Thế nào là khổ thế nào là vui?
Nhìn sâu vào lòng thực tại
Trong đạo Bụt có nói tới tiêu chuẩn khổ, vui. Đây cũng là tiêu chuẩn
của một số các nhà đạo đức học. Có một trường phái đạo đức học tên là Công lợi chủ nghĩa
(Utilitarianism). Chủ trương của trường phái này là bất cứ một hành
động nào, một tư duy nào có tác dụng làm vơi nỗi khổ, đem lại hạnh phúc
đều gọi là chánh. Còn hành động nào, lời nói nào, tư duy nào mà đưa tới
đau khổ thì được gọi là tà. Chủ trương này hơi giống với chủ trương của
Tứ diệu đế. Câu hỏi đặt ra là muốn có hạnh phúc thì mình phải làm cái
gì? Điều này giống sự thực về Diệt đế. Khi biết mình muốn cái gì rồi,
thì mình biết sẽ phải làm cái gì. Trong đạo Bụt cái này gọi là Bát chánh
đạo. Bát chánh đạo chính là con đường Diệt khổ. Chánh nghiệp là hành
động chân chính. Nhưng để biết hành động của mình đúng hay sai thì phải
xem hành động đó sẽ đem lại cho mình hạnh phúc hay khổ đau. Nếu nó đem
lại hạnh phúc tức là mình hành động đúng, còn ngược lại, nếu nó mang tới
khổ đau thì hành động đó đã sai rồi.
Ví dụ, nói dối là không
tốt nhưng nếu nói thật mà khiến cho người ta đau khổ thì trong trường
hợp này nói dối lại là tốt. Cho nên nói dối là tốt hay xấu còn tùy thuộc
vào từng trường hợp, quan trọng là thành quả, tức là cứu cánh biện minh
cho phương tiện.
Ngày mùng 6 tháng 8 năm 1945, Mỹ thả trái bom
nguyên tử đầu tiên ở thành phố Hiroshima. Chỉ mấy phút sau có tới một
trăm bốn chục ngàn (140.000) người thiệt mạng. Người ta đã đặt vấn đề
rất nhiều về trái bom đó suốt từ năm 1945 cho đến bây giờ. Bỏ trái bom
nguyên tử như vậy là đúng hay là sai? Có những người cho là đúng, vì
theo họ thì tuy là làm cho một trăm bốn mươi ngàn người dân vô tội phải
chết nhưng nhờ đó mà chấm dứt được chiến tranh. Nếu để chiến tranh tiếp
tục kéo dài thì có thể con số người chết còn nhiều hơn thế nữa. Nhưng
những người khác không chấp nhận, họ phản đối và nói rằng có thể dùng
những phương tiện khác để chấm dứt chiến tranh mà không cần phải bỏ bom
như vậy.
Hồi đó tổng thống Mỹ Roosevelt đã ra một sắc lệnh rất rõ ràng và chi tiết là: “Trong
những cuộc hành quân, quân đội chỉ được quyền tấn công căn cứ quân sự
của đối phương thôi, phải tránh tối đa sự thiệt hại về dân sự”. Sau khi tổng thống Roosevelt chết, tổng thống Truman lên thay, ông ta cũng nói rằng: “ Tôi không đồng ý chuyện hành quân mà làm cho dân chúng thiệt hại”.
Khi ấy ông ta chưa biết rằng nước Mỹ đã có bom nguyên tử. Sau này, các
nhà quân sự tới nói với ông rằng cần phải bỏ trái bom này để cho Nhật
thấy mà đầu hàng. Các nhà cố vấn cũng cho biết khi bỏ trái bom này thì
sẽ có khoảng một trăm ngàn (100.000) người chết. Nhưng nếu Mỹ bỏ trái
bom này thì Nhật sẽ hoảng sợ và lập tức đầu hàng. Như vậy chiến tranh sẽ
nhanh chóng chấm dứt. Không biết rằng họ đã nói khéo thế nào mà sau đó
tổng thống Truman thay đổi quan điểm, ông ta đồng ý cho thả trái bom
xuống Hiroshima.
Trước đó thì quân đội đồng minh đã đổ bộ lên
Normandie bên Pháp, trận đánh diễn ra rất ác liệt và số người chết của
cả hai phe cũng khá đông. Ở Thái Bình Dương quân đội đồng minh đã bắt
đầu chiếm thế thượng phong. Nhưng người ta cũng không biết rằng chiến
tranh sẽ kéo dài bao lâu. Vì vậy mà các nhà quân sự Mỹ đã đề nghị với
tổng thống Truman bỏ thử trái bom nguyên tử đầu tiên.
Người ta ghi chép lại rằng tổng thống Truman nói: “Sau khi quyết định thả trái bom xong tôi thấy khoẻ cả người, tôi ngủ ngon như một em bé”.
Kể cũng lạ thật, mình biết trước là sẽ có một trăm ngàn người hoặc hơn
thế nữa phải chết vì quyết định của mình vậy, mà vẫn có thể ngủ ngon
được?
Hai ngày sau khi thả trái bom, Nhật vẫn chưa đầu hàng. Một
trăm bốn mươi ngàn người (140.000) người chết ngay lúc đó. Và những
phóng xạ nguyên tử tiếp tục làm cho hàng ngàn, hàng chục ngàn người khác
chết trong những năm sau đó. Tôi có vào thăm viện bảo tàng Hiroshima và
thấy những chứng tích rất ghê gớm. Có những chồng bát đĩa ở trong các
nhà hàng, những cái hộc đựng dao, đựng muỗng bằng sắt, khi trái bom rơi
xuống đã tạo ra sức nóng ghê hồn đến nỗi những cái chén trà chảy ra và
đóng thành một cục. Tất cả những cái muỗng, cái thìa, cái dao cũng chảy
và đóng thành một cục. Nóng quá nên mọi người nhảy xuống ao, xuống hồ.
Nhưng mà nước ao, nước hồ cũng nóng, cho nên chỉ trong vòng chưa đầy một
phút mà một trăm bốn mươi ngàn (140.000) người chết là vậy.
Sau đó ba ngày, ngày 9 tháng 8, Mỹ lại bỏ thêm một trái bom nguyên tử
nữa ở Nagasaki. Thành phố này nhỏ hơn. Trái bom thứ hai lập tức giết
chết bảy mươi ngàn (70.000) người dân vô tội. Đây là một vấn đề rất lớn,
nên bỏ hay không nên bỏ trái bom đó? Một bên lý luận rằng nếu bỏ hai
trái bom này thì bên kia sẽ hoảng sợ và đầu hàng, do đó sớm chấm dứt
chiến tranh. Còn một bên nói rằng có những phương pháp khác để thiết lập
hòa bình. Ai dám chắc rằng Nhật sẽ đầu hàng? Cái chuyện Nhật không đầu
hàng có thể xảy ra. Ví dụ như khi thả trái bom đầu tiên Nhật vẫn chưa
đầu hàng. Tới trái bom thứ hai Nhật mới chịu đầu hàng. Vậy thả bom là
đúng hay sai? Tốt hay xấu? Mình không thể biết trước được điều gì sẽ xảy
ra nhưng mình gánh trách nhiệm rất lớn.
Tiêu chuẩn về đạo đức
Nền đạo đức học tìm ra những tiêu chuẩn, những quy phạm để có thể biết
rằng hành động đó đúng hay sai, gọi là đạo đức học tiêu chuẩn. Tiêu là
cái mốc, là cái thước để đo xem hành động đó đúng hay sai, tốt hay xấu.
Bát chánh đạo chính là con đường của đạo đức học tiêu chuẩn. Nhưng thế
nào được gọi là chánh? Chánh nghĩa là gì? Tư duy như thế nào thì được
gọi là chánh tư duy? Cái thấy nào mới là chánh kiến? Trong nền đạo đức
học Phật giáo, chánh kiến là cái thấy tương tức, cái thấy bất nhị, cái
thấy vô thường, cái thấy vô ngã, cái thấy duyên sinh, nhưng đó cũng chỉ
là những cái thấy tương đối thôi. Có một cái thấy vượt tất cả các cái
thấy khác cái gọi là phá chấp, đó là chính là định nghĩa cao nhất về
chánh kiến. Đây là điều rất đặc biệt của Phật giáo. Vì vậy, đạo Bụt cũng
là một nền đạo đức học tiêu chuẩn. Khi mình tư duy có từ bi, có hiểu
biết thì cái đó thuộc về chánh tư duy. Còn trong tư tưởng mà có sân, có
si, có tham thì không phải là chánh tư duy. Đó là định nghĩa, và cũng là
cái thước đo xem quyết định của mình là chánh hay tà.
Ở bên
Anh có một cô sinh viên hai mươi tuổi tên là Elisabeth Anscombe, sau đó
cô trở thành một nhà triết học nổi tiếng chuyên về đạo đức học. Cô là
người Công giáo. Chủ trương của cô là không được giết hại. Dù với lý do
gì đi nữa cũng không được giết. Một người còn không được giết huống chi
là một trăm bốn mươi ngàn người (140.000), sau đó lại còn giết hại thêm
bảy mươi ngàn người (70.000) vô tội nữa. Không thể vì bất cứ một lý do
gì mà mình có thể giết hại được dù là để có hòa bình. Tại vì cái đó là
mệnh lệnh của Thượng đế.
Nhà triết học Kant người Đức nói rằng: “Nguyên tắc đạo đức là không di chuyển được. Nếu nói dối là phi đạo đức, thì nói dối để cứu người cũng phi đạo đức như thường”.
Ông ta nói tới cái gọi là mệnh lệnh tất yếu, mệnh lệnh tuyệt đối. Nói
sự thật là một mệnh lệnh tuyệt đối. Khi mình nói sự thật thì mình muốn
tất cả những người khác cũng đều phải nói sự thật hết. Theo ông ta cái
đó mới đúng là đạo đức. Còn nếu nói dối dù là để cứu người hay để làm
cái gì thì cũng không được. Kant không nói tới Thượng Đế mà nói tới cái
lý tính của con người. Còn bên phía chủ nghĩa công lợi thì du di hơn
nhiều. Theo họ thì nói dối cũng được, giết người cũng được miễn nó làm
vơi bớt khổ đau, đưa tới hạnh phúc.
Mười một năm, sau cái ngày
bỏ bom xuống nước Nhật, Tổng thống Truman qua nước Anh và được trường
Đại học Oxford trao tặng bằng tiến sĩ danh dự thì Elisabeth Anscombe, cô
thiếu nữ xưa kia nay đã trở thành một giáo sư và đang giảng dạy về đạo
đức học, vẫn rất trung thành với đạo đức học của Công giáo. Bà ta nói
rằng: “Có những cái mà mình không thể làm được dù có điều gì xảy ra đi nữa”.
(There are something that may not be done, no matter what)”. Ví dụ như
là để cứu thế giới mà mình bắt buộc phải giết chết một em bé, phải cho
em bé đó vào trong nước sôi để luộc thì mình cũng không thể làm được. Có
người nói là cô này cứng quá, cũng như ông Kant là cứng quá, không nhu
nhuyễn. Trong lúc trường đại học Oxford đang tổ chức lễ trao bằng danh
dự khen ngợi Tổng thống Truman thì triết gia Elisabeth Anscombe tổ chức
các sinh viên trong trường biểu tình quỳ xuống cầu nguyện để chống lại
quyết định trên.
Tôi đã quán chiếu nhiều lần về
những vùng mà bom nguyên tử đã rơi xuống. Và tôi thấy rằng bỏ trái bom
nguyên tử trên vùng Hiroshima và Nagasaki không phải chỉ là vấn đề chấm
dứt chiến tranh mà thôi. Tôi thấy rằng nước Mỹ cũng muốn thử trái bom
đó. Tuy là họ đã thử rồi nhưng họ vẫn muốn thử trên một thành phố. Có
thể khi trái bom đó nổ ra thì người ta sẽ biết rằng nước Mỹ là một nước
vô địch, một nước siêu cường. Không một nước nào trên thế giới có thứ vũ
khí tối tân như thế. Do đó uy lực và quyền năng của nước Mỹ được tăng
tiến. Vì vậy, lý do bỏ trái bom xuống không phải chỉ để cho Nhật đầu
hàng. Đứng về phương diện quân sự là một chuyện mà đứng về phương diện
chính trị lại là một chuyện khác. Thành ra phải nhìn cho kỹ để thấy rõ
rằng cái tâm lý đưa tới quyết định bỏ trái bom đó không hẳn chỉ để có
hoà bình, để chấm dứt chiến tranh mà trong đó còn có những yếu tố khác
nữa. Đây là những vấn đạo đức học rất lớn và mình phải quán chiếu mới
thấy được.
Khổ Và Lạc
Đạo Bụt nói tới tiêu chuẩn,
và cái tiêu chuẩn đầu tiên là tiêu chuẩn khổ - lạc. Cái gì đưa tới khổ
thì mình không làm. Cái gì đưa tới vui thì mình làm. Nhưng đó cũng chỉ
là một tiêu chuẩn tương đối thôi. Mình không thể chỉ dùng mỗi tiêu chuẩn
này thôi mà được. Ví dụ trong khi sử dụng ma túy mình thấy sướng quá và
mình đắm chìm trong giây phút khoái lạc ấy, nhưng sau đó thì mình lại
khổ vì cơn nghiện hành hạ. Vì vậy, cái sướng lúc trước không thực là
sướng vì đằng sau cái sướng ấy là cái khổ.
Nhưng cũng có những
cái khổ mà khi nhìn sâu vào thì lại là sướng. Ví dụ: Ngày xưa có một thí
sinh mới có 16 tuổi nhưng làm bài thi rất xuất sắc. Bài của anh ta đáng
lý phải chấm đậu đầu, đậu giải nguyên, nhưng các quan trường nói rằng
chàng trai này còn nhỏ quá, nếu mình cho đậu thì nó sẽ quá tự cao. Đào
tạo người trước hết phải chú trọng tới cái đức, sau đó mới tới cái tài.
Vì vậy, kỳ này mình phải đánh hỏng nó, rồi kỳ sau sẽ cho nó đỗ đầu lại,
như vậy sẽ mài dũa bớt cái tự hào của nó. Đó là suy tư của các quan
trường. Đứng về phương diện lý luận thì trường hợp này rất là oan. Ta
làm bài hay nhất, xứng đáng đỗ đầu thế mà đánh ta bị hỏng để sang năm
cho đậu đầu. Lỡ sang năm ta chết trước kỳ thi thì sao? Vậy quyết định
như thế nào là đúng? Đó cũng là một quan niệm về đạo đức. Tại vì đất
nước cần người tài đã đành rồi nhưng những người có đức còn cần hơn. Nếu
người đó vừa có tài lại vừa có đức nữa thì đất nước được nương nhờ. Có
những cái khổ rất cần thiết vì nó giúp cho ta nên người. Vì vậy cái khổ
đó chưa chắc là xấu, chưa chắc là sai.
Về đạo đức, về phong tục
cũng như về nhận thức giữa phương Tây và phương Đông khác nhau khá
nhiều. Ví dụ như ngày xưa ở bên Trung Quốc, một người phạm tội lớn như
tội giết vua thì không những người đó bị án tử hình mà còn bị tru di tam
tộc. Tru di tam tộc nghĩa là giết hết tất cả ba họ của người ấy, dù
những người kia không có tội tình gì, tại vì người ta có quan niệm rằng
gia đình không biết dạy nhau thành ra phải hứng chịu chung một trách
nhiệm. Đứng về phương diện chủ nghĩa cá nhân thì cái đó rất là bất công,
một người làm mà tất cả gia đình đều phải gánh tội. Nhưng nhìn lại cũng
có cái lý ở trong đó. Trong một gia đình, nếu một người bị đau ốm, bị
tai nạn, hay đã làm cái gì sai pháp luật mà bị đi tù thì dù những người
kia không bị đau ốm, không bị đi tù cũng thấy khổ đau. Người ta nói tại
cha mẹ không dạy con cho nên phải phạt luôn cha mẹ. Người ta nói anh em
không dạy nhau cho nên phải phạt luôn cả anh em. Đó là những tiêu chuẩn
đạo đức khác nhau trong mỗi xã hội.
Ngày xưa lại có một bộ tộc
có thói quen khi ông bà chết thì phải lập tức xé thịt ông bà để ngồi ăn
với nhau. Họ nghĩ rằng làm như vậy tức là ông bà sẽ tiếp tục sống trong
mình và đó là hành động có hiếu. Còn nếu ông bà chết mà mình không ăn
thịt thì mình là kẻ bất hiếu. Đối với những giống dân khác thì đây là
một việc làm hết sức dã man. Nhưng nếu mình nói: Ở đất nước tôi, mỗi khi
ông bà chết thì chúng tôi đem chôn hoặc đem đi thiêu thì những người
trong bộ tộc kia sẽ giận lắm và họ nói điều đó là phi đạo đức, phi luân
lý. Thành ra cái đúng, cái sai, cái phải, cái trái, cái thiện, cái ác
còn tùy theo văn hóa địa phương.
Năm 2000 có một người phụ nữ
sống ở vùng Địa Trung Hải sinh được hai đứa con sinh đôi, một bé tên là
Mary, một bé tên là Judia, nhưng hai em bé dính liền vào nhau. Chúng có
chung một lá phổi, một trái tim nhưng tim và phổi đều nằm ở bên bé
Judia, Judia phải thở và co bóp tim để gửi máu tới nuôi Mary. Khi hai
cháu sinh ra, các bác sĩ biết rằng chỉ vài tuần sau là cả hai đứa đều sẽ
chết. Các bác sĩ nghĩ rằng có thể sẽ cứu được ít nhất là được một đứa
nếu đem giải phẫu, tách chúng ra. Còn nếu không giải phẫu thì cả hai đứa
sẽ chết. Nhưng gia đình này là gia đình theo Công giáo, họ nhất định
không cho mổ. Thà rằng họ chấp nhận cả hai đứa đều chết chứ không thể
nào cho phép mổ để một đứa chết một đứa sống được.
Các bác sĩ nói, điều này rất vô lý, tại
sao có thể cứu được một đứa mà không cho cứu lại để cho cả hai đứa
chết? Vì vậy, họ đưa đơn ra tòa xin phép được mổ để cứu một đứa và tòa
đã chấp nhận. Sau ca giải phẫu các bác sĩ đã cứu được Judia. Trong
trường hợp này các bác sĩ đã theo một tiêu chuẩn đạo đức khác, theo họ
thì tuy Mary chết nhưng cứu được Judia. Còn bố mẹ hai bé lại theo một
quan điểm đạo đức khác, họ nói rằng Thượng Đế an bài như thế nào thì
mình phải chịu như thế ấy. Nếu hai đứa chết cũng là do ý muốn của Thượng
Đế, mình phải để y nguyên như vậy. Mình không có quyền giết một đứa để
có một đứa. Điều này tranh cãi phát xuất từ quan niệm đạo đức khác nhau.
Chuyện về em bé Theresa cũng vậy. Em bé Theresa sinh ở Florida
năm 1998. Khi siêu âm các bác sĩ thấy rằng Theresa không có óc. Khi một
đứa trẻ như vậy thì chắc chắn nó sẽ chết. Nếu không chết trong bụng mẹ
thì đến khi sinh ra nó sẽ chết. Nếu không chết ngay sau khi vừa chào đời
thì chỉ sau vài ngày là chết. Vì vậy, bố mẹ bé quyết định hiến tặng
những bộ phận cơ thể của bé cho những đứa trẻ khác như lá phổi, con mắt,
trái tim, lá gan... Hàng ngàn đứa trẻ khác đang cần những bộ phận đó.
Bố mẹ Theresa muốn như vậy, và các bác sĩ cũng muốn như vậy nhưng luật
của Florida không cho phép. Theo luật của tiểu bang này thì chỉ khi nào
người ta chết rồi thì mới được hiến tặng những bộ phận trong cơ thể. Còn
khi người ta đang sống mình không thể nào giết người ta để lấy những bộ
phận cơ thể đó ra mà hiến tặng được. Cố nhiên là các bác sĩ và hai vợ
chồng phải chịu thua. Khi bé Theresa chết rồi thì các bộ phận đó đã hỏng
hết đâu còn dùng được nữa. Và như vậy là không cứu được đứa trẻ nào cả.
Thành ra những vấn đề đạo đức phải tùy theo tư duy, phán đoán
của mình để biết rằng cái nào nên làm, cái nào không nên làm. Cái nào là
tốt, cái nào là xấu.
Lợi và Hại
Tiêu chuẩn thứ
hai là lợi và hại. Cái gì nó có hại tới sức khoẻ, có hại tới niềm an vui
của mình thì cái đó không nên làm. Ngược lại, cái gì đem đến lợi ích
thì cái đó nên làm. Có phải chúng ta nghĩ như vậy không? Trong đạo Bụt,
cái gì đưa tới tình huynh đệ, đưa tới giải thoát, đưa tới giác ngộ, đưa
tới tự do thì gọi là lợi. Ví dụ hoàn cảnh giúp cho mình có được chánh
niệm, chánh định, có trí tuệ thì được gọi là lợi. Còn sống trong hoàn
cảnh khiến cho mình bị thất niệm, làm cho mình chất chứa những tà kiến,
đưa tới vướng mắc, đưa tới buồn rầu, thất vọng thì gọi là hại. Tóm lại,
tất cả những gì làm chướng ngại cho sự tu tập thì đều gọi là hại. Tuy
nhiên, có những phiền não mà mình phải chịu đựng nhưng khi đã đi qua rồi
thì mình bỗng lớn lên, khó khăn ấy giúp mình phát khởi tuệ giác. Nhưng
có những khổ đau một khi đã vướng vào thì mình khó lòng mà thoát khỏi
gông cùm của nó. Thành ra tiêu chuẩn lợi và hại tới có thể bổ túc được
cho tiêu chuẩn khổ và vui. Nếu cái khổ đó có lợi cho mình thì tại sao
mình không chấp nhận nó? Khi mình chấp nhận nó rồi thì cái khổ không còn
làm cho mình bị khổ nữa.
Ví dụ như chuyện leo núi. Có những
người không thích, họ nói: tại sao phải đày đọa thân mình như thế, tại
sao phải bỏ thời gian leo lên tận đỉnh ngọn núi, mệt phờ cả người, áo
quần rách, mình mẩy lấm lem. Sao không ở nhà mà xem ti vi cho khỏe? Đối
với những người ấy thì leo núi là không có lợi. Ở nhà có lợi hơn. Nhưng
đối với những người thích leo núi thì họ lại hạnh phúc vô cùng. Tại vì
tuy mệt như vậy nhưng họ thấy khoẻ khoắn trong người. Đối với họ thì leo
núi là có lợi.
Ban đầu thấy ăn chay khổ quá, tại sao
lại phải ăn chay? Nhưng nếu ăn chay với trí tuệ thì mình thấy ăn chay
hạnh phúc hơn ăn mặn nhiều. Khi ăn chay ta bảo vệ được sinh mạng, bảo vệ
được trái đất. Thấy như vậy thì ăn chay không cảm thấy khổ nữa, mà ăn
chay lại là một niềm vui, một điều may mắn. Hơn nữa, khi ăn chay một
thời gian mình quen với thức ăn chay, khi ấy mình lại thấy thức ăn mặn
rất là tanh hôi, gớm ghiếc và mình không thể ăn được. Thành ra tất cả
mọi tiêu chuẩn đạo đức học đều tương đối, tiêu chuẩn lợi hại tới bổ túc
cho tiêu chuẩn khổ vui.
Hôm 01.09.2008, tại thủ đô New Delhi,
tôi có nói một bài diễn thuyết để tưởng niệm thánh Gandhi. Hôm ấy tôi có
trích một câu rất hay của thánh Gandhi, Ngài đã nói: “Tổ tiên của chúng ta đã học được bài học tri túc, không đi vào con đường hưởng thụ nhiều”.
Tri túc tức là biết đủ. Tổ tiên của chúng ta đã biết rằng hạnh phúc hay
khổ đau từ trong tâm của mình mà thôi. Không hẳn giàu mới có hạnh phúc,
không hẳn nghèo mà đã đau khổ. Giàu nghèo không quyết định hạnh phúc
hay khổ đau mà chính là cái tâm của mình quyết định điều đó. Thấy được
như vậy nên tổ tiên đã khuyên chúng ta đừng nên sống xa xỉ, đừng đắm
chìm trong dục lạc. Vì vậy câu này có nghĩa là cái “lạc” đó có thể làm
hại mình trong hiện tại và làm hại mình trong cả tương lai.
Nếu mình có điều kiện để tiêu thụ, để
mua sắm, cái đó chưa chắc là hạnh phúc chân thật đâu, ngược lại, nó có
thể đưa tới khổ đau. Trong khi nếu mình sống tri túc, sống một nếp sống
đơn giản nhưng có nhiều an lạc thảnh thơi thì điều đó giúp ích cho sự
nghiệp giải thoát của mình. Cái đó có lợi hơn nhiều. Thánh Gandi cũng
nói một câu khác rất hay : “Cái tâm mình giống như một con chim bất an, có bao nhiêu cũng không đủ, muốn bao nhiêu cũng chưa thỏa mãn.”
Đó là lòng tham không đáy, đã thành công rồi mà vẫn chưa hài lòng, vẫn
muốn thành công hơn, thành công hơn rồi lại muốn thành công hơn nữa, ham
muốn không bao giờ cùng tận. Cho nên tri túc chính là lời khuyên của
cổ nhân. Vì vậy, cái lợi ở đây không hẳn là lợi dụng đâu, mà cái lợi
này nó đưa tới sự thảnh thơi, đưa tới hạnh phúc chân thật, đưa tới sự
giải thoát.
Tiêu chuẩn khổ - lạc không đủ để cho mình thiết lập
nền tảng đạo đức, mình phải thêm tiêu chuẩn lợi - hại. Cái hành động đó
có đem lại lợi ích cho mình sau này hay không? Có lợi cho sự thảnh
thơi, cho sự giải thoát, cho tình huynh đệ sau này hay không? Nếu có thì
hành động đó là đúng còn nếu không được như vậy thì hành động đó là
sai, là tà, là ác.
Mê và Ngộ
Khi đang ở
trong một cơn mê thì những quyết định của mình không được sáng suốt. Khi
ấy người ta nói đúng sự thật mình cũng không nghe. Vì vậy phải tự hỏi
là mình có đang ở trong một cơn mê không ? Vậy thế nào gọi là cơn mê ?
Khi thất niệm tức là mình đang ở trong cơn mê. Khi không có định tức là
mình đang ở trong cơn mê. Khi không có tuệ tức là mình đang ở trong cơn
mê. Còn nếu có niệm, có định, có tuệ thì khi ấy mình đang tỉnh thức. Vì
vậy, quyết định nào mình làm trong lúc tỉnh táo thì mới đúng, còn quyết
định trong lúc mê thì rất dễ sai lầm và sẽ đem lại khổ đau. Ví dụ như ký
một giấy tờ quan trọng trong cơn say rượu thì nguy lắm, tán gia bại sản
có ngày. Do đó, một hành động đúng đắn phải được quyết định trong lúc
tỉnh táo.
Khi đang ở trong trạng thái mê thì cái
thấy của mình về lợi và hại, khổ và vui sai lầm vô cùng. Vì vậy ta phải
lấy tư tưởng này làm một tiêu chuẩn quan trọng: “Ngộ” tức là khi mình
tỉnh táo, có chánh niệm, thấy biết một cách rõ ràng, khách quan. Đây là
một tiêu chuẩn bổ túc cho hai tiêu chuẩn khổ - vui và lợi - hại.
Khai và Giá
Trong đạo Bụt có chữ khai và giá. Khai tức là mở cửa ra, giá tức là chặn đường lại. Bất cứ một luật lệ nào, một tiêu chuẩn đạo đức nào cũng không thể tuyệt đối được. Vì vậy phải có khai,
để dành cho những trường hợp đặc biệt. Ví dụ như không nói dối là tiêu
chuẩn đạo đức. Nhưng nếu có tên sát nhân tới hỏi mình có biết kẻ nó muốn
giết đang trốn ở đâu không, nếu mình biết và thật thà chỉ chỗ người ấy
đang trốn thì người đó sẽ bị giết. Cho nên trong trường hợp này nếu nói
ra sự thật như vậy thì không đúng đạo đức. Thành ra, tuy thật thà là
tiêu chuẩn đạo đức, nhưng thỉnh thoảng cũng phải khai. Đối với
những trường hợp đặc biệt mình cũng phải nói dối, vì tình thương, một vị
Bồ tát lâu lâu có thể nói dối một chút để cứu người. Giả sử mình là một
vị cảnh sát, nếu cần phải bắt người kia giam lại thì mình vẫn có thể
làm được với điều kiện là mình làm bằng tình thương.
Trong kinh có kể, một
lần tiền thân của Bụt Thích Ca giết một tên cướp để cứu rất nhiều người
(nhưng đây chỉ giết có một người thôi chứ không phải là giết 140.000
người). Và vị Bồ tát ấy nói rằng: để cứu rất nhiều người nên con bắt
buộc phải giết chết một người, và con chấp nhận bị đọa địa ngục vì hành
động đó. Đây là một hành động rất từ bi, giết người để cứu nhiều người.
Ví dụ như khi mình thấy một người cầm khẩu súng liên thanh nã đạn vào
một đám đông, khi ấy nếu mình là một vị cảnh sát, vì không muốn nhiều
người bị chết thì mình có thể bắn kẻ khủng bố kia. Mình có thể bắn vào
chân, vào tay hay bất cứ chỗ nào để cho người ấy bị thương và không làm
hại kẻ khác được. Đó chính là một hành động từ bi.
Đôi khi có nhiều trường
hợp phải giết người. Ví dụ như có những căn bệnh không thể chữa được,
bệnh nhân phải sống hết sức đau đớn trong những cơn đau kéo dài khổ sở
khôn cùng và họ muốn chấm dứt đau khổ, họ muốn được chết mau, chết không
đau đớn. Nhưng mà mình theo luật gọi là bất sát nên mình nhất định
không giết. Đây là vấn đề khai, có nên mở không? Có nên để cho người đó
chết hay không? Đây là vấn đề đang xảy ra ở nhiều nước. Hiện nay trên
thế giới chỉ có ba hay bốn nước cho phép điều đó thôi. Tất cả các nước
khác đều không cho phép chích thuốc để bệnh nhân chết không đau đớn. Tại
vì họ sợ rằng khi mở ra như vậy người ta sẽ lợi dụng và đi quá đà.
Đối với vấn đề phá
thai, giáo hội Cơ Đốc, giáo hội La Mã vẫn có một lập trường rất cứng rắn
về chuyện phá thai. Tại vì phá thai tức là giết người. Có một giai
đoạn, giáo hội nghĩ rằng khi cái thai còn nhỏ chưa hẳn là một con người
thì có thể phá được. Nhưng tới một giai đoạn khác người ta bắt đầu nghĩ,
tuy cái thai mới tượng hình nhưng đã có con người trong đó rồi, cho nên
phá thai tức là giết người. Hiện tại lập trường của giáo hội là phá
thai tức giết người, là không thể được. Trong khi đó thì đi lính, đi ra
trận để tham dự cuộc chiến tranh thì lại không bị cấm, ra trận cũng là
chuyện giết người. Còn chuyện kiểm soát sinh nở thì nói là chống lại ý
muốn của Chúa, của Thượng đế. Thượng đế muốn thì phải để phải để tự
nhiên. Vì vậy có một thời, và chính ngay bây giờ cũng có rất nhiều người
chống lại chuyện kiểm soát sinh nở.
Chúng ta biết rằng
trong chuyện sinh nở bừa bãi thì nạn nhân chính là những đứa con sinh ra
không được thừa nhận. Rồi khi chúng lớn lên bị xã hội hắt hủi, ghẻ
lạnh. Những người con trai Mỹ đi công tác ở các nước Châu Á để lại rất
nhiều những đứa con vô thừa nhận ở Cao Ly, ở Nhật Bản, ở Việt Nam và các
nước khác. Ngay ở trên đất Mỹ, mỗi năm có hàng trăm ngàn đứa trẻ sinh
ra không được thừa nhận. Bố nó không thừa nhận mà mẹ nó cũng không muốn
giữ lại nuôi. Có thể có từ 250.000 đến 350.000 đứa trẻ như vậy mỗi năm.
Trong khi đó thì cấm không được kiểm soát sinh nở? Thành ra tất cả những
vấn đề đó là những vấn đề có thật trong thế giới của mình. Và đạo đức
học của mình phải làm sao áp dụng được vào đời sống để làm giảm thiểu
những khổ đau chứ không chỉ là những lý thuyết suông.
Ngày xưa có chế độ đa
thê, tức là một ông có nhiều bà. Ở Tây Phương thì theo nguyên tắc hình
thức hơn, tức là một ông chỉ có một bà. Nhưng mà có thể năng lượng tình
dục mạnh quá, sự thực tập không đàng hoàng, cho nên có những người có
những liên hệ vợ chồng, những liên hệ tình dục không chính thức. Vì vậy
có rất nhiều những đứa con vô thừa nhận. Những đứa trẻ không được bố
công nhận, không được mẹ nuôi dạy phải sống trong cô nhi viện rất nhiều.
Trong chế độ đa thê,
nếu người vợ không sinh được con, hoặc không sinh được con trai thì bà
vợ phải cưới cho chồng một người vợ thứ hai, thứ ba. Tuy đứng về phương
diện hình thức mang tính cách đa thê nhưng ở đây không có những đứa trẻ
vô thừa nhận. Đó là những vấn đề có thật trong xã hội mà đạo đức học của
mình phải trực tiếp giải quyết. Gọi là đạo đức học ứng dụng. Tức là đạo
đức học đem ứng dụng vào những trường hợp cụ thể như vậy.
Ví dụ việc giải quyết
vấn đề những người đồng tính luyến ái. Lâu nay, giáo hội Công giáo có
một lập trường rất cứng. Cho rằng tình dục giữa những người đồng tính là
một cái gì rối loạn. Theo cái thấy của nhà thờ thì những người đồng
tính luyến ái không nên có tình dục đó và quan niệm gần nhất của nhà thờ
là những người đồng tính từ khi sinh ra đã thế rồi, họ đâu có muốn như
vậy, thành ra mình phải chấp nhận họ. Phía nhà thờ mới đi được tới chỗ
đó thôi. Còn chuyện những người đồng tính quan hệ tình dục với nhau thì
nhà thờ chưa chấp nhận. Khi những người đồng tính nói tới một cái quyền
là họ có thể cưới nhau, có thể làm hôn thú đàng hoàng thì giáo hội nói
rằng không, cái đó là không có đạo đức. Mà không có đạo đức thì không có
quyền làm. Lập trường của giáo hội Công giáo hiện bây giờ đang là như
vậy.
Ngày xưa Aristotle khởi xướng lý thuyết “Natural law”, Luật tự nhiên. Ông
nói, bất kỳ cái gì ở trong vũ trụ cũng đều có một công dụng hết. Ví dụ
trời sinh ra cái răng để nhai thức ăn, sinh ra cái lưỡi để nếm, sinh ra
con mắt để nhìn. Sau này giáo hội đã chấp nhận lý thuyết đó. Nói rằng đó
là chính là Thượng đế đã sanh ra như vậy. Khi người ta hỏi: Thượng đế
sinh ra tình dục để làm gì? Câu trả lời rất dĩ nhiên: Sở dĩ con người có
năng lượng tình dục là để có con, để có sự nối dõi. Tại vì bất cứ một
hiện tượng nào trong vũ trụ đều phải có một mục đích hết. Đó là ý muốn
của Thượng đế. Vì vậy cho nên tình dục chỉ là để có con thôi. Còn đối
với những người đồng tính luyến ái thì họ đâu có con? Vậy nên tình dục
của họ là không đúng. Do đó tình dục của những người đồng tính luyến ái
bị lên án. Đó là lý luận của nhà thờ trong một giai đoạn nào đó của
lịch sử. Và họ căn cứ trên cái gọi là Luật tự nhiên.
Luật tự nhiên là bất cứ
một hiện tượng nào trong vũ trụ đều có một mục đích, có một công dụng
rõ ràng. Cái răng để nhai, con mắt để thấy thì tình dục để tạo ra những
em bé. Mà nếu tình dục không phải để tạo ra em bé thì đó là sử dụng sai.
Nhưng có những người lại lý luận như thế này: Con mắt là để thấy, nhưng
có nhiều người dùng con mắt trừng lên một cái để cấm đoán thì con mắt
đó đâu phải để thấy, mà là để cấm. Con mắt còn dùng để đưa tình, chứ con
mắt đâu phải chỉ để thấy không thôi. Vậy thì tình dục cũng thế. Tình
dục, mục đích của nó là làm ra những đứa con nhưng mà tình dục cũng có
thể dùng để tỏ bày tình cảm của mình đối với một người mà mình thương
rất nhiều, coi người đó là người mình tin tưởng nhất trên đời. Những
người nghĩ như vậy thì họ chấp nhận chuyện tình dục giữa những người
đồng tính luyến ái. Cũng như là con mắt tuy là để nhìn nhưng con mắt
cũng có thể để háy, để nguýt, để trừng, để ngăn cấm .v.v… Cho nên trong
đạo Bụt có rất nhiều không gian tại vì đạo Bụt có chữ khai. Trong
những trường hợp đặc biệt mình có thể cho phép phá thai để kiểm soát
sinh nở. Có những trường hợp mà mình có thể giúp người kia chết một cách
an lành, có những trường hợp mình có thể nói dối. Nhưng tất cả những
cái đó đều phải làm trên căn bản của tình thương. Nếu không có tình
thương, nếu không theo tiêu chuẩn mê - ngộ, lợi - hại, khổ - vui thì
mình không thể làm được.
Có những triết gia như
là Kant không chịu như vậy. Kant nói rằng có những mệnh lệnh, những
nguyên tắc tuyệt đối phải tuân theo. Ví dụ không nói dối là tuyệt đối
không nói dối, không thể lấy cớ này, cớ nọ để nói dối được. Mọi trường
hợp đều phải nói thật 100%. Tại vì mình muốn làm như thế nào để tất cả
những người khác đều làm như mình hết. Đó là một thái độ rất cứng.
Quan điểm đó cho rằng,
cái đúng và cái sai, cái chánh và cái tà là do Thượng đế quyết định chứ
không phải do con người quyết định. Cái đó đúng vì Thượng đế bảo là
đúng. Cái đó sai vì Thượng đế nói nó sai. Mình chỉ đi theo thôi. Thượng
đế là tạo hoá còn mình là tạo vật. Khi tạo hoá dựng ra con người, dựng
ra vạn vật thì tạo hoá bỏ cái đúng và cái sai vào trong đó. Vì vậy cho
nên cái đó gọi là mệnh lệnh của Thượng đế. Và nó có tính cách tuyệt đối.
Đạo Bụt thì không cứng ngắc như vậy. Nền đạo đức của đạo Bụt có phương tiện quyền xảo gọi là khai, đó là sự linh động. Một mặt là khai, một mặt là giá. Giá tức
là ngăn lại. Ngăn lại một hành động nào đó, tuy là chưa gây ra đau khổ,
nhưng nếu để cho đi quá đà thì sẽ gây ra tai hại. Ví dụ như có rất
nhiều vụ tai nạn giao thông xảy ra do tài xế đã uống quá nhiều rượu
trước khi lái xe. Khi uống rượu mà lái xe thì rất nguy hiểm cho tính
mạng của mình và những người khác. Cho nên Bộ giao thông mới cấm người
điều khiển xe có lượng cồn trong máu quá mức cho phép.
Vì vậy cho nên khi uống
ly rượu đầu tuy không tai hại, nhưng ly đầu có thể dẫn tới ly thứ hai,
rồi ly thứ ba và lúc ấy thì tai nạn sẽ xảy ra. Sự thật là nếu không có
ly thứ nhất thì làm gì có ly thứ hai, ly thứ ba? Vì vậy cho nên đừng có
uống ly thứ nhất.
Tuy mình làm điều đó
không nguy hiểm gì nhưng điều đó sẽ kéo mình đi xa hơn và một khi đã đi
xa rồi thì tai nạn sẽ xảy tới. Có một bà người Anh, sau khi được nghe
trình bày về năm giới, bà nói xin thọ bốn giới thôi, còn giới thứ năm là
không uống rượu thì bà không thể thọ được vì mấy chục năm nay ngày cuối
tuần nào cũng uống một ly rượu mà không làm sao hết. Tại sao phải thọ
giới thứ năm giới để bỏ đi thú vui uống một ly rượu cuối tuần của mình?
Khi ấy tôi nói với bà ta rằng : “ Tôi công nhận là trong ba mươi năm nay
mỗi cuối tuần bà đều uống một ly rượu và không có chuyện gì xảy ra cho
bà hết. Đứng về phương diện sức khoẻ cũng như đứng về những phương diện
khác. Nhưng mà bà nên biết rằng, những đứa con của bà khi thấy bà uống
thì nó cũng uống, và có thể chúng có hạt giống của sự say sưa. Bà có thể
uống mỗi tuần một ly nhưng các con bà khó có thể được như bà, chúng có
thể uống nhiều hơn và đi vào con đường nghiện ngập. Vì vậy bà ngưng ly
rượu đó không phải vì bà mà là vì các con của bà. Tại thường thường, cha
mẹ làm gì thì con cái sẽ bắt chước làm theo. Cha mẹ hút thuốc thì con
hút thuốc”. Tôi nói với bà ta như vậy và thật may mắn là bà ta đã ngộ
ra, hôm sau bà quyết định thọ cả Năm giới. Cái đó gọi là giá , tức là nó có tác dụng ngăn ngừa những hậu quả có thể xảy ra trong tương lai. Khai và cái Giá là một tiêu chuẩn trong đạo Bụt.
Theo giới luật hiện
thời của Làng Mai thì mỗi khi một thầy, hay một sư cô cần phải lên
internet thì luôn phải có một thầy hay một sư cô khác ngồi một bên để
làm đệ nhị thân. Có thể là thầy đó, sư cô đó lên internet một mình nhiều
lần cũng không sao hết. Nhưng mà có một người đi theo bảo hộ để ngăn
ngừa cái chuyện có thể xảy ra, cái đó gọi là giá. Tại vì trong
mạng lưới internet có thể có những vùng nguy hiểm. Không biết là các bậc
làm cha, làm mẹ có thể áp dụng chuyện này với con cái mình được không ?
Tại vì bây giờ trẻ con mới 7 tuổi, 10 tuổi đã bắt đầu lên mạng internet
một mình rồi. Và chúng có thể đi lạc vào những vùng rất là nguy hiểm.
Có nên cấm nó hay không? Cấm nó chắc cũng không được. Nhưng giới luật
đưa ra là mỗi lần con lên mạng internet thì phải có mẹ hoặc bố ngồi
cùng. Không biết cái đó quý vị có thể làm được không? Cũng như khi uống
rượu say có thể quý vị lái xe mà không gặp phải một tai nạn nào hết.
Nhưng đó là may mắn thôi. Vì vậy cho nên không uống rượu vẫn hay hơn.
Trì và Phạm
Trì và phạm là nói về giới. Khi giữ giới thì gọi là trì giới, khi không giữ giới thì gọi là phạm giới.
Trì là giữ cho nó còn nguyên vẹn. Còn phạm tức là để nó vỡ nát. Giới
thân nói là không được làm cái đó mà mình cứ làm là phạm giới, còn khi
mình tuân theo giới, mình không làm thì gọi là trì giới. Những người trì
giới là những người rất hạnh phúc, rất thanh tịnh. Khi mình không uống
rượu, không sử dụng ma túy tức là mình trì giới, nhờ vậy mà thân tâm
mình khỏe mạnh an vui. Còn nều mình cứ sử dụng, mình phạm giới thì mình
bị nô lệ cho sự nghiện ngập. Sự nô lệ ấy làm mình mất tự do và làm khổ
cả những người xung quanh
Trong trường hợp nói
dối. Nếu một tên sát nhân đi kiếm người ta để thủ tiêu hắn tới và hỏi
mình có thấy người đó không. Mình biết nhưng mà mình phải nói dối. Trong
trường hợp này mình nói dối tức là mình trì. Nếu mình không nói dối tức là mình phạm.
Nếu mình không nói dối thì mình gián tiếp giết người rồi. Vì vậy cho
nên có những trường hợp vì tình thương mình bắt buộc phải nói dối. Ví dụ
khác, khi thấy một người đang đau khổ, đang gặp hiểm nghèo mà mình
không ra tay cứu giúp, thì tuy rằng mình không giết người đó nhưng mà
mình đã phạm giới. Khi thấy một người đang đàn áp, đang giết người khác
mà mình ngồi yên, bình chân như vại, không tới can ngăn thì mình cũng
phạm giới như thường.
Cho nên, có khi trên hình thức là phạm nhưng kỳ thực là mình đang trì, có khi trên hình thức là trì nhưng mà mình đã phạm
giới. Đạo đức học trong đạo Bụt rất là linh động, nó phải có tính cách
khế cơ tức là phải phù hợp với từng hoàn cảnh. Mình có đạo đức học tiêu
chuẩn nhưng mà phải đi tới đạo đức học ứng dụng. Tất cả những cái đó đều
phải dựa trên tuệ giác gọi là cái tuệ giác tương tức, tuệ giác bất nhị.
Bất nhị tức là không có
hai. Khi chúng ta nói chánh và tà, khổ và vui, lợi và hại, thì theo
cách nhìn của đạo Phật hai cái đó nương nhau mà thành. Cái này làm nên
cái kia, cái kia làm nên cái này. Vì vậy đạo Bụt có một quan niệm rất
mềm dẻo.
Khi nói Bụt và chúng
sinh thì mình có một cặp đối lập nhau giống như là lợi và hại, hay là mê
và ngộ. Như bùn và sen, bùn và sen vốn ôm lấy nhau, chúng nương vào
nhau mà có, không có bùn thì không có sen, không có sen thì không có
bùn. Bụt và chúng sinh cũng như vậy. Bụt ôm lấy chúng sinh và chúng sinh
ôm lấy Bụt. Tìm Bụt ở trong chúng sinh và tìm chúng sinh ở trong Bụt.
Bụt và chúng sanh không thể tách rời. Cho nên ở trong đạo Bụt có giáo lý
gọi là “Phật sinh bất nhị”. Bụt tức là người tỉnh thức, sinh tức là
chúng sinh. Bụt và chúng sinh không thể tách rời ra được gọi là bất nhị.
Nếu mà không nắm được điều này thì không thể nắm được nền đạo đức học
Phật giáo. Nếu mình muốn đi tìm Bụt thì phải tìm ngay ở chúng sinh, vì
ngoài chúng sinh ra không thể nào có Bụt. Khi đã thành Bụt rồi không
phải mình hết làm chúng sinh. Cho nên tôi có nói rằng Bụt cũng có thân
Bụt. Bụt không có thân thì làm sao gọi là Bụt được? Do đó Bụt và chúng
sinh không phải là hai cái đối lập. Cũng như hoa sen và bùn không phải
là hai cái gì đối lập. Vì vậy cho nên cái thấy lưỡng nguyên là cái ngăn
cách không cho mình thấy được nền tảng của đạo đức Phật giáo.
Khi tụng Tâm Kinh, ta có chữ không. Trong ánh sáng của Tâm Kinh, trong ánh sáng của cái không,
thì những cặp đối lập như là sanh - diệt, thêm - bớt, có - không, còn -
mất đều là những cái tương đối hết. “Nghe đây Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác
gì không, không chẳng khác gì sắc”. Thấy rõ ràng là tính tương tức của
vạn vật. Sắc ôm lấy không, không ôm lấy sắc. Ngoài sắc không có không,
ngoài không không có sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy. Ngoài
không không có thọ, ngoài thọ không có không. Thọ ôm lấy không, không
ôm lấy thọ. “Nghe đây Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng
khác gì sắc. Xá Lợi Tử nghe đây, thể mọi pháp đều không, không sinh cũng
không diệt, không nhơ cũng không sạch, không thêm cũng không bớt”.
Không là cái thấy vượt thoát tất cả mọi cặp đối lập. Vì vậy cho nên
trong ánh sáng của cái không, nó vượt thoát chánh tà, vượt thoát khổ
vui, vượt thoát lợi hại, vượt thoát mê ngộ, cái này ôm lấy cái kia, cái
kia ôm lấy cái này. Mà khi thấy được như vậy rồi thì mình mới có khả
năng thiết lập một nền đạo đức. Lĩnh vực này ở ngoài đời gọi là “Siêu
đạo đức học”. Gọi là Meta-ethics. Và siêu đạo đức học sẽ trở thành rất
quan trọng trong thời đại hiện nay. Người ta đã nói về Applied ethics
tức là đạo đức học ứng dụng.
Tiêu chuẩn tuyệt đối
Trên đây (lợi - hại, khổ - lạc, trì -
phạm….) là những tiêu chuẩn căn bản có thể làm nền tảng cho nền đạo đức
Phật giáo. Nằm ở dưới hết có một tiêu chuẩn, tiêu chuẩn ngược với tất
cả các tiêu chuẩn kia gọi là “Nhất nguyên siêu tuyệt” tức là xuất thế
gian. Tất cả những tiêu chuẩn kể trên đều nằm trong phương diện tương
đối. Nhưng khi vượt thoát thế gian, tới với xuất thế gian, chạm tới bản
chất của niết bàn, của pháp thân thì tất cả những tiêu chuẩn đó không
còn áp dụng được nữa. Trong thực tại nhiệm mầu thì không có thiện không
có ác, không có đúng không có sai, không có bên này không có bên kia,
không có trên không có dưới, không có trật tự nào hết. Cái đó chính là
xuất thế gian, là Niết bàn, là pháp thân. Pháp thân không thể nói là
thanh tịnh hay ô nhiễm được. Niết bàn cũng vậy, không thể nói niết bàn
là thanh tịnh hay cấu uế. Không có chánh cũng không có tà. Tất cả những ý
niệm về chánh tà, về chân ngụy… đều thuộc về thế gian. Khi đã lên tới
xuất thế gian rồi thì không còn có những ý niệm về chánh, tà, đúng, sai
nữa. Vì vậy Niết bàn vượt thoát mọi khái niệm đúng -sai, đẹp - xấu, phải
- trái. Cái đó là tiêu chuẩn tuyệt đối.
Bên Cơ Đốc giáo người
ta thường liệt Thượng đế vào phe chánh, phe đúng. Khi nói tới Thượng đế
tức là nói tới tình yêu, nói tới Chân - Thiện - Mỹ. Nếu như vậy thì có
nghĩa là Thượng đế này vẫn có cái đối lập. Quỷ Sa Tăng đối lập với
Thượng đế, và Thượng đế này vẫn còn nằm trong giới hạn của đúng sai, của
chân nguỵ.
Tuy nhiên, có những nhà thần học đã vượt lên được
khỏi giới hạn của thế gian, những nhà thần học ấy đã thấy được Thượng Đế
bằng con mắt xuất thế gian, tức là Thượng Đế ở đây không còn được diễn
tả như sự thuần thiện nữa. Cái thấy của họ vượt thoát quan niệm về khổ
lạc, lợi hại, tốt xấu… Họ đã đạt tới cái thấy tương tức, tức là cái thấy
tương đương với đạo Phật, cái được gọi là niết bàn, là pháp thân, là
chân như.
Khủng bố là vấn đề hiện thực của thế giới bây giờ
Bạo động, chiến tranh, hận thù và khủng
bố là vấn đề hiện thực của thế giới bây giờ, đó chính là khổ đế. Chúng
ta phải thấy được rằng nguyên nhân của bạo động, của chiến tranh xuất
phát từ sợ hãi, hận thù, tham vọng, kỳ thị gây ra. Nhìn cho kỹ thì thấy
gốc rễ sâu xa của chúng là do tà kiến đưa tới, do cái thấy chấp ngã đưa
tới. Chấp ngã tức là giữ chặt quan niệm của mình, cho rằng chỉ có cái
thấy của mình là đúng còn người khác là sai. Hiện thực này do cái nhìn
nhị nguyên đưa tới, tức là thấy mình và người kia không dính dấp gì tới
nhau hết. Trong giới thứ nhất của Mười Bốn Giới Tiếp Hiện có nói: “Ý
thức được những khổ đau do thái độ cuồng tín và thiếu bao dung gây ra,
con xin nguyện thực tập để đừng bị vướng mắc vào bất cứ một chủ nghĩa
nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật
giáo. Những giáo nghĩa Bụt dạy phải được nhận thức như những pháp môn
hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là những
chân lý để thờ phụng và bảo vệ, nhất là bảo vệ bằng những phương tiện
bạo động.”
Điều này rất quan trọng bởi vì khủng bố
xảy ra do người ta cứ khư khư bám vào một cái thấy, một giáo điều, một ý
thức hệ và tin đó là sự thật, còn những cái khác là tà hết. Vì vậy họ
đã giết hại chỉ vì muốn áp đặt cái thấy của họ lên người khác. Sự cố
chấp vào những hiểu biết, kiến thức của mình là một tà kiến, tà kiến này
đưa tới sự kỳ thị, sợ hãi, hận thù, tham vọng mà chính bốn yếu tố này
sẽ đưa tới sự giết hại. Giới bản đưa ra phải bộc lộ được rõ ràng những
phương pháp để đối trị với tình trạng hiện thời của thế giới.