Life, Death and After Death
SỐNG, CHẾT và SAU KHI CHẾT
Lama Thubten Yeshe
Vô Huệ Nguyên chuyển ngữ - Phổ Từ Diệu Hương hiệu đính
Việt Nalanda Foundation ấn tống và phát hành
tại Hoa Kỳ 2009
BÀI GIẢNG THỨ NHẤT
Tối nay tôi sẽ trình bày vắn tắt quan điểm của Phật giáo
về đời sống thật của con người, về sự chết và trong khi
chết.
Phật giáo dạy rằng con người có một giá trị rất
cao, đáng tôn quí, đặc biệt ở sự thông minh tuyệt vời và
tính trực
giác siêu đẳng. Theo
quan điểm của Phật giáo, tiến trình phát triển của con người thì khác xa với
các loài khác như thú vật, cây cỏ; mỗi người đều có một tiểu sử rất
dài, có một tiến trình phát triển hầu như bất tận, đặc biệt là phần tâm thức
của mỗi cá nhân.
Trong Phật giáo, chúng tôi quan niệm rằng bản tính tự
nhiên của tâm thức (tâm bản nhiên) con người thì hoàn toàn
trong sáng và thanh tịnh. Chúng tôi cũng quan niệm rằng tâm thức của con người
mới chính là nguyên tử năng của con người chứ không phải cái thân xác thịt
xương máu huyết này. Ðồng thời chúng tôi cũng xác nhận rằng con người có đời
sống hạnh phúc hay đau khổ tất cả đều tùy thuộc vào thái độ của tâm thức của
riêng từng cá nhân: nếu anh/chị nghĩ đời anh/chị khổ, anh/chị sẽ khổ. Tất cả những phiền toái, tất
cả những vấn đề, những rắc rối của con người đều do chính tâm của con người tạo ra --- không phải Thượng Ðế, không phải Phật.
Từ quan điểm đó, chúng ta biết con người có khả năng tạo
ra những phiền phức cho đời sống thì chính con người cũng có khả năng giải
quyết những vấn đề khó khăn của đời sống. Thật là sai lầm khi nghĩ rằng, “Những vấn
đề của tôi quá vĩ đại, bao la như bầu trời, rộng lớn như không gian, hầu như
tất cả đều là phiền phức, rắc rối, dù cho có phá hủy cả mặt trời, cả mặt trăng
thì cũng không hủy hết được những vấn đề của tôi!” Thật là sai lầm. Thật là u
mê! Tất cả chúng ta nên nhìn nhận rằng chúng ta phải có trách nhiệm giải quyết
tất cả những vấn đề của chúng ta. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về tất cả
những hành động từ thân, khẩu và ý của chúng ta. Chúng ta không thể đổ, không
thể trút lên đầu người khác.
Hầu như tất cả những vấn đề,
những rắc rối của con người
đều do trí thông minh mà ra, bởi vì chúng ta có quá nhiều liên hệ với sự thông
minh và những ý niệm. Dĩ nhiên, cũng có rất nhiều vấn đề
đến từ trí tuệ, nhưng hầu như cội nguồn của tất cả những vấn đề trong đời sống
của chúng ta như sự giận dữ, sự bạo động đều từ trí thông minh mà ra. Chúng ta
đã không nhìn sự kiện, hiện tượng như
chúng là mà chúng ta đã thông minh hóa sự kiện nên chúng ta đã có những vấn đề.
Khi sinh ra, khi còn là một đứa trẻ nhỏ, chúng ta đã
chẳng có trong ta một vấn đề chính trị nào, phải không
quý vị? Hãy suy nghĩ cho kỹ đi. Trong tâm khảm của một đứa trẻ
chẳng có một tí chính trị nào. Khi còn là một đứa trẻ nhỏ, chúng ta
chẳng có
một chút gì là rắc rối kinh tế, chẳng có một chút gì là khó khăn xã
hội, bởi vì
chúng ta chưa sẵn sàng, bởi vì chúng ta chưa trưởng thành đủ để có
những xung khắc của cái tôi, để thông minh hóa những sự kiện. Khi chúng
ta còn là trẻ thơ chúng ta không có những sự xung đột tôn giáo hay
kỳ thị chủng tộc trong tâm của chúng ta.
Khi chúng ta còn nhỏ chúng ta không có những kiểu thông minh này; bắt đầu lớn là bắt đầu thông minh hóa,
bắt đầu thông minh hóa, thông minh hóa: “Ai đây?” “Tôi là ai?” “Làm sao tôi
nhận ra tôi?” “Cái gì là khuôn mẫu của đời sống?” Cái tôi của chúng ta muốn có
một phương pháp, một đường lối để khám phá, để nhận biết mình; phải có một cái
gì để bám vào, để chiếm hữu. Chúng ta không còn tự nhiên. Chúng ta đã không còn
hồn nhiên. Ðó là lý do tại sao nói chúng ta hoàn toàn tạo ra mọi thứ, hoàn toàn do chúng ta làm ra, nên chúng ta có nhiều lầm
lẫn, nên chúng ta không bao giờ hài lòng, không bao giờ thỏa mãn, không bao giờ
thoải mái.
Chúng ta có thể nhìn thấy một cách rất rõ hầu như tất cả
những vấn đề trong thế giới tân tiến văn minh ngày nay đều bắt nguồn từ những
sự tương quan mâu thuẫn, từ những sự liên hệ đối nghịch nhau mà ra. Ðàn ông có
vấn đề với đàn bà, đàn bà có vấn đề với đàn ông. Người có vấn đề với người. Tất
cả những vấn đề này đều đến từ sự thông minh hóa
của chúng ta,
chúng ta chơi những trò chơi thông minh với nhau, những vấn đề này không phải
từ trí tuệ, không phải từ trực giác, không phải từ tiên thiên tri thức. Chúng
ta đã sáng tạo, chúng ta đã xây dựng lên những sự kiện bằng những quan niệm
thông minh của chúng ta, “Ðây là đối tượng tuyệt hảo cho tôi, tôi phải có, tôi
phải chiếm lấy, nếu không có nó, nếu không chiếm được nó, thà là tôi chết còn
hơn! Những cái kia không phải, chỉ có cái này mới thực là của tôi!”
Vấn đề là chúng ta đã sử dụng trí thông minh một cách
không tự nhiên, quá ư là u mê, chúng ta không thật chút nào. Chúng ta
chưa hề chạm được
sự thật. Bởi vì chúng ta mù quáng, khi diễn tả một trái táo, chúng ta
nói, “Ôi chao, quả táo này tốt quá, thật là tuyệt, màu sắc tươi rói,
thơm phức,
tôi thích nó quá.” Chúng ta đã diễn tả sự vật theo chiều hướng xúc cảm
của
chúng ta, theo chiều hướng bệnh hoạn của một cái tâm tràn đầy ảo tưởng
của
chúng ta. Chúng ta đã gán cái vọng tưởng tốt đẹp ngon lành trên quả táo
để rồi chính cái vọng tưởng đó làm chúng ta thất vọng, để rồi quả táo
làm chúng ta bất mãn khi chúng ta biết được sự thật, nó
chua quá, nó chát quá. Lý do mà chúng ta bất mãn với đối tượng
‘quả táo’ này là chúng ta đã có sự liên hệ
với cái tâm vọng tưởng của chúng ta về quả táo, chúng ta đã tưởng nó
tốt, chúng
ta đã không thật, chúng ta đã không biết sự thật là quả táo đang như
thế nào.
Theo Phật giáo, tất cả chúng ta đều có khả năng phân
tích, đều có khả năng khám nghiệm cái tâm của chúng ta xem, tâm đang suy nghĩ theo chiều hướng nào, tích cực hay tiêu
cực, vọng tưởng hay chân thật. Chúng ta có khả năng làm điều này. Như chúng ta
đã biết, danh từ “Buddha,
Phật” có nghĩa là
“Một người đã hoàn toàn phát triển,
đã hoàn toàn trưởng thành, giác ngộ!”ø Mỗi một người chúng ta đều có cơ hội,
đều có khả năng phát triển được như vậy, mỗi một người chúng ta đều có khả năng
tẩy xóa đi tất cả những ô nhiễm, những mê mờ vọng tưởng của chúng ta để trở nên
một người hoàn toàn trưởng thành, hoàn
toàn có trí tuệ.
Trong một xã hội tràn đầy sự cạnh tranh, giành giựt; chúng ta luôn luôn muốn chiếm hữu những tiện ích của xã hội mà chúng ta
đang sống, của đất nước mà chúng ta đang ở và của những người chung quanh chúng
ta. Tất cả những vấn đề này đều bắt nguồn từ sự thông minh của chúng ta, chúng
ta tự tạo ra, chúng ta chụp giựt, chúng ta luôn luôn nói, “Tôi muốn,” “Tôi muốn.” Ðó là đau khổ, đau khổ từ đó mà ra.
Quý vị có hiểu không? Có rất nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta đã bị trầm
uất, chúng ta đã bị khổ đau, chúng ta đã bị dằn vặt mà không có một lối thoát.
Nếu chúng ta đã ôm ấp những vọng tưởng quá cao để tự an ủi, để xây dựng mộng mơ
của chúng ta thì khi chúng ta không đạt được những điều mong muốn đó, chúng ta
sẽ bị chết khát trong biển cả mênh mông của chính thế giới huyễn ảo mà chính
chúng ta đã tạo ra. Chúng ta không thể đương đầu nổi, chúng ta không còn sức để
chống chọi với nó nữa, vì nó đã trở nên quá khó khăn, quá to lớn.
Vì thế, tôi đề nghị trước khi sự lầm lạc to lớn xẩy ra,
chúng ta nên từ từ, từ từ giải trừ, từ từ loại bớt những nhầm lẫn nhỏ hàng ngày và bằng phương cách đó chúng ta sẽ cảm
thấy dễ chịu hơn, dễ sống
hơn, hoàn cảnh của chúng ta sẽ ngày càng tốt hơn. Chúng ta nên tự hỏi thông minh như
vậy tốt hay là xấu? Lanh lợi kiểu đó có lợi hay là hại? Theo quan điểm của Phật
giáo, thay vì dùng trí thông minh để sống, chúng ta nên dùng trí tuệ, nên phân
tích, nên tìm hiểu xem sự kiện thật sự có giá trị hay không.
Sở dĩ tôi nói rằng tất cả những rắc rối, những vấn đề của
chúng ta, của xã hội, của thế giới và của riêng từng cá nhân đều đến từ sự
thông minh hoá, bởi vì sự thông minh này được xây dựng trên một cái tôi, trên
một bản ngã không được tự nhiên, bởi vì khi sinh ra, khi còn là một trẻ thơ,
chúng ta không có những vấn đề này và khi chết chúng ta cũng không có những vấn
đề này.
Trong Phật giáo, có thiền định, thiền định là gì, thiền
là nhìn thấu suốt những gì đang xẩy ra, đang diễn ra một cách tự nhiên hay
không tự nhiên, trong sáng hay u mê --- đây chính là những xung đột của cái
tôi. Thiền định cho chúng ta “đến gần.”
Càng thiền định, càng đến gần sự thật, càng nhìn ra được phía bên kia
của những cảm xúc là gì, càng nhìn ra được những sự xung đột của chính
cái tôi như thế nào, và sẽ biết được cái
gì thật sự đang hoạt động trong tâm của chúng
ta như nhìn một đối tượng ở ngoài
đời, ngay trước mặt.
Qua Phật giáo, chúng tôi tin tưởng rằng tất cả chúng sinh
đều có những vấn đề, rắc rối khổ đau xẩy ra mỗi ngày, thường ngày.
Chúng ta
có những xung đột ở nội tâm của chúng ta về chính cái tôi của chúng ta,
chúng
ta có những vấn đề về những xúc cảm của chúng ta, chúng ta đã bị ám
ảnh. Chúng
ta biết chúng ta có đủ thứ vấn đề,
đủ thứ rắc rối, nhưng chúng ta
cũng biết rằng chúng ta có khả năng đến gần chúng, nhìn được chúng và
thấu suốt
được tận gốc rễ phía bên kia của vấn đề là gì. Thực sự chúng ta có khả
năng
này. Chúng ta không nên nghĩ, “Tôi quá lầm lẫn, bản tính của tôi hoàn
toàn
sai lầm. Tôi không thể bỏ chúng được, không có cách nào để thay đổi
chúng, để chuyển hóa chúng.” Ðó là một thái độ quá sai lầm, chúng ta đã
hạ thấp giá trị con người, chúng ta đã từ chối khả
năng của chúng ta.
Phật giáo là nhân bản, là một loại khoa học tôn giáo, Phật giáo đặc
biệt chú trọng đến những vấn đề của con người và tìm
cách giải quyết những vấn đề này --- triết
lý Phật giáo không quá chú
trọng đến Phật hay Thượng đế. Ðó là lý do tại sao chúng ta tin tưởng
vào giá trị của con người, mục đích để thẩm định, để tìm ra sự thật của
tâm thức
chúng ta, thay vì bỏ quên tâm mà chỉ để ý đến thân xác. Hãy luôn
nghĩ rằng thân xác chỉ mang lại bệnh tật và không có giá trị, thân xác
không mang lại sự thỏa mãn. Sự thỏa
mãn thật nằm ở trong tâm thức, sự thỏa mãn chỉ có từ
tâm thức, chẳng phải từ cái thân xác xương thịt này. Tâm thức của con
người thì
khác xa với cái thân xác hay khối óc này.
Vậy, điều mà tôi muốn đặc biệt chú trọng đến đời sống
thực sự của con người là tất cả chúng ta đều có khả năng giải quyết tất cả
những vấn đề của chúng ta, những vấn đề của nhân loại. Chúng ta nên hiểu rõ
điều này, “Rắc rối là của tôi, vấn đề là của tôi, tôi sẽ giải quyết nó, tôi
phải giải quyết nó.” Bằng cách đó, chúng ta tạo được sự tự tin mãnh liệt, sự tự
tin ở trong tâm của chúng ta. Chúng ta phải hiểu rằng trí tuệ của chúng ta có
khả năng giải quyết tất cả những rắc rối của con người. Tất cả mọi người đều có
trí tuệ. Ðừng bao giờ nghĩ rằng bản tính tự nhiên của con người hoàn toàn ngu
si, vô minh, chúng ta có trí tuệ, chúng ta có tình
yêu, chúng ta có lòng từ bi. Ðừng nghĩ rằng, “Tôi là người nóng nảy, tôi là
người đầy sân hận, tôi không có trí tuệ, tôi không có tình yêu, tôi không có
lòng từ bi.” Ðây là một thái độ vô cùng tiêu cực về bản tính của chúng ta. Khi có tự tin, khi tin tưởng vào chính
mình, khi có kinh nghiệm về trí tuệ của chính mình, về lòng từ bi của chính
mình, chúng ta sẽ trở nên tự nhiên hơn, thoải mái hơn, chỉ lúc đó chúng ta mới
có thể phát triển trí tuệ một cách hoàn
toàn tự nhiên, trí
tuệ chỉ có thể phát triển trong tình trạng cởi mở thoải mái tự nhiên.
Sự thông minh hóa và cái tôi (ngã chấp) làm hủy hoại trí
tuệ. Trí tuệ là trí tự sinh, tự có, trí
tuệ không hề bị
ảnh hưởng bởi triết lý, bởi giáo lý, bởi thầy dạy hay bởi môi trường sống...Trí tuệ
--- tiên thiên tri
thức --- hằng ở đó, thay vì bị nhốt kín ở bên
trong thì trí tuệ được bảo vệ để tìm đường phát triển.
Chúng ta biết rằng con người luôn tự tạo ra những vấn đề
cho chính mình. Như vậy, chúng ta không nên đổ lỗi cho xã hội, cho bạn bè hay cho cha
mẹ của chúng ta, chúng ta không nên trút lên đầu bất cứ người nào khác. Vấn đề
của chúng ta là do chính chúng ta tạo ra. Chúng ta là người tạo ra vấn đề thì
cũng chính chúng ta là người phải giải quyết vấn đề.
Ngay tại thời điểm của sự chết, ngay trong tiến trình
chết, một cách rất tự nhiên tất cả những ý niệm như: chính trị, kinh
tế, xã hội, kỳ thị,
tư bản, cộng sản...đều biến mất vào không gian, chúng biến đi một cách
tự
nhiên. Hãy suy nghĩ những vấn đề này: tất cả những thái độ ích kỷ, tất
cả những
suy tính để chiếm phần lợi ích từ người khác như, “Tôi thật là thông
minh, tôi
chiếm tất cả những nguồn tài nguyên của người Phi châu, tụi nó ngu quá,
chúng chẳng biết gì cả, nên tôi phải chiếm lấy.” Tất cả những thái độ
ích
kỷ, tất cả những tính toán mưu cầu lợi ích đều tan biến vào không gian
khi chúng
ta chết.
Tất cả những vấn đề này không chỉ biến mất khi chúng ta
chết mà ngay cả khi chúng ta ngủ. Khi chúng ta đi vào giấc ngủ, tất cả những ý
niệm này cũng tan biến đi y như khi chúng ta chết. Ngay cả những xung đột của
ngã chấp như tôi đã trình bày ở trên cũng biến mất. Tốt hơn hãy đi ngủ, ngủ
còn hơn là thức để suy tính, để thông minh hoá, để cảm xúc, để nóng giận ganh
ghét... vì khi ngủ chúng ta đi vào một trạng thái tự nhiên, một trạng thái căn
bản của tâm thức không có sự thông minh.
Theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi thiền vào buổi sáng vì buổi sáng khi vừa thức dậy tất cả
những ý niệm ô nhiễm đã biến mất nên chúng ta có được một chút yên tĩnh trong
sạch. Trong lúc ngủ, tất cả những năng lực đã được tích tụ sẽ biến mất trong
một thời gian; rồi khi chúng ta thức dậy, chúng cũng từ từ trở lại. Nếu thiền
vào buổi sáng, chúng ta sẽ ở trong tình trạng trung dung hơn là ở vào một đầu
của cực điểm. Sự tập trung của chúng ta ở buổi sáng sẽ dễ hơn là ở những thời
điểm khác. Nếu chúng ta không phải là một thiền sinh hay nếu chúng ta cũng
không phải là một thiền giả mà chỉ là một người đang suy nghĩ về
một vấn đề gì thì buổi sáng cũng là lúc trong sáng nhất để chúng ta làm việc.
Ðó là sự đề nghị của tôi. Trong Phật giáo, không phải chỉ có một phương pháp
thiền là tập trung vào một đối tượng mà chúng tôi còn có những phương pháp khác
như quán sát, phân tích để tìm ra sự thật.
Một điều vô cùng quan trọng là chúng ta phải biết tâm của
chúng ta làm việc như thế nào trong thường ngày, trong lúc ngủ cũng như trong
lúc chết. Một điều cũng vô cùng quan trọng là chúng ta nên tự giáo huấn chúng
ta về vấn đề này. Như vậy chúng ta sẽ không còn sợ hãi. Nhiều người nghĩ rằng
chết là một sự khiếp đảm kinh hồn, là sẽ đi vào một cái lỗ đen vĩ đại, khi tới
đó, chúng ta sẽ bị lỗ đen cuốn hút, bị nó ăn thịt. Sự thật là
chúng ta đã chết ngay từ lúc chúng ta sinh ra, sự chết đã có khi vừa sinh ra.
Chúng ta nghĩ chết là một sự kiện vĩ đại! Vĩ đại hơn mất việc làm, vĩ
đại hơn mất người yêu, vĩ đại hơn mất vợ mất chồng. Ðây là một thái độ sai lầm.
Chúng ta cũng thường nghĩ chết là xấu --- đây chỉ là một phóng tưởng của tâm. Thật ra chết còn tốt hơn cái hoa này, bởi
vì cái hoa này không cho chúng ta đại lạc
nhưng sự chết có thể
cho chúng ta sự bình an vĩnh cửu. Kinh nghiệm về sự chết còn tốt hơn có vợ, có
chồng hay có người yêu bởi vì những người này chỉ cho chúng ta một chút hạnh
phúc. Họ không giải quyết được những vấn đề căn bản của chúng ta; họ chỉ có thể
tạm giải quyết được một vài rắc rối về cảm xúc của chúng ta. Nhưng ngay tại lúc
chết, tất cả những sự tức bực đều chấm dứt, tất cả những cảm giác đều chấm dứt.
Tiến trình của một cái chết tự nhiên xẩy ra rất lâu và rất chậm.
Khi chúng ta chết một cách tự nhiên, tứ đại (đất, nước, lửa và khí) từ từ suy đồi, từ từ thoái hóa --- chúng ta gọi chúng đang bị “thẩm thấu, bị hút vào” --- chúng suy đồi từ từ, giảm hoạt động từ
từ; từ từ, chúng tạo nên, chúng để lại
những ảo giác cả bên trong lẫn bên ngoài thân xác của chúng ta . Ðồng thời ngũ
uẩn --- sắc, thọ, tưởng, hành, thức --- cũng bắt đầu chìm dần, mất dần.
Thông thường, chúng ta nghĩ rằng thị giác của chúng ta
thật là tuyệt diệu, thị giác cho chúng ta những khoái lạc. Chúng ta
cũng nhận thấy những kinh nghiệm xúc giác thật là quan trọng nên chúng ta ham
muốn càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, trong Phật giáo, chúng tôi quan niệm không
nên bám víu, không nên để bị ràng buộc vào những đối tượng gây cảm giác. Ðó là
sự từ bỏ, sự buông xả. Buông xả là một hiện tượng rất tự nhiên. Tại sao? Rất dễ
hiểu, khi sinh ra, khi còn là một trẻ thơ, chúng ta không có một vấn đề gì,
không có một rắc rối nào về sự ràng buộc; tất cả những sự ràng buộc, níu kéo,
bám chấp, dính mắc đều được bồi đắp lên trong
đời sống xã hội. Khi còn nhỏ dại chúng ta không có những ham muốn này.
Khi còn trong bụng mẹ, chúng ta đã từ bỏ tất cả mọi thứ,
đã buông xả tất cả mọi thứ. Chúng ta chẳng có gì, chúng ta chẳng tích trữ cái
gì, chúng ta chẳng chụp giựt cái gì, chúng ta chẳng tranh giành cái
gì với ai. Khi còn trong bụng mẹ, chúng ta chẳng có một đối tượng nào để bị lôi
cuốn, hấp dẫn chúng ta, cũng chẳng có một đối tượng nào để chúng ta phải bám
víu vào, phải khổ sở vì nó. Tại thời điểm đó, chúng ta đã từ bỏ, từ bỏ một cách
tự nhiên, buông xả một cách tự nhiên!
Bây giờ, chúng ta có một chiếc xe... vậy mà cũng chưa đủ.
Chúng ta mua thêm xe thứ hai... cũng không đủ, chưa thỏa mãn. Chúng ta
muốn
nữa, muốn có một cái tàu. Có tàu rồi, chúng ta muốn một cái lớn hơn
nữa...vân
vân... Quý vị có hiểu không? Và cứ như thế mà muốn cho đến kỳ cùng bất
tận, không bao giờ đủ. Ðó là sự không thỏa mãn, đó là sự bất
mãn. Chúng ta nên hiểu rằng chúng ta được sinh ra trong sự buông xả,
một sự
buông xả rất tự nhiên. Chúng ta không cần phải tranh giành, bám víu,
chiếm hữu,
chúng ta không cần phải quá lo lắng. Chúng ta vào đời để được an
vui, chúng ta đi vào cuộc đời để hưởng an lạc. Nhưng chúng ta đã tạo ra
quá nhiều lo âu, quá nhiều rắc rối, quá nhiều phiền não,
rồi khi chết đi, một lần nữa chúng ta lại trở về với sự buông bỏ, chúng
ta lại
chẳng có gì, lại trở về với sự buông bỏ tự nhiên.
Vậy, hãy trở về với thiên nhiên, với sự tự nhiên của
chúng ta. Ðừng nghĩ rằng triết lý buông xả, triết lý từ bỏ của Ðông phương là
xấu, là bị ô nhiễm, hoặc chỉ là một ý tưởng. Sự thỏa mãn không tùy thuộc vào
vật chất. Sự thỏa mãn đến từ sự đơn giản, đơn sơ. Tôi không có ý nói quý vị xấu bởi vì quý vị đang ở trong một xã hội giầu có.
Tôi không ganh tị đời sống của quý vị để nói quý vị xấu. Tất cả chúng ta đều cần một đời sống đơn giản để có sự an lành, để
có sự hoàn mãn ở bên trong này (Lạt ma chỉ vào trái tim của ngài)
Tôi
không ganh tị sự thịnh vượng của quý vị hay những lợi lộc mà quý vị
đang có. Câu hỏi của chúng ta là, tại sao chúng ta đã không thỏa mãn?
Tại sao chúng ta thường xuyên bất mãn? Chúng ta đã luôn luôn đổ lỗi cho
những cái ở bên ngoài, chúng ta đã luôn luôn tìm những cái ở bên
ngoài để “cái này không đủ, cái kia không đủ.” Ðiều này không đúng! Cái
“không
đủ” đang ở bên trong này chứ không phải ở ngoài kia. Ðó là điều chúng
ta cần
phải kiểm điểm, cần phải kiểm thảo!
Khi tôi nói ‘buông bỏ’ có nghĩa là để đời sống tiếp diễn
một cách dễ dàng, thoải mái, tự nhiên. Buông bỏ không có nghĩa là chúng ta phải
vất bỏ đi tất cả mọi thứ. Buông bỏ có nghĩa là chúng ta không quá bận tâm về sự
vật, không quá bám víu vào vật chất. Hãy nới lỏng sự gắn bó, hãy thư giãn,
thoải mái, thay vì bám chặt, đeo dính.
Theo ý kiến của riêng tôi, thí dụ, người Thụy Ðiển có một đời sống
rất hạnh phúc sung sướng --- quý vị không cần phải vất hết tiền bạc đi
mới gọi là buông xả. Quý vị cứ làm tiền, cứ vui hưởng nó nhưng trong
một chiều hướng hợp lý, cảm
nhận và cám ơn cuộc đời của quý vị, đồng thời đừng quên những người
đang sống nghèo khổ ở thế giới Thứ Ba. Nếu không, chỉ lo tích trữ tiền
bạc rồi
ngồi nhìn tiền thì cuộc đời chẳng vui chút nào. Quý
vị nên biết giá trị của những đồng tiền Thụy Ðiển, chúng ta nên biết
giá trị của
những tiện ích này, chúng ta nên biết giá trị của đời sống sung túc ở
đây, hãy
hưởng tất cả những lợi lộc này và thỏa mãn những gì hiện có. Nếu không
như vậy
thì dù quý vị có sở hữu tất cả tiền bạc của xứ sở này chúng cũng chẳng
làm cho quý vị hạnh phúc vui tươi.
Theo tâm lý học Phật giáo, dù những đối tượng vật chất có
làm chúng ta thỏa mãn hay không cũng tùy thuộc vào sự quyết định của tâm thức
chúng ta. Tâm thức chúng ta nói như thế này, “cái này làm tôi vui sướng, cái
này tốt...” mặc dù chúng ta chưa nhìn thấy vật đó, rồi khi nhìn thấy nó tận
mắt, chúng ta mới nghĩ, “ồ, cái này tốt.” Tâm thức của chúng ta nói như thế
này, “ông bạn này xấu.” Rồi khi gặp họ, chúng ta chỉ nhìn thấy những cái xấu
của họ.
Lý do tại sao Phật giáo Tây Tạng dậy con người hiểu tiến trình của
sự chết --- giải thích cái gì sẽ xẩy ra, làm thế nào để đối diện với
những gì sẽ xuất
hiện, làm thế nào để đương đầu với những ảo giác xung đột lẫn nhau ---
là để chúng ta có thể đương đầu với chúng thay vì sợ hãi và bối rối.
Trong
lúc đó, chúng ta dễ dàng nhận diện được cái gì huyễn ảo là huyễn ảo,
vọng tưởng
là vọng tưởng, mê lầm là mê lầm.
Sau sự tàn lụi của tứ đại, khi chúng đã biến mất, chúng
ta vẫn còn thể tâm thức (thân vi tế). Ngay cả khi không còn thở, thể tâm
thức vẫn còn đó. Các bác sĩ Tây phương tin tưởng rằng khi chúng ta chấm dứt thở
là chúng ta đã chết, rồi họ bỏ chúng ta ngay vào thùng ướp lạnh! Theo quan niệm
của Phật giáo, mặc dù một người không còn thở, họ cũng vẫn còn sống và đang
kinh nghiệm, đang trải qua bốn hình ảnh (visions): hình ảnh có mầu trắng, mầu đỏ, mầu đen và ánh sáng
trong suốt*. Bốn hình ảnh này xuất hiện sau khi
chúng ta đã hoàn toàn ngưng thở, chúng cho phép một thiền giả có thể ở trong
trạng thái trong sáng, như-như này nhiều ngày, nhiều ngày, có khi cả
tháng. Họ ở trong trạng thái trong sáng này, trạng thái đại lạc, tiếp xúc với
sự thật của vũ trụ thay vì bị ô nhiễm.
Dĩ nhiên là người Tây phương sẽ nghĩ, “Ồ, đây chỉ là đức
tin của Phật tử, ông sư này đang nói về cái gì ông ta tin, chẳng có gì liên hệ
đến chúng ta, đến những người Thụy Ðiển.” Nhưng đây là kinh nghiệm của con
người, mặc dầu có sự kiện, có hiện tượng chưa phải là kinh nghiệm của chúng ta.
Tôi đã được nghe kể về một người Pháp, ông ta đã chết và
sống lại. Ông ta không phải là người có đạo, nhưng
theo bác sĩ, ông ta đã chết hai tiếng đồng hồ rồi ông ta tỉnh dậy. Ông
ta viết ra những gì ông ta đã trải qua trong khi ông ta chết. Ðây là
một
thí dụ điển hình, ông ta không tin bất cứ một tôn giáo nào, ông ta
không hề
biết Phật giáo, nhưng họ xác nhận ông ta đã chết, ông ta sống lại và
ông ta đã
viết ra những gì ông ta đã trải qua trong lúc chết.
Dù chúng ta có tin sự giải thích của Phật giáo hay là
không tin, chúng ta vẫn có thể hiểu một cách dễ dàng khi nhìn vào tiến
trình đi
vào giấc ngủ. Tôi nghĩ rằng bây giờ với kỹ thuật khoa học tân tiến,
chúng ta đã có những máy móc có thể đo, có thể quan sát được tiến trình
cảm giác trong khi chết hay trong giấc ngủ. Không cần phải có những sự
giải
thích của Phật giáo, tôi tin rằng con người có thể phân tích những tiến
trình
này bằng máy móc tinh vi. Chúng ta có thể so sánh tiến trình của
giấc ngủ với tiến trình của sự chết.
Tôi nghĩ rằng đã hết giờ và tôi chắc chắn rằng tôi đã gây
ra nhiều nghi ngờ cho quý vị, tốt hơn, chúng ta hãy đi vào phần hỏi và trả lời.
Thính giả: Con người chỉ có khả năng biết khi có sự so sánh
giữa các sự vật --- Làm thế nào chúng ta có thể biết được nhiệt độ nếu
chúng ta
không có sự thay đổi, sự biến thiên của nhiệt độ? Nghĩa là cần phải có
cái xấu
để có thể đánh giá được cái tốt, có lẽ sự bất toàn là một phần của cái
vẹn toàn trong sự sáng tạo để tạo nên sự chuyển động. Làm thế nào ngài
có thể
loại bỏ cái xấu để giữ lại cái hoàn toàn tốt?
Lạt ma: Chúng ta không nên quan tâm nếu không có cái xấu
thì làm sao có cái tốt. Ðó chỉ là một lối suy nghĩ đáng thương. Dĩ nhiên, tôi
đồng ý với anh hạnh phúc hay đau khổ là những điều kiện tùy thuộc vào nhau. Anh
có thể nhận thấy rằng có những sự kiện anh có thể
làm giảm bớt đau khổ mà tăng thêm hạnh phúc.
Thính giả: Xin ngài trình bày thêm một chút, có thể có sự
xung đột cho một người đang theo Thiên
Chúa giáo muốn đổi
qua Phật giáo?
Lạt ma: Chẳng có trở ngại nào cả! Phật giáo hay Thiên Chúa
giáo cũng chỉ là sự thông minh hóa của con người mà thôi. Tại sao? Có
một chút triết lý khác biệt giữa
Phật giáo và Thiên Chúa giáo, nhưng sự khác biệt triết lý này
cũng giống như sự khác biệt quần áo --- người Thụy Ðiển mặc như quý vị
đang mặc, người Tây Tạng mặc như tôi đang mặc, nhưng tôi tin
chắc rằng quý vị sẽ thích bơ làm từ con trâu Tây Tạng cũng như tôi
thích bơ của Thụy Ðiển và sô cô la của quý vị!
Tôi có rất nhiều học trò ở Hoa kỳ, nhiều bà cụ là tín đồ Thiên Chúa giáo, nhưng tôi dạy họ Phật giáo: làm thế nào để thiền,
đời sống là gì --- Chúng ta đối diện với cuộc đời mỗi ngày và Phật giáo là tất
cả những thứ đó. Phật không chống lại Thượng đế, Thiên Chúa không chống lại
Phật. Những cụ bà ở tiểu bang Indiana, Hoa Kỳ, đã 80 tuổi, nhiều lắm, họ bảo
tôi, “Phật giáo giúp tôi rất nhiều trong việc tìm hiểu Kinh thánh, trước kia
tôi chẳng hiểu Kinh thánh, Phật giáo đã giúp chúng tôi hiểu Kinh thánh hơn, hơn
rất nhiều.”
Chúng ta luôn luôn tạo ra vấn đề, thí dụ, Phật giáo nói
rằng tất cả những vấn đề của chúng ta đều do tâm của chúng ta tạo ra,
Thiên
Chúa giáo nói rằng Thượng đế tạo ra tất cả mọi thứ. Theo tôi vấn đề này
chẳng
có gì đối chọi nhau. Giáo lý của Thiên Chúa giáo nói Thiên Chúa sáng
tạo ra tất
cả mọi sự trên thế gian này, đó là một điều tốt cho tâm của những người
Tây
phương bởi vì cái tôi của người Tây phương nghĩ, “Tôi làm tất cả mọi
thứ.” Cá
tính của người Tây phương quá mạnh. Tất cả những người Tây phương đều
nghĩ họ
là nguyên lý sáng tạo, vì thế khi họ nói “Thượng đế là đấng sáng tạo
--- không phải anh,” sẽ giúp họ hạ thấp xuống, họ sẽ khiêm nhường hơn.
Phật
giáo cũng tốt; Phật giáo quan niệm rằng tâm của chúng ta tạo ra tất cả
mọi vấn đề --- anh không thể đổ lỗi cho Phật! Tôi
hoàn toàn đồng ý với quan niệm này. Dĩ nhiên, tôi không được dạy bảo
nhiều về Kinh thánh nhưng tôi vẫn học Kinh thánh và học một chút Phật
giáo. Theo quan điểm của tôi, căn bản của Thiên Chúa giáo và căn bản
của Phật
giáo không có gì chống đối nhau, luôn
luôn đi cùng với
nhau.
Hãy lấy một thí dụ khác, những người Tây phương đã trở
nên một Phật tử nói rằng, “Phật giáo có thiền định, tôi thích như vậy. Thiên
Chúa giáo không có thiền định.” Ðây là một quan niệm sai lầm. Quý vị có hiểu
tôi nói gì không? Có rất nhiều Phật tử Tây phương nghĩ, “A, tôi tìm được Phật
giáo, Phật giáo tốt quá, tôi có thể thiền mỗi ngày. Tôi có thể thiền về sự
chết, tôi không cần đi nhà thờ, Thiên Chúa giáo không có thiền.” Họ hãnh
diện với cái tôi của họ vì họ tìm thấy được Phật giáo! Ðó là sai lầm. Họ đã
không hiểu Thiên Chúa giáo, Thiên Chúa giáo thực sự có thiền; tội nghiệp họ, họ
đã không hiểu tôn giáo riêng của đất nước họ.
Thính giả: Tại sao một đứa trẻ khóc khi nó đói, nếu nó hoàn toàn
buông xả?
Lạt ma: Thật là tốt, tranh luận rất tốt. Ðứa trẻ khóc vì
nó đói, nó không khóc vì nó không có bồ hay nó bị mất vợ! Ðược chưa? và đứa bé không đòi hỏi phải có sô cô
la, “A...” giống như vậy. Chúng ta khóc vì sô cô la. Anh có nghĩ rằng đứa bé có
vấn đề chính trị không? Hay nó không có đủ tiền lương? Phải chăng một đứa bé
khóc vì mất việc hay không kiếm được việc làm? Tất cả là như vậy, có rõ ràng
không quý vị?
Thính giả: Có nhiều người có những kinh nghiệm giống nhau về sự
chết khi họ dùng thuốc. Ngài nghĩ thế nào?
Lạt ma: Tôi nghĩ đó là một thí dụ tốt. Ðúng, đó là kinh nghiệm
của con người. Tôi nghĩ điều này có thể giúp họ hiểu được rằng con người không
phải chỉ có cái thân xác này mà thôi. Bên ngoài cái thân xác này còn có một cái
gì khác nữa, nguyên tử lực, như tôi đã trình bày trước đây. Nguyên tử lực của
con người chính là tâm thức của con người, tâm con người --- chứ không phải cái xương này.
Tuy nhiên, nghiện
ngập thì xấu, vì nó
làm anh mất trí nhớ. Như vậy nó có tốt có xấu. Khi anh đã có kinh nghiệm rồi,
đừng dùng nó nữa. Ðược không? Cũng như khi anh đã có kinh nghiệm với một người
bạn xấu, hãy dừng lại!
Thính giả: Ngài đã nói về tứ đại không phải năm. Ngài có thể
kể ra không?
Lạt ma: Ðất, nước, lửa và gió (khí)
Thính giả: Ngài cũng nói về ngũ uẩn, xin ngài nói ra.
Lạt ma: Ðó là: sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
Thính giả: Ngài có thể nói về tam độc?
Lạt ma: Ðó là: tham, sân và si (vô minh)
Thính giả: Xin ngài nói về ba nguyên lý kết tập thành tứ đại.
Lạt ma: Trong Phật giáo chúng tôi không có ba nguyên lý này.
Thính giả: Tôi nghĩ rằng tâm thức trong lúc mơ thì thô kệch. Ngài
nói rằng sự thông minh sẽ biến mất trong lúc mơ. Tôi muốn hiểu thêm về vấn đề
này.
Lạt ma: Trước hết, khi chúng ta ngủ, rồi khi tứ đại đã chìm đi
như trong tiến trình chết, chúng ta sẽ thấy ánh sáng rất trong (clear light, tịnh quang). Rồi từ ánh sáng trong này chúng ta
xuất hiện ra thân trong lúc mơ (the dream
body). Cái thân
trong lúc mơ này giống như ở trong một câu lạc bộ về đêm của Tây phương (mờ
mờ ảo ảo.) Lý do mà tôi nói hai sự kiện khác nhau là vì trạng thái ngủ và trạng thái mơ
khác nhau. Trạng thái mơ hay thân-mơ (thân trong lúc mơ) xuất hiện
từ trong giấc mơ khi cái tâm-mơ (tâm thức trong lúc mơ, the dream mind) bắt đầu làm việc. Khi nguyên tố thứ
nhất (địa đại) của thân-mơ chìm là lúc chúng ta bắt đầu hết mơ, chúng ta
trở lại trạng thái ngủ rồi đến trạng thái thức dậy. Quý vị hiểu không? Trạng thái ngủ và trạng thái mơ là hai hiện tượng khác
nhau.
Thính giả: Ở trong mơ, chúng ta có tạo
nghiệp không?
Lạt ma: Có, có chứ. Mật tông giải thích rằng, tiến trình chết
cũng giống như tiến trình đi ngủ. Từ tiến trình chết vào trong thân trung ấm (bardo,
cõi trung gian sau khi chết) cũng giống như tiến trình ngủ đi vào giấc mơ,
bởi vì kinh nghiệm hầu như giống nhau. Khi chết những nguyên tố (tứ đại)
của cái thân xác thô kệch này bị thẩm thấu, cũng giống như khi ngủ, cái thân
xác này và những ý niệm thô kệch bị thẩm thấu, có những luồng ánh sáng xuất
hiện trong lúc ngủ, rồi thân vi tế xuất hiện, đó là cái thân trong lúc mơ. Sự kiện
này giống như cái thân trong cõi trung
ấm và những hoạt
động cũng giống như những hoạt động ở cõi trung
ấm.
Cái thân trong lúc mơ thì vi tế hơn cái thân xác thô kệch
trong lúc tỉnh này, cái tâm trong lúc mơ cũng vi tế
hơn cái tâm trong lúc tỉnh. Do đó, trong Phật giáo những thiền giả đã
có được những kinh nghiệm của tâm trong lúc mơ trong sáng hơn để soi
vào tương lai hay vào những sự kiện hơn là tâm trong lúc tỉnh. Ðó là lý
do tại
sao chúng tôi đã giải thích rằng bất cứ cái gì xẩy ra ở tâm trong lúc
mơ, bất
cứ hiện tượng nào hay hình ảnh nào mà chúng ta có được trong lúc mơ đều
hoàn
toàn có liên hệ đến lúc tỉnh, thành ra chúng ta không nên phán đoán,
phê bình
nó như chúng ta vẫn thường nói: đụng chạm, sờ mó sự vật trong lúc tỉnh
thì thật
hơn là trong lúc mơ. Chúng có giá trị như nhau.