Life, Death and After Death
SỐNG, CHẾT và SAU KHI CHẾT
Lama Thubten Yeshe
Vô Huệ Nguyên chuyển ngữ - Phổ Từ Diệu Hương hiệu đính
Việt Nalanda Foundation ấn tống và phát hành
tại Hoa Kỳ 2009
BÀI GIẢNG THỨ
HAI
Tất cả mọi người đều có tâm. Tâm có ba thể: thô, vi tế và
siêu vi tế. Ðồng thời chúng ta cũng có ba thân: thân thô kệch (thân xác), thân
vi tế và thân siêu vi tế. Tâm thức của thân thô kệch có năm tâm thức thô kệch*. Chúng ta dùng năm thức này hằng ngày.
Tâm vi tế có thể gọi là siêu ngã hay tri thức u mê. Ðây là giác quan vi
tế chúng ta không thể nhìn thấy nó và hiểu nó một cách rõ ràng được. Tâm thô
kệch rất bận rộn nên tâm vi tế bị lu mờ. Khi tâm thô kệch không hoạt động thì
tâm vi tế mới có cơ hội hoạt động và phát triển. Ðó là lý do tại sao phương
pháp của Phật giáo Mật tông Tây Tạng là loại bỏ những ý niệm thô để dành chỗ cho tâm vi tế làm việc. Ðó là
phương pháp của Mật tông. Ðó là cách làm việc của Mật tông.
Mặc dù chúng ta hiểu được sự
kiện này, nhưng tâm thô
kệch của chúng ta chẳng có chút năng lực nào cả; tâm vi tế có năng lực hơn để
hiểu biết thấu đáo và có thể lý luận phân tích. Thiền định loại bỏ tâm thô kệch
để cho tâm vi tế làm việc. Thiền định thực hiện đúng như tiến trình của sự
chết. Dĩ nhiên, kiểu thiền này cũng hướng dẫn đến tiến trình của sự chết, nên
cần phải vững mạnh, cần phải tập trung năng lực.
Phật giáo giải thích bản thể thật của vũ trụ: trống rỗng (emptiness, sunyata, không tính, có người gọi là tánh không.) Một khi chúng ta loại bỏ được tâm mê
tín thô kệch, thì kinh nghiệm về sự trống rỗng sẽ đến, sẽ hiện ra. Một người
không có một chút tư tưởng, một ý niệm nào về không tính, về thực thể hay nếu họ có một chút hiểu
biết về tiến trình của sự chết, thì cái kinh nghiệm này sẽ hướng dẫn họ đi xa
hơn để kinh nghiệm được sự trống rỗng hay không tính. Mặc dù trong cuộc
sống hằng ngày của chúng ta, chúng ta không có một ý niệm gì về không tính, nhưng
một khi cái tâm thô kệch bận rộn biến mất thì chúng ta sẽ kinh nghiệm được sự
trống rỗng vĩ đại ngay lập tức. Do đó, hãy chấm dứt cái thô kệch, hãy chấm dứt
những ý niệm lăng xăng lộn xộn, thì chúng ta sẽ kinh nghiệm được không gian
thực, một cái gì đó trống rỗng. Khi không còn bận bịu, lăng xăng, ồn ào thì sự
rỗng lặng sẽ hiện ra.
Mỗi khi chúng ta diễn tả không tính, “thế này,
thế này, thế này, sự trống rỗng, thế này, thế này, thế này,” nghe sao
phức tạp quá. Có thể giáo lý của Phật giáo quá phức tạp, quá ngụy biện
chăng. Một người bình thường không thể hiểu được, không có thể
nhận ra được không tính. Ngài Long Thọ (Nagarjuna) nói,
“Thế này, thế này, thế này;” Ngài Nguyệt Xứng (Chandrakirti) nói, “Thế này, thế này,
thế này.” Quý vị có hiểu không? Khi mà những sự bận
rộn, những ý niệm u mê lầm lẫn đã được bỏ đi, đã được cắt vứt đi bởi sự thật,
bởi những chứng nghiệm và kinh nghiệm thật thì không tính, sự trống rỗng sẽ đến, như tiến trình của sự chết.
Bình thường, chúng ta rất xa sự thật: sự thật của chính
chúng ta và sự thật của vạn vật. Tại sao? Bởi vì chúng ta bị che bởi những
chiếc mền quá nặng nề --- mọât, hai, ba...lớp mền u mê, lầm lẫn. Tất cả những chiếc mền thô kệch này,
tâm thô kệch, đã được xây dựng, đã được bồi đắp lên, vĩ đại như núi Tu Di, như Hy Mã Lạp Sơn, vì thế chúng ta không dễ gì
xé rách được những chiếc mền dầy cộm này.
Trong Phật giáo, chúng tôi dùng những phương pháp thiền
định để bỏ đi từ từ những lớp mền này. Ðó là sự
làm việc của chúng tôi. Bây giờ, để mang những phương pháp này ra, để thực hiện
những cách làm việc này, chúng ta cần phải hiểu bản tính của tâm chúng ta, tâm
của chính chúng ta không phải của ai khác. Trước nhất, tâm không phải là vật
chất, không phải là sự vật. Tâm giống như một năng lực tư tưởng, một
năng lực ý thức. Tâm không có hình tượng, không có mầu sắc.
Tâm là năng lượng vô hình, vô sắc. Bản
tính của tâm trong và sạch; tâm phản ảnh những hiện tượng ở bên trong,
những hiện tượng nội tại. Ngay cả một tư tưởng rất tiêu cực cũng có bản tính
riêng, trong sáng riêng, để nhận thức
sự thật hay để
phản chiếu những phóng tưởng, những vọng tưởng. Thức, hay tâm thức, giống như
không gian. Thức không là những đám mây ô nhiễm. Bản
tính của không gian thì khác. Quý vị vẫn lắng nghe tôi đấy chứ? Mặc dù
có mây đen bao phủ không gian, nhưng cả hai đều có bản tính riêng, chúng không
là nhau.
Sở dĩ tôi nói như vậy bởi vì chúng sinh đã sẵn có những xu hướng và
đã sẵn có những tiền ý niệm, những định kiến. Chúng ta nghĩ, “Tôi là
một người xấu, tâm của tôi xấu
và đầy tiêu cực.” Chúng ta luôn luôn than, “Tôi thế này, thế này, thế
này, tâm
tôi thế này, thế này..,” “người tôi thế này, thế này, thế này...” Chúng
ta luôn
luôn tự mâu thuẫn. Theo Phật giáo, đây là những quan niệm sai lầm.
Chúng tôi
nghĩ: bản tính tự nhiên của không gian thì không hề bị ô nhiễm; bản
tính tự
nhiên của ô nhiễm thì không phải là không gian. Tương tự như vậy, bản
tính của
tâm thức thì không tiêu cực, không xấu. Chính Ðức Phật đã nói, Phật hay
Như Lai
tính đều có trong tất cả mọi chúng sinh, Phật tính thanh tịnh và trong
sạch. Ðức Di Lặc (Maitreya) cũng
giải thích, nếu anh đem cái trong sạch tự nhiên bỏ vào cục phân thì cái
bản tính trong sạch tự nhiên đó cũng khác với cục phân, bản tính của
cục phân thì khác với bản tính trong sạch tự
nhiên. Quý vị vẫn nghe tôi đấy chứ? Giống như
thế...(Xin lỗi quý vị, ông sư Tây Tạng này không có cái
gì tốt để nói --- ông ấy luôn luôn nói cái xấu!) Nhưng đây là điều quan
trọng.
Một cái tâm trong sạch luôn luôn hiện hữu. Một bản tính tự nhiên hay
tâm bản
nhiên thì luôn luôn hiện hữu. Bản tính của tâm và sự trong sáng của tâm
luôn luôn hiện hữu. Nhưng tất cả những ý niệm, định kiến của chúng ta,
tất cả những chiếc mền nặng nề này đều bị
ô nhiễm, đều bị nhiễm độc, chúng che lấp những giác quan của chúng ta.
Nếu
không bị che lấp thì bản tính của chúng là trong sạch; tâm bản nhiên là
trong sạch.
Trước tiên, điều này rất quan trọng, chúng ta phải nhận
cho ra bản tính tự nhiên của chúng ta --- nguyên tính của tâm thức --- thì hoàn toàn không tiêu cực, hoàn toàn không
xấu. Chúng ta
phải nhận ra tâm bản nhiên, bản tính của chúng ta hoàn toàn trong
sạch, tâm bản nhiên của chúng ta thanh tịnh, hiện hữu, ngay ở đây, bây giờ.
Tâm thức của chúng ta có hai đặc tính: tương đối và tuyệt
đối. Bản tính tương đối của tâm thức thì không tiêu cực, không u mê. Thí dụ,
theo người Thiên Chúa giáo, linh hồn của con người thì trong
sạch, không có mâu thuẫn, không có xung đột, không có tham lam, sân hận và ganh
ghét. Cũng giống như vậy, một cách tương đối, tâm của chúng sinh có thể đi
thẳng từ cấp độ thấp nhất đến giác ngộ. Nhưng một cái tâm mâu thuẫn không thể
đi như vậy được. Tâm bất mãn, tâm bận rộn không bao giờ có thể đi từng cấp độ
từ thứ nhất, thứ nhì, thứ ba đến thứ mười trong Thập địa Bồ tát
được hay tới giác ngộ được. Như vậy bản tính của tâm thức con người, bản tính
của linh hồn con người thì liên tục thăng tiến, thăng tiến, chuyển hóa. Những
chiếc mền u mê lầm lạc không bao giờ thăng tiến. Mỗi lần thanh tẩy là mỗi lần u mê, ô nhiễm biến mất, biến mất, biến mất.
Tôi hy vọng rằng quý vị hiểu được cái đặc tính tương đối
của tâm chúng ta.
Bản
tính tâm tuyệt đối hay linh hồn của
con người thì không
nhị-nguyên (bất nhị). Cái tâm không nhị-nguyên này không
bao giờ bị những cảm xúc lôi kéo hay quấy rầy. Bản tính tự nhiên của tâm luôn luôn trong sạch.
Chúng ta nên hiểu rằng cái tiềm năng nguyên tử lực của
mỗi người chúng ta chính là tâm thức của chúng ta. Tâm thức của chúng
ta không
hề bị trộn lẫn với những cái xấu, những sự kiện tiêu cực. Tâm có đặc
tính riêng của nó: tương đối và tuyệt đối. Tâm thức giống như đại
dương. Những xung đột của cái tôi giống như những làn sóng. Tất cả
những ý niệm
và tất cả những mâu thuẫn, xung đột, giống như những làn sóng nhấp nhô
trong tâm thức. Chúng nhấp nhô, lên xuống --- whoop, whoop! --- rồi lại
trở về tâm thức.
Hình ảnh đó cho chúng ta thấy mỗi tâm thức hay mỗi linh
hồn của riêng mỗi người hoàn toàn trong sạch tự nhiên. Giống như những làn sóng
trên mặt biển, chúng ta có làn sóng tham, làn sóng sân và làn sóng si. Ðồng
thời chúng ta cũng có khả năng làm cho tâm của chúng ta yên tịnh, không lay
động, không xáo trộn, chúng ta có thể giữ tâm của chúng ta như mặt biển không
có sóng. Công việc đó Phật giáo gọi là thiền định.
Tất cả những lầm lẫn, tất cả những bất mãn, tất cả những
đau khổ đều đến từ những sự chuyển động, từ những động lực trong tâm
của chúng
ta. Quý vị sợ ư? Hãy thư giãn, ngồi thoải mái. Hãy nghĩ chúng ta không
là chi cả. Ðó là sự thật. Nếu chúng ta nghĩ chúng ta là một người
nào đó, chúng ta sẽ “khớp.” Phải không?
Tất cả những vấn đề, tất cả những gốc rễ sâu xa của tất
cả những vấn đề của con người đang nằm một chỗ nào đó ở trong tâm. Thật
là có giá trị, nếu chúng ta trực tiếp kiểm điểm soi tìm chúng. Mỗi một
người chúng ta nên thấu hiểu rằng bản tính của
chúng ta hoàn toàn không xấu, khổ, đau, buồn và không có hy
vọng. Chúng ta nên kính trọng bản tính tự nhiên của chúng ta, sự thanh
tịnh
của chúng ta, tâm bản nhiên của chúng ta. Như thế chúng ta mới có
thể bắt đầu kính trọng người khác. Nếu chúng ta chỉ giận hờn, ganh
ghét, ích
kỷ, tiêu cực, chán nản và mất hết hy vọng thì chúng ta cũng chỉ nhìn
thấy người
khác cũng y như vậy. Thật là nguy hiểm!
Khi chúng ta thiền, tri giác của chúng ta hay thức giác
của chúng ta không phải là một người thiền. Ðôi khi người ta nghĩ, vì họ quen
dùng ngũ quan nên những cảm nhận từ giác quan là sự thật. Vì thói quen của
người Tây phương, cái gì họ sờ mó được, thấy được, ngửi được ...vân vân... là
của họ, thành ra họ cho tất cả những đối tượng
cảm giác là sự thật.
Thật ra, thức giác chỉ là giả, chỉ là một sự đánh lừa. Thức giác không đủ thông minh, nó không có khả
năng để phân biệt xấu tốt. Ðó là lý do tại sao khi vừa mở mắt ra là chúng ta đã
bị quyến rũ ngay, là chúng ta chạy theo những ý niệm nhị nguyên ngay lập tức.
Trong thiền định, những sự lừa đảo của thói quen tri giác này sẽ tự động chấm
dứt.
Giả sử chúng ta đang ở trong nhà và đang
nghĩ về trái lê, “Ồ, đây là một trái lê ngon.” Ngay trước khi đi chợ, tâm của chúng
ta đã tưởng tượng về trái lê và quyết định sẽ mua lê hôm nay. Vì thế, khi ra
chợ, thấy trái lê là chúng ta bị quyến rũ ngay. Bởi vì chúng ta đã sẵn có những tiền ý niệm, những định kiến về nó.
Cảm
giác giống như
dân Thụy điển, thức giác giống như chính phủ Thụy Ðiển. Chính phủ luôn
luôn có
những quyết định về dân chúng: thành phần nào tốt, thành phần nào xấu.
Ðó là lý do tại
sao tâm thức luôn luôn có những tiền ý niệm. Vì thế khi cảm giác sờ,
thấy... một sự vật, nếu tâm thức nói “tốt” thì
nó tốt; nếu tâm nói “xấu” thì nó xấu. Ðó là lý do tại sao tôi nói cảm
giác rất khờ dại, cảm giác không có một chút khả năng phân tích
nào. Cảm giác chỉ có thể nhìn được những gì thô
kệch, không có cách nào để cảm giác hiểu được bản tính, không có cách
nào
để cảm giác hiểu được thể tính. Không thể được.
Khoa học đã cố gắng hết sức để tìm hiểu sự thật qua những ống kính siêu
hiển vi
nhưng đành thất vọng. Phật giáo đã biết điều đó, chúng ta không thể nào
hiểu
được không tính,
sunyata bằng lý luận, bằng ý nghĩa.
Buổi trưa nay chúng ta sẽ thiền trên mỗi tâm thức riêng của mỗi người. Chúng ta không nên sợ hãi, chúng ta
thường suy nghĩ, “Làm sao tôi có thể thiền được khi tôi không biết gì về tâm
thức của tôi? Ông sư này daïy tôi nên thiền về tâm thức của tôi, nhưng nếu đây là căn nguyên của mọi vấn
đề của tôi thì làm sao tôi có thể thiền về nó được?” Ðây, thí dụ, chúng ta đang
ở trong cái phòng này. Mặc dầu không trực tiếp nhìn thấy mặt trời nhưng chúng
ta vẫn nhìn thấy những tia sáng. Vì thế chúng ta biết, qua những tia sáng nhận
được, mặt trời chắc chắn có, chắc chắn đang hiện diện. Tương tự như vậy, chúng
ta biết rằng qua những kinh nghiệm của chúng ta thì những tư tưởng và những
động năng đều có ảnh hưởng đến tâm thức của chúng ta. Vậy, vì nhận biết có tư tưởng,
vì biết rõ có tư tưởng, vì tỉnh thức trong tất cả những tư tưởng và có động
năng thúc đẩy nên chúng ta có thể thiền định với tâm thức của chúng ta. Mỗi khi
quan sát tâm của chúng ta, mỗi khi tỉnh thức trong sự nhìn ngắm tâm của chúng
ta, là chúng ta đang thiền về chính tâm của chúng ta.
Một cách khác để thiền về tâm của chúng ta là hãy nhận
biết tâm qua những kinh nghiệm. Mỗi khi chúng
ta nhắm mắt lại, chúng ta biết có một vài tư tưởng đang
đến; hãy chỉ biết tư tưởng đang đến. Ðừng quan trọng hóa về tư tưởng tốt hay
xấu. Quý vị có hiểu không? Bản tính của cả tốt
và xấu đều trong sạch bởi vì tâm phản chiếu tất cả mọi hiện tượng.
Bên Tây phương, danh từ “Thiền” mang lại nhiều ngộ nhận,
hiểu sai. Ðôi khi người ta nghĩ, người ta diễn tả thiền là siết chặt mình lại, tự cột thắt mình lại, có người lại nghĩ thiền
là bành trướng ra, mở rộng ra. Cả hai lối diễn tả này đều sai lầm. Nếu chúng ta
mở rộng ra, chúng ta sẽ trở nên xao
lãng, mất tự chủ;
nếu chúng ta thu hẹp lại, chúng ta sẽ trở nên ích kỷ.
Thiền rất là đơn giản. Hãy nhắm mắt lại. Cái gì đang xẩy
ra? Sự tỉnh thức của chúng ta làm việc
giống như một cái máy nhậy cảm. Giống như một cái ra đa. Nếu có một dấu hiệu
nào, nếu có một chấn động nào, nếu có một rung động nào, chúng ta liền nhận ra
nó. Chúng ta nhận được, hoàn toàn tỉnh thức, hoàn toàn biết được cái gì đang
xẩy ra. Quý vị đang nghe tôi đấy chứ? Ðó là tất cả
những gì tôi gọi là thiền về tâm thức.
Thiền không có nghĩa là “Ồ, có ánh sáng! Ánh sáng đến! Cái này, cái này, cái này....” Chúng ta không có đối thoại gì
cả. Giả sử chúng ta đang thiền, chúng ta đang nhận thức những cái ở chung quanh
đây --- bầu trời, chiếc xe đang chạy qua --- chúng ta đang nhìn thấy tất cả. Nhưng, chúng ta tuyệt nhiên không nói gì
cả, như kiểu: “ Những cái xe này đẹp quá, chở đầy trái cây và bánh kẹo ra chợ.”
Không nên có những kiểu đối thoại này. Mặc dầu đang nhìn ngắm chúng, nhưng
chúng ta cũng cần ở trong tình trạng kiểm soát, tỉnh thức và tránh tình trạng
tâm lơ là, mơ màng, không được kiểm soát.
Cái gì làm chúng ta không có sự kiểm soát? Chính cái đối
thoại --- “Cô ta như thế này, cô ta nói cái đó,
nó bảo như vậy, tôi không thích cái đó, tôi không thích cô đó, tôi
thích, tôi
không thích...” --- Chúng ta tự phản ứng với những cái gì
đang diễn ra. Kiểm soát có nghĩa là không phản ứng. Nếu có ai nói: “Anh
là
thằng xấu,” chúng ta không phản ứng, chúng ta không nói lại: “Nó bảo
tôi là thằng xấu, tôi (cái tôi) không chịu được.” Ðó là phản ứng.
Ðó là một cái tâm không kiểm soát. Ðó cũng là một cái tâm bị quấy
nhiễu. Theo
tôi, có hai hiện tượng trong một cái tâm bị quấy nhiễu: một là đối
tượng tốt
đẹp, hai là đối tượng đáng ghét. Bị quấy rầy có nghĩa là chúng ta không
thoát
ra khỏi ý nghĩ về đối tượng, là cứ bị đối tượng bắt phải suy nghĩ. Quý
vị có hiểu tôi nói gì không? Bị quấy rầy có nghĩa là chúng ta không có
tự
do, không có sự an lành mà cứ luôn luôn nghĩ, “cái này, cái này, cái
này, cái
kia, cái kia, cái kia.” Ðó là bị quấy rầy. Như vậy một cái tâm sân hận,
ghen tương, tham lam, dính mắc là một cái tâm luôn luôn bị phiền nhiễu,
bị quấy
rầy. Ðó là lý do thiền định dạy chúng ta thói quen không phản ứng khi
bị những đối tượng quấy nhiễu xuất hiện.
Cái gì được gọi là ơn ích thật sự và trực tiếp trong sự tỉnh thức hướng về tâm của chúng ta, thay vì cứ
để cho cái hoa này, cô bạn gái kia, anh bồ này quấy rầy chúng ta? Có những
nguồn năng lượng sẽ đến khi chúng ta tỉnh thức trong cái tâm của chúng ta. Tâm
thức tự nó không có cứng ngắc, bền chặt như xi măng, như sự hiện diện của chậu
hoa này, như cô bạn này, như anh bạn kia. Cái đẹp của sự
quan sát hay tỉnh thức trong tâm riêng của chúng ta là sự theo dõi, quan sát này sẽ hướng dẫn chúng ta phá đổ được
những ý niệm cố hữu của chúng ta; sự
theo dõi sẽ trực tiếp
hướng dẫn chúng ta cởi bỏ những lớp mền nặng nề của u mê, của mù quáng để kinh
nghiệm được sự rỗng lặng, không
tính. Ðể giải quyết
những vấn đề, chúng ta cần những kinh nghiệm của chính chúng ta, của chính tâm
chúng ta, như vậy chúng ta mới có thể phá vỡ được những ý niệm. Từ đó, chúng ta
mới có đủ can đảm, đủ khả năng, chúng ta mới có thể nói được: “Ô, tôi có thể
làm bất cứ gì, nếu muốn giải quyết những rắc rối, những trở ngại, tôi có thể
làm được.” Theo Phật giáo, đó là con đường mà tất cả mọi chúng sinh có thể tự
giải thoát cho chính mình.
Chúng ta rất thông minh. Chúng ta thường phán đoán,
thường phê bình, “tốt/xấu, tốt/xấu, đẹp/xấu, đẹp/xấu.” Chúng ta luôn
luôn như
vậy. Nhưng khi thiền, chúng ta chấm dứt nói tốt/xấu, tốt/xấu. Chấm dứt
sự thông
minh như phê phán tốt/xấu. Ðây chính là nhị
nguyên. Khi tâm chúng ta bị phân tán --- tốt/xấu, tốt/xấu, tốt/xấu ---
Hãy chấm dứt! Hãy ngưng lại, chỉ tỉnh thức, chỉ chú tâm. Như mặt trăng,
như mặt trời. Chúng không suy nghĩ, “Tôi đang làm cho người Thụy điển
ấm áp”
hay “Tôi đang cho người Thụy điển ánh sáng. Tội nghiệp họ!” Mặt trăng
và mặt
trời không bao giờ nói như vậy. Hãy như mặt trăng, hãy như mặt trời. Ðó
là điều
quan trọng.
Ðức Di Lặc nói rằng tất cả những sách vở, giáo lý, kinh
thánh...vân vân... giống như những chiếc cầu. Ðể đi qua sông chúng ta
cần những
chiếc cầu. Sau khi đã qua sông, hãy nói “cầu ơi, chào mi.” Sau khi đã
qua sông,
không còn lý do gì để nghĩ, “chiếc cầu này quá tốt,” hay “cuốn kinh này
tốt quá.” Nói như vậy, nghĩ như vậy chỉ tỏ cho chúng ta biết rằng chúng
ta đang bám víu, đang bị dính mắc vào chiếc cầu,
vào kinh sách.
Vậy, nó chỉ có lý khi chúng ta dùng trí phân biệt để biết
giá trị tốt/xấu. Nhưng lúc nào cũng
“tốt/xấu, tốt/xấu, tốt/xấu” thì chẳng còn giá trị chút nào. Vì thế, mặc dầu chúng ta
cần trí phân biệt nhưng có lúc chúng ta nên đi ra ngoài nó.
Làm thế nào tâm tỉnh thức có thể hướng dẫn chúng ta đến
những kinh nghiệm không nhị-nguyên?
Quý vị có thể nói
lại rằng, luôn luôn có hai cái hoa, có mặt trăng và mặt trời, có rất nhiều
người. Vậy thì làm thế nào có thể kinh nghiệm được không nhị-nguyên trong khi
nhị-nguyên vẫn luôn luôn có đó, vẫn luôn luôn hiện diện ở đây?
Nhị-nguyên là giá trị công ước của sự thật, do con người
bằng lòng với nhau, giao ước với nhau. Khi chúng ta có kinh nghiệm về không
nhị-nguyên (bất nhị) không có nghĩa là chúng ta bị bắt buộc
tin có thượng đế; kinh nghiệm này chỉ có nghĩa là chúng ta sẽ hiểu sâu
rộng hơn về sự thật, về tất cả những tập tục và những công ước, khi đã hiểu
được chúng thì chúng không còn lay động tâm chúng ta nữa. Ðó là lý do tại sao
chúng ta không nên tranh cãi khi chúng ta đang cố gắng có kinh nghiệm về không
nhị-nguyên.
Trong lúc thiền, chúng ta không nên thắc mắc, “Tại sao
tôi phải làm cái này? làm cái này thế nào? làm cái này để làm gì? Có hai cái
hoa, sao ông sư này lại nói không được nhị-nguyên?” Cái kiểu thắc mắc này, cái
kiểu tranh luận này chúng ta nên chấm dứt ngay. Chúng ta đang cố gắng đạt được
kinh nghiệm, chúng ta không nên phá hủy bông hoa. Quý vị có hiểu không? Chúng ta đang cố gắng phát triển khả năng tỉnh thức và
tìm hiểu toàn thể sự thật về bông hoa.
Theo quan điểm của Phật giáo, khi chúng ta tập trung vào
tính bất nhị của bông hoa thì ngay tại thời điểm đó
kinh nghiệm về bông hoa sẽ biến, những công ước về bông hoa sẽ biến mất
trong kinh nghiệm, trong chứng nghiệm. Quý vị đang nghe tôi nói phải không? Vậy,
khi chúng ta kinh nghiệm về tính bất
nhị của chính
chúng ta thì ngay tại lúc đó trong tâm của chúng ta không còn ý niệm thất vọng
về chính chúng ta ---Tất cả đều biến mất. Không còn thắc
mắc, “tôi đẹp hay xấu?” Quý vị có hiểu tôi muốn nói gì không?
Những sự liên hệ về một buổi đối thoại liền biến mất. Ngay tại giây
phút kinh nghiệm đó không còn ý niệm về sắc đẹp. Do đó không còn sự lo lắng nào
về nhan sắc tàn phai. Khi sự lo lắng giảm đi thì những vết nhăn cũng giảm đi.
Chúng ta đang thảo luận về một trạng thái của kinh
nghiệm, kinh nghiệm của tâm thức, chúng ta không nên lo lắng băn khoăn,
“tôi sẽ
biến mất, tất cả mọi sự đang biến mất, có thể tôi sẽ chấm dứt con người
hư vô
này.” Chúng ta không nên lo lắng về điều đó. Phải vậy không quý vị? Chỉ
nên phá đổ cho tan tành những ý niệm sai lầm, về một triều đại của
cái tôi. Trong lúc thiền định, hãy chỉ tỉnh thức trên cái tâm thức của
chính
mình. Cũng đừng diễn dịch, cũng đừng nghĩ cái tâm của chính mình là tốt
hay
xấu. Hãy là và hãy ra đi! Quý vị có hiểu không? “Hãy ra đi” không có
nghĩa là chúng ta biến mất; chỉ có nghĩa là chúng ta ra khỏi trạng thái
thiền cũng trong sự tỉnh thức.
Sự tỉnh thức giống như mặt trời, chiếu những tia tỉnh thức --- Thế
thôi! Hãy là! Hãy ra đi! Vậy là đủ rồi!
Mỗi khi chúng ta nhắm mắt lại, hãy thư giãn, thoải mái, tỉnh thức. Thỉnh thoảng có những mầu sắc xuất hiện, hãy để
chúng đến rồi đi. Ðừng suy nghĩ về những mầu trắng xuất hiện, đừng nói chuyện
với chúng. Ðừng thắc mắc về chúng. Chỉ theo dõi, chỉ tỉnh thức. Nói cách khác,
bất cứ cái gì tâm thức của chúng ta đang kinh nghiệm được trong lúc này, hãy
chỉ là, hãy chỉ tỉnh thức, hãy chỉ biết sự liên tục của trí nhớ của chúng ta mà
thôi.
Tôi nghĩ rằng đã hết giờ rồi, phải không? Quý vị coi giờ xem sao?
Bởi vì tôi đang ở đây nên tôi phải giữ đúng giờ, quý vị thông cảm. Ðiều
mà tôi đang cố gắng giải thích là chúng ta chỉ nên đơn
giản cố gắng kinh nghiệm được một vài điều trong cuối tuần này, hãy phá
hủy
chiếc mền u mê của chúng ta đi, như vậy cuối tuần này mới thực có giá
trị. Quý vị có hiểu không?
Ðây là sự cảm nhận của tôi, quyền làm người của tôi nói
với quý vị. Quý vị không cần phải tin bất cứ điều gì
tôi trình bày. Không có gì bắt buộc quý vị cả, không có một trách nhiệm nào,
không có một bổn phận nào bắt quý vị phải tin những vấn đề tôi trình
bày. Hãy chỉ đơn giản tự kinh nghiệm chúng. Ông sư này nói: có được một chút kinh
nghiệm nào hay là không? Chỉ vậy thôi. Không có kinh nghiệm về thiền thì không
giải thoát được; như vậy Phật giáo chẳng giúp gì được.
Ðiều
này rất đơn giản.
Chúng ta không cần phải trở nên một đại thiền giả; chỉ cần thoải mái và tỉnh thức. Ðừng
phê phán những nhận thức của chúng ta tốt hay xấu; chỉ cần tỉnh thức về tất cả
những tri thức của chính chúng ta mà không diễn dịch nó ra dưới bất cứ một hình
thức nào cả. Như thị, hãy là như vậy. Ngay
cả những ý tưởng xấu đến, đừng lo lắng về nó cũng đừng xua đuổi nó. Bản tính
của những tư tưởng xấu cũng vẫn là tri thức trong sạch.
Ðừng nói chuyện với những đối tượng đang xẩy ra. Ðây là điều tệ hại nhất của thiền định. Chúng ta
chỉ nên tỉnh thức với tâm thức của chính chúng ta. Khi một ý tưởng xuất hiện,
đừng vội xua đuổi nó, như nghĩ : “Ồ, không được, cái này xấu.” Ðừng tức giận
như vậy. Chỉ quan sát chúng, chỉ tỉnh thức, chỉ biết chúng đang như vậy. Ðừng
đối thoại, như thế này: “Ô, đẹp quá, tốt
quá, ...quá, ...quá, huyền diệu quá...” Ðừng đối thoại, đừng diễn dịch. Hãy chấm dứt tất cả mọi hình thức này,
chỉ tỉnh thức! Sự tỉnh thức này sẽ dẫn chúng ta đến tình trạng không còn nhị
nguyên, không còn phiền nhiễu.
Tôi nghĩ đã trễ giờ. Khi bắt đầu đi vào con đường thiền
định, trước nhất hãy tìm hiểu cái động năng nào đang thúc đẩy chúng ta.
Nếu
chúng ta cảm thấy chẳng có động năng nào cả, hãy ngồi thở tự nhiên. Sau
đó, chỉ
quan sát, chỉ theo dõi cái ý nghĩ riêng của chúng ta. Tôi nghĩ rằng đã
quá đủ rồi. Tôi không cần phải giải thích thêm nữa. Quý vị sẽ thực
hành, phải không? Cám ơn nhiều lắm và sẽ gặp quý vị lại vào chiều nay.