, có khổ đau, đừng chạy trốn khổ đau, và phải nhận diện những
khổ đau đó để tìm cách giải quyết.
Nhận diện và chuyển hóa khổ đau
Nếu bị kẹt vào ý niệm mọi thứ đều là khổ, ta sẽ trốn
chạy, sẽ đè nén, sẽ không dám đối diện với những khổ đau. Trong khi đó
muốn chuyển hóa được khổ đau, ta phải nhìn sâu vào khổ đau để tìm ra cội
rễ của những khổ đau này. Ví dụ, ta đang có sự căng thẳng trong thân,
nếu không biết tại sao có những căng thẳng ấy thì làm sao ta có thể tự
chữa trị cho chính mình? Nếu biết được căng thẳng là do ta quá bận rộn,
do ta không an trú được trong giây phút hiện tại, do ta chưa có cơ hội
để buông thư, thì ta sẽ có được giải pháp rất thích hợp cho chế độ nghỉ
ngơi của chính mình. Còn ngược lại nếu mỗi ngày một ít, ta tự chất chứa,
dồn nén những căng thẳng thì sau nhiều ngày, những căng thẳng bị dồn
chứa ấy sẽ mang đến cho ta nhiều bệnh tật. Do vậy, khi có căng thẳng, ta
cần phải cho phép mình được buông thư, hoặc dành thời gian để ngồi
thiền, đi thiền thì những căng thẳng sẽ được thư giãn, không bị dồn nén
nữa. Xã hội bây giờ ai cũng có căng thẳng, đó là sự thật thứ nhất. Sự
thật thứ hai là cách ta tổ chức đời sống làm cho ta càng ngày càng bị
căng thẳng. Đó là những sự thật về đạo đức mà không phải là những giả
thuyết. Đó là thực tế.
Ta đã cùng nhau nhận diện và gọi tên những khổ đau
của xã hội ngày nay. Những khổ đau này không có mặt riêng biệt. Chúng
tương tức với nhau. Phần lớn các vấn đề xảy ra đều có liên quan đến sự
căng thẳng. Nếu không căng thẳng, ta có thể giải quyết vấn đề một cách
nhẹ nhàng, bình tĩnh, không nóng nảy. Tất cả những cái khổ đều tương tức
với nhau. Do đó, khi tìm ra được nguyên do của một cái, ta sẽ tìm ra
được nguyên do của những cái khác. Ta cũng nên biết, mỗi khổ đau xảy đến
từ nhiều nguyên nhân.
Bát tà đạo, con đường đưa tới khổ đau
Có thể là từ trước đến nay chưa có ai nói khổ
tập (nguyên nhân của nỗi khổ) là lề lối sống. Khổ đau là do lối sống của
ta dựa trên những tà kiến. Ví dụ, nếu thấy ta và con ta là hai thực thể
khác nhau mà không thấy được con ta là sự tiếp nối của ta, thì cái thấy
này là tà kiến. Vì không thấy được sự thật tương tức nên ta còn có cái
nhìn Nhị nguyên, kỳ thị cho rằng hạnh phúc của con không phải là hạnh
phúc của mình, rằng khổ đau của con không phải là khổ đau của mình.
Nhưng sự thật thì khi con ta khổ đau thì ta khó mà có hạnh phúc được. Tà
kiến là không thấy được tính duyên sinh của vạn vật, không thấy được
tính vô thường, vô ngã và tính tương tức của vạn vật. Trong con đường
Bát chánh, con đường đưa tới sự diệt khổ, có chánh kiến. Còn tập đế là
con đường đưa tới tà kiến. Người Palestin phải thấy nỗi khổ niềm đau của
người Do Thái là nỗi khổ niềm đau của mình, và người Do Thái cũng phải
thấy như vậy. Nếu có chánh kiến đó, hai bên sẽ cộng tác với nhau được,
và hai bên đều có hạnh phúc. Trường hợp giữa cha và con, giữa người Mỹ
và người Iraq, người Hồi giáo và người Ấn Độ giáo cũng vậy. Nếu có tà
kiến, chắc hẳn sẽ có tà tư duy. Vấn đề này liên quan đến đạo đức. Bởi
đạo đức là khả năng phân biệt được giữa cái chánh và cái tà. Người Việt
diễn tả chánh là thẳng, còn tà là nghiêng. Muốn có đạo đức thì phải có
cái thấy rõ ràng về chánh và tà. Tà kiến là cái thấy sai lạc. Tổ Lâm Tế
nói: "Người tu phải có chánh kiến" (cái thấy chân chánh). Nếu cái thấy
sai lạc, tư duy của ta cũng sẽ sai lạc, tà tư duy, và tà tư duy sẽ đưa
tới sự sợ hãi và bạo động. Ví dụ, nếu nghĩ rằng ta không giết kẻ kia
trước thì chắc chắn kẻ kia sẽ giết mình, và vì vậy ta phải tìm cách giết
kẻ đó trước. Cái này gọi là tà tư duy vì sự thật không phải như vậy.
Đây chỉ là cái thấy lầm lạc do nghi ngờ và sợ hãi đem đến mà thôi. Khi
có tà tư duy, sẽ dẫn tới:
-
Tà ngữ: Lời nói sai trái
-
Tà nghiệp: Thói quen xấu
-
Tà mạng: Làm ăn không chân
chánh, phá hoại môi trường, cướp đoạt cơ hội sinh sống của những người
khác, nói dối để người khác tiêu dùng những sản phẩm có hại cho sức
khỏe của họ.
-
Tà tinh tấn: Siêng năng không
đúng chỗ, cứ mê mải làm việc suốt ngày đêm, đến nỗi quên cả gia đình và
bản thân mình nên bị dồn chứa căng thẳng, lo lắng.
-
Tà niệm: Lúc nào cũng nghĩ tới chuyện làm
giàu, làm sao để có nhiều quyền hành, danh vọng và sắc dục, không bao
giờ có mặt trong giây phút hiện tại; chỉ chạy theo, trôi lăn theo đối
tượng của dục.
-
Tà định: Chỉ chăm chú vào những chuyện trái
với cái thấy tương tức, mình và đối tượng của mình không liên quan gì
đến nhau, đối tượng của mình rất nguy hiểm, mình phải tiêu diệt nó.
-
Tà kiến: Cái thấy sai lầm.
Khi niệm hùng hậu thì sẽ đưa tới định. Nhưng nếu đối tượng của
niệm là dục thì đối tượng của định cũng chính là dục. Có những người lúc
nào cũng nghĩ tới chuyện làm sao để có nhiều quyền hành, với người ấy
đối tượng niệm của họ là quyền hành. Khi đối tượng của niệm là giàu
sang, danh vọng hay sắc dục thì cái niệm đó cũng đưa tới một thứ định
nhưng là tà định. Khi có tà niệm và tà định sẽ đưa tới tà kiến. Chính vì
có tà kiến mới có tà niệm và tà định. Chúng tương tức với nhau. Tà kiến
nuôi tà niệm và tà định, rồi tà niệm và tà định lại nuôi tà kiến, cứ
vòng vòng như vậy. Đây không phải là con đường bát chánh mà là con đường
bát tà. Sở dĩ chúng ta có khổ đau là bởi vì chúng ta đi trên con đường
tà đạo: con đường của tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà
định, tà niệm và tà tinh tấn. Phần tà nhiều hơn phần chính.
Bát chánh đạo đưa tới hạnh phúc và bát tà đạo đưa tới
khổ đau. Khi đi tìm nguyên nhân của khổ đau thì ta có thể đi tìm ngay
trong nếp sống hiện tại của ta, những nguyên nhân này đến từ con đường
bát tà.
Khổ là sự thật thứ nhất, khổ tập là sự thật thứ hai, khổ tập diệt
là sự thật thứ ba. Diệt ở đây là sự chuyển hoá, sự tiêu diệt những
nguyên nhân đưa tới khổ, sự vắng mặt của nếp sống tà đạo. Sự vắng mặt
của tập cũng đồng thời là sự vắng mặt của khổ. Đây là sự tiêu diệt tận gốc rễ. Sự thật thứ ba, diệt,
xác nhận rằng ta có thể chuyển hoá được nếp sống này. Điều đó chứng tỏ
rằng chúng ta có tự do ý chí. Với chánh niệm ta sẽ đi tới chánh định và
với chánh niệm và chánh định ta sẽ đạt tới chánh kiến. Theo đạo Bụt thì
rõ ràng là con người có tự do ý chí. Chánh niệm trong bước chân và hơi
thở là một sự thực tập rất cụ thể để chấm dứt sự trôi lăn, để nuôi lớn
tự do. Sự thật thứ ba (khổ tập diệt) được cụ thể hoá bằng sự thật thứ
tư: khổ tập diệt đạo. Có sự thật thứ tư thì ta thấy sự thật thứ ba có
chân đứng. Sự thật thứ tư là khổ tập diệt đạo. Khổ tập diệt đạo
là con đường đưa tới sự chuyển hoá, đưa tới sự tiêu diệt nguyên nhân
của khổ đau. Thực tập con đường Bát chánh, ta sẽ đạt tới tự do và nhổ
được gốc rễ của khổ đau.
Chánh niệm là dây cương
Có một người hay nổi giận khi nghe người khác
nói những điều không vừa tai. Những lúc ấy anh không làm chủ được mình,
để rồi sau đó thì hối hận, tự buồn, tự trách mình là tại sao biết rằng
nói như vậy, làm như vậy sẽ không đẹp mà vẫn nói, vẫn làm. Đó là bởi vì
không cưỡng lại được thói quen, ngựa theo lối cũ. Thấy vậy, một người
bạn muốn giúp anh ta. Người bạn nói: "Hôm nay đi họp mình
sẽ ngồi cạnh bạn, mình sẽ cầm tay bạn trong suốt buổi họp.Và nếu khi
người ta nói những câu tưới hạt giống giận trong bạn, mình sẽ xiết
chặt lấy bàn tay bạn, khi ấy bạn phải trở về với hơi thở và mỉm cười,
mặc cho họ có nói gì". Hôm ấy anh ta đã không bùng nổ như mọi lần. Đó là
do sự can thiệp của chánh niệm. Người bạn phải xiết tay anh bởi vì
chánh niệm trong anh còn yếu. Nhưng sau vài lần có mặt của người bạn thì
chánh niệm trong anh được nuôi lớn và từ đó anh không cần người bạn
ngồi bên cạnh mình trong mỗi buổi họp nữa. Điều đó chứng tỏ rằng không
gian trong anh đang lớn dần lên, anh bắt đầu có tự do trong các buổi
họp. Điều này có được là do đâu vậy? Do chánh niệm. Đây là đầu dây mối
nhợ. Nếu ta nắm được cái đó, ta sẽ có tự do. Bốn sự thật hay Tám con
đường là sự đúc kết từ kinh nghiệm thực tập, chúng không đến từ một đấng
Thượng đế, và cũng không phải do một tự viện đề ra. Bốn sự thật là một
sự kiện đạo đức có thể được chấp nhận bởi bất cứ ai. Dù là Phật tử hay
không phải là Phật tử thì đó cũng vẫn là sự thật. Dù ta có tin vào Bụt
hay không tin vào Bụt thì đó cũng là sự thật. Ngay trong bài thuyết pháp
đầu tiên của mình, đức Thích Ca đã đề ra một nền đạo đức, một con
đường. Nó rất thiết thực và không có tính siêu hình. Nó đưa chúng ta trở
về với thực trạng của chính bản thân để mà hiểu, để mà thấy được con
đường giúp ta chuyển hóa. Con đường này không dùng để suy nghĩ mà phải
đem ra áp dụng. Mà hễ áp dụng thì sẽ có kết quả.