- Không được kêu là “Ông thầy chùa” nghe chưa? Hỗn.
Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác. Trong câu chuyện khi nhắc tới ông
thầy.. đó thì mẹ tôi dùng ba chữ “Thầy Châu Lâm”. Giọng kính cẩn có pha chút
thân tình. Những người trong xóm khi nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng
như thế.
Đi trên đường thầy cứ nhìn thẳng, nét mặt diệu dàng không vui không buồn. Tôi
chịu không đoán được tuổi. Tóc và râu là hai bộ phận để căn cứ mà định tuổi thì
thầy đều không có. Mặt lại không nếp nhăn. Miệng lại không cười. Đi giữa chúng
tôi mà không gây nên tiếng động.
Chùa Châu Lâm ở cách biệt nơi chân núi, xa xóm cỡ một cây số rưỡi, nhưng đối với
tuổi ấu thơ của tôi thì như vậy đã là xa hun hút. Bởi vì muốn đi tới chùa, chúng
tôi phải đi bọc vòng chân núi, đi theo một con đường quanh co có nhiều bụi gai
bàn chải mọc dày. Cảnh vật khác hẳn cảnh vật trên xóm, tưởng như là hai thế giới
riêng biệt. Bụi cây âm u rất nhiều. Chim hót tứ phía. Rắn mối và kỳ nhông bò rèn
rẹt mỗi lần có bước chân tới gần. Ở trên miếng gai bàn chải chơm chởm, ở trên
cành cây mọc chìa ra đường, thỉnh thoảng có con kỳ đà nằm yên lặng nghếch cái
đầu màu đỏ lên nhìn. Những đoạn đường quanh co vội vã. Không dám chạy thẳng một
mạch, không muốn làm phiền lòng những bờ duối bờ sậy, không muốn động chạm đến
cả sự quây quần yên lặng và khiêm tốn của lũ cỏ gấu, con đường nhường nhịn, len
lỏi né tránh.
Ngôi chùa trông thấy trước mắt nhưng phải đi vòng qua những thửa ruộng thấp, đi
lượn qua mấy ngôi tháp cao, đi bọc theo khu vườn nhỏ rồi mới tới cửa Tam quan.
Đá lởm chởm dưới chân, đá chất gồ ghề làm bờ thành bờ dậu. Tất cả là công trình
của bàn tay cần cù, là chứng tích của sự nghèo khó. Chắc thầy trụ trì và chú
Điệu phải tự tay vần đá, kê chồng lên nhau, chèn ghép vào nhau trong những buổi
mai còn đầy sương, trong những buổi chiều có tiếng sơn ca lanh lảnh hay trong
đêm trăng thơm mùi hoa đại. Không có dấu vết của chiếc bay thợ nề trên những kẽ
đá, nơi dung thân của lũ rắn mối cắc kè.
Ấp tôi dân số đã ít ai nghèo nên chùa không thể nào giàu được. Hình như tài sản
của chùa chỉ có hai miếng đất thổ và để có đủ lúa ăn, nhà chùa phải làm rẽ bảy
giạ giống ruộng. Bởi hoa lợi ích ỏi nên thầy trụ trì chỉ nuôi nổi một đồ
đệ.Người đồ đệ này là bạn chơi cùng lứa với chú Ba tôi nên chú tôi cứ tha hồ
xưng hô bằng “thằng”, bằng “mày” trong khi những đạo hữu cao tuổi gọi bằng “chú
Điệu”. Tôi thì bắt chước theo lũ nhỏ kêu bằng “ông điệu” dù ông chỉ mới khoảng
16 – 17 tuổi. Ông điệu lo sạ lúa, làm cỏ, tát nước ruộng. Một hôm bị bạn bè rủ
rê – trong đó có chú Ba tôi, – hái luôn một trái dưa hấu của đám rẫy cạnh vườn
chùa rồi bạch ra ăn với nhau. Thầy trụ trì bắt gặp. Thầy lùa cả bọn vô chùa để
tra hỏi, sau đó thầy sai ông điệu ra sau liêu lấy cái roi mây. “Ông” bước đi rất
chậm, tưởng như bàn chân đang bận suy nghĩ. Thầy bình tĩnh đợi. Khi cầm roi trên
tay, thầy bắt ông nằm xuống. Trót! Trót! Trót! Ông điệu lăn qua lăn lại, khóc ồ
lên, vừa “Lạy thầy con lỡ dại! Lạy thầy con xin chừa”. Sau năm roi, thầy ra lệnh
cho ngồi dậy. Ông điệu vâng lệnh ngồi dậy nhưng không bước ra hiên lấy gáo múc
nước rửa mặt như tôi tưởng. Mà ông lại đứng ngay ngắn trước mặt thầy rồi bỗng
ông quì xuống lạy luôn ba lạy.
Tôi ngạc nhiên hết đỗi. Ở nhà, mỗi lần bị cha tôi bắt nằm xuống đánh xong cho
ngồi dậy là tôi vừa khóc hù hụ vừa ra hiên múc nước rửa mặt. Lần nào cũng vậy, y
như một nghi thức không thay đổi. Lần đầu tiên thấy một người bị đánh lạy tạ
người vừa đánh mình, lòng tôi chợt nảy sinh một cảm giác lạ. Một sự kính trọng
bồi hồi. Nhưng chưa hết. Thầy trụ trì ung dung nói :
- Đi vô làm lễ sám hối.
Ông điệu “Dạ”, lại kẹt cửa lấy cái áo tràng màu xám choàng lên người. Ông châm
một nén hương rồi tẻ ra cắm ở mấy bàn thờ Phật. Ông lại cầm dùi đánh nhiều hồi
vào cái trống sấm. Rồi sau đó ông quì tụng niệm ê a một lát lâu.
Lúc nhỏ khi chưa đi học, tôi hay theo chú ba Ba tôi đi chơi lang thang nên cái
cảnh ông điệu bị đòn, tôi chứng kiến từ đầu đến cuối. Tôi giữ một ấn tượng tốt
về nhà chùa là bởi sự kiện đó.
Có lần chú tôi lén chỉ cho tôi coi một cái chum đất nung lên men đặt ở sân sau
của chùa. Chú nói :
- Cái chum tương đó.
Tôi hỏi :
- Sao đem để ngoài nắng vậy?
- Đem dang cho tương nó ngon.
Mày tưởng chùa gọt vỏ bívỏ bầu rồi bưng đổ hả? Không có. Đem bỏ vô chum tương,
để lâu nó thành tương.
Chú tôi không có óc khoa học, hay tin lời người khác mà không chịu phối kiểm với
thực tế, thỉnh thoảng lại hay nói ẩu nên tôi không biết sự thực có phải đó là
một cách làm tương đơn giản hay không. Nhưng cho dẫu không biết chắc, tôi cũng
có thể cả quyết rằng cách làm tương ở chùa này phải là cách đơn giản thô sơ hơn
hết. Cứ nhìn lối sống của thầy trụ trì và của ông điệu là biết ngay. Ngoại trừ
cái áo nâu dài mặc khi ra đường là tươm tất, còn khi ở chùa thì thầy mặc áo vải
thô vạt hò màu xám có nhiều mụn vá nơi vai hoặc nơi cùi chỏ. Cái vạt áo nhọn làm
cho dáng thầy từ mảnh mai trở nên gầy gò. Thuốc lá thầy hút là thứ thuốc tự tay
thầy trồng. Vài chục cây thuốc mọc ở một vạt đất nhỏ đầy sỏi đá nơi cửa sổ nhà
Đông, có những lá già ở gần gốc đã được tướt đi. Đi ra đường thì thầy mang guốc
sơn, còn ở chùa thì mang guốc bằng gỗ cây sầu đông tự thầy đẽo lấy. Quai guốc là
một mảnh da trâu cứng.
Một cảnh chùa nghèo nàn như vậy không thể ban phát lợi lộc vật chất cho ai hết,
nhưng nhờ đó mà nó trở nên thân mật với mọi người. Ai muốn ghé chùa chơi cũng
được, ghé vào giờ nào cũng được, cửa Tam quan gần như không bao giờ đóng. Nhà
chùa không phải coi chừng kẻ trộm cắp vì chẳng có chi đáng để trộm cắp. Có mấy
bụi chuối mốc đứng ở chái chùa là hay có trái hườm trên những buồn chuối nặng.
Lũ chim chào mào tọc mạch bao giờ cũng thấy trước và lén mổ trộm. Người từ xóm
lại phải đi băng qua một quãng đồng trống, ai công đâu xách một bụi chuối trên
tay? Quả rằng chỉ có lũ chim là chuyên môn ăn trộm của chùa. Mấy trái mãn cầu
chín quên hái ở ngoài vườn, chùm ớt đỏ nơi bụi ớt ở vại nước rủ rê lũ chim đội
mũ, chim chìa vôi tụ hội lại vừa ăn vừa nói chuyện rinh rả. Bụi thơm cây mít ở
sau lưng chùa thì có lũ sóc ranh mãnh dòm chừng.
Người tìm đến chùa thường để xin nghỉ mát hay để tìm nước uống. Đó là trường hợp
những người cấy lúa, cuốc cỏ mía ở những đám ruộng đám thổ gần đó. Buổi trưa
nghỉ tay. Về trong xóm thì xa, ngồi dười gốc cây thì hanh nắng, sẵn có chùa gần
xin vào nghỉ ở chái sau. Nước uống thì sẵn ở chum, dùng bao nhiêu cũng có, tha
hồ. Tuy nhiên, dùng chỉ hết mươi gáo nhưng họ bảo nhau ra giếng xách châm vào
cho đầy hũ đầy lu, đỡ tay chú điệu một bữa. Hôm nào mo cơm gói theo mà thiếu đồ
ăn thì chú điệu múc cho chén tương.
Mấy đứa chăn bò, lũ nhỏ hái củi hay ghé xuống chùa xin muối. Bò lùa thả ăn ở
chân núi còn chúng thì tụ hội lại đánh đáo đánh trổng hoặc sục sạo vào các bụi
cây để hái ổi, hái sim, múi dẻ, nhãn chày... Khi không nhằm mùa trái cây thì bứt
đỡ lá dang lá me xuống chùa xin muối lên chấm ăn. Bước qua vại nước thấy có ớt
chín thì lén hái một hai trái để lên giã chung với muối. Nếu thầy trụ trì hay
chú điệu bắt gặp thì cũng chỉ “Ê Ê!” vài tiếng và người phạm lỗi rút tay ra, bẽn
lẽn cười rồi đi luôn. Không ai nỡ nghĩ rằng đó là một sự ăn cắp. Cái không khí
tịch mịch bao dung nuôi dưỡng lòng hỉ xả.
Lên bảy tuổi tôi đi học ở trường Thiện Đức, cách nhà một con đò và hai cây số
đường bộ. Trường nằm ở trên chỏm núi. Do mấy người bạn lớn dẫn dắt, một hôm đang
giữa giờ học tôi cũng “xin phép thầy cho ra ngoài”. Thật tình tôi không hiểu
“đi ra ngoài” là đi đâu mà cứ thấy mấy anh lớn hay giơ ngón tay lên xin. Gạn hỏi
mãi một anh lớn tên là Khoan, – sau này lên lớp Tư chúng tôi cứ kêu là anh Tư
Khoan bởi có một bài tập đọc kể sự tích ông Lưu Khoan có người thị nữ bưng bát
cháo lên hầu, lỡ tay đánh đổ cháo ra ái chầu vân vân – giảng cho tôi nghe :
Đi ra bụi duối ngồi mát.
Tôi nói :
Ngồi trong lớp đâu có nực? Mát buồn ngủ luôn
Nhưng đâu bằng ở ngoài núi? Sẵn trái duối chín hái ăn luôn.
Nhằm trúng cây duối ngọt thì trái duối chín ăn như đường phèn, - tôi đang nghĩ
tiếp. Nhằm cây duối trái đắng thì bỏ đi, lựa cho được cây duối ngọt. Kiến vàng
đít bự ưa trái duối lắm, bò từng đàn...
Đôi hồi chạy tuột dốc xuống luôn chùa Cảnh Phước – anh Khoan tiếp. Xin vài trái
chanh chấm ăn với muối.
Thế là tôi lập tâm muốn đi hoang một bữa. Tôi đợi giờ chữ Nho của thầy Lê Ngu
Tân. Thầy hiền, không đứa nào sợ. Anh Khoan đợi tôi ở ngoài cửa lớp. Thấy tôi ra,
anh khen liền :
Được đó, mày phải dạn lên một chút. Thôi bữa nay khỏi ăn duối đi. Tao cho mày
xuống chùa Cảnh Phước.
Không cần hỏi tôi có đồng ý không, anh cứ xổ dốc luôn. Trời ơi! Triền dốc thì
đứng mà anh cứ chạy băng ào, chạy quá đà phải ôm luôn một nhánh cây mới hãm bớt
tốc lực. Nhiều lần như vậy. Cuối cùng, chúng tôi lọt vào sân chùa.
Kèm với sự bỡ ngỡ, cái cảm tưởng đầu tiên của tôi là chùa Cảnh Phước giàu hơn
chùa Châu Lâm. Có nhiều màu trắng củavôi mới nơi trụ hiên, nơi vách. Có sự bằng
phẳng rộng rãi nơi sân, các lối đi được viền bằng cỏ tóc tiên. Hoa được trồng
thành bồn. Có một dãy những cái hồ lớn đắp bằng xi măng trong thả bèo hay trồng
sen. Vườn chùa kế tiếp theo sân. Một cây cần vọt nước cất tiếng kẽo kẹt. Nhiều
cây chanh lá xanh um đứng kề thềm giếng. Khế, ổi, bụi môn bạc hà, cây bưởi, vạt
bắp, vạt củ mì, và xa hơn, những cây cao có hoa màu đỏ đứng cạnh những ngôi tháp.
Nhiều lần sau tôi lại có dịp xổ dốc để xuống thăm chùa Cảnh Phước và mỗi lần như
vậy giúp tôi khám phá thêm một nét phong lưu của chùa. Thầy trụ trì vui vẻ nhìn
chúng tôi, ngắt cho những trái chanh vừa vò đầu âu yếm. Những lúc ấy tôi bỗng
nhớ đến khuôn mặt trầm ngâm của thầy Châu Lâm và không hiểu tại sao tôi chợt
thấy thương thầy. Tôi thương ngôi chùa nghèo, có nhiều màu xám nơi cửa nơi vách,
có một cái sân không đủ sức để bằng phẳng và vuôn vức, có nhiều sỏi đá đến nỗi
cây khế cũng không trỗ được màu xanh.
Chùa Châu Lâm có một cái tên nôm là “chùa Đồng Mạ”. Tên đó dành cho những người
bình dân trong xóm gọi. Chùa Cảnh Phước không có tên nôm. Trong tuổi ấu thơ, tôi
đã nghĩ rằng đó là một sự thiệt thòi của kẻ giàu. Lớn lên, tôi biết rằng có
nhiều ngôi chùa vừa giàu vừa có đủ hai tên. Như chùa Đá Trắng với tên “Sắc tứ Từ
quang tự”, chùa Tổ với tên “Sắc tứ Bát nhã tự”. Sắc tứ tức là được nhà Vua công
nhận và ban cho cái tên. Y như là những con người ở ngoài đời vừa giàu vừa sang.
Ở Phong thăng có một ngôi chùa giàu không được “Sắc tứ”. Nhưng có tên là chùa
Bảo Sơn. Bảo Sơn, Linh Sơn, Phước Sơn... những cái tên khi đọc lên có âm vang
của sự sang giàu. “Châu Lâm” của xóm tôi khiêm tốn đến nỗi không muốn lạm dụng
đến cả âm ba, món trang sức không đòi hỏi phải có nhiều tiền mới sắm được.
Có một món quà chùa sẵn lòng tặng cho ai cần : đó là những cành bông điệp. Không
biết tục lệ xuất phát từ đâu mà cả làng tôi mỗi lần có việc cúng kỵ là chỉ chăm
chăm đi hái bông điệp để cắm lên bàn thờ. Nếu nhằm ngày Tết tháng Giêng thì có
thể cắm thêm bông vạn thọ, bông trang đỏ. Những loại hoa khác như cúc, thược
dược, huệ hồng... dẫu đẹp nhưng là món cắm chơi giữa người trần với nhau. Tục lệ
đó chắc đã nhắm một mục đích kinh tế rõ rệt : cây bông điệp trồng một lần mà ra
bông cả vài chục năm bởi nó là thân mộc lớn cỡ bằng cây táo nhơn. Hoa có hai
loại, màu đỏ và màu vàng mọc thành chùm nên chỉ cần bẻ ba chùm là đủ ghép thành
một bình. Chùa trồng ba, bốn cây ở trên lối đi và như vậy là đủ cho nhu cầu của
một xóm.
Sự liên hệ giữa dân xóm và nhà chùa là một liên hệ tinh thần, dẫu không sâu đậm
thiết tha nhưng mà lúc nào cũng sẵn sàng hiện diện. Khi có niềm đau nỗi buồn quá
sức giải quyết của người thì về chùa để tìm an ủi và hy vọng. Nhà có tang mời
thầy tụng kinh siêu độ, nhà có người đau ốm trầm kha mời thầy tụng kinh cầu an.
Mười năm một lần ban trị sự Ấp tổ chức đàn tràng mời thầy hành lễ, làm chay múa
lục cúng suốt ba ngày đêm để cầu an cho dân chúng cả Ấp. Người lớn trẻ con,
thanh niên thiếu nữ dập dìu tới dự, áo quần tươm tất mặt mày tươi vui khiến tôi
nghĩ rằng đây vừa là Lễ Tạ Ơn cho mười năm đã qua vừa là Lễ Cầu An cho mười năm
sẽ tới. Cỗ bàn dọn ra, ai có mặt cũng được mời ngồi vào cầm đũa thọ trai, không
phân biệt kẻ lớn người nhỏ kẻ sang người hèn. Y như trong những ngày lễ lớn làm
chay ở chùa vậy
Trong những ngày đó, người có cầm tới bao đèn bao nhang hay buồng cau nải chuối,
người có góp phần công đức năm cắc một đồng hay gói trà phong bánh đều được mời
dự bữa cơm chay ngang hàng với kẻ chỉ tới tò mò đứng coi. Có người quá nghèo thì
tới lãnh phần gọt vỏ bí vỏ khoai hay vo gạo đãi đậu. Có người tối mặt tối mày
trong bếp.
Một lần tôi theo cha tôi tới dự lễ Rằm tháng Bảy ở chùa. Thầy trụ trì ngồi nói
chuyện bình thản với khách trong khi các người nấu cỗ dọn bàn cứ tự động lo liệu
lấy. Họ tự sai pháp, phân công làm như chuyện chùa là chuyện nhà của họ. Những
tiếng kêu gọi, hỏi han, dặn dò đan tréo vào nhau ;
Đưa đây chai dầu phộng!
Ra vác thêm bó củi, em em. Lấy bó gộc ở chỗ gốc táo đó.
Lu gạo để ở đâu? Chớ tỉn này vét hết rồi.
Hỏi chú điệu. Chú điệu ơi! Uở, mà cứ xúc thúng gạo lúa Gòn của cô Năm mới đội
tới đó cũng được mà.
Bí sắp này chắc lấy giống ở Đờ răng. Trái to mà dài như con heo. Ở trong chùa Tổ,
nấu chay có la ghim Đờ răng và Trà Lạch chở xuống.
Phải, chùa Tổ là chùa nổi tiếng nhất của cả tỉnh, có nhiều đạo hữu giàu ở các
tỉnh khác cũng xin quy y làm đệ tử. Một số các đệ tử gốc ở Dran, Đà lạt. Mỗi kỳ
lễ lớn, họ gởi theo xe hàng xuống từng giỏ cần xé to những bắp sú, cà rốt, khoai
tây, đậu Hòa lan, củ cải... Khi ngồi nghĩ đến một cỗ chay thịnh soạn ở chùa Tổ,
các bà Lý bà Hương chắc có ước ao được thưởng thức coi nó ngon ra làm sao nhưng
tôi tin rằng đồng thời họ lại cũng đang thêm yêu thương ngôi chùa nghèo của họ
và cuộc đời tầm thường của chính họ. Nghèo nàn là một sợi dây thân ái ràng buộc
mọi người. Khi có đồng tiền dính dự vào thì đồng tiền gây mầm chia rẽ.
Không khí của một bữa cỗ chay khác xa với một bữa cỗ mặn. Không có sự náo nức
của người dự cỗ. Không ai tham ăn, háu ăn, mọi người đều huỡn đãi mời mọc nhau.
Chỉ vì món chay của nhà-quê hồi đó không có những mỹ vị đam mê. Xào thì đậu đũa
xào dầu, mướp xào dầu, khoai lang xào dầu. Đại khái là một món rau trái được lăn
qua trong dầu phộng rồi nằm trong chảo đậy vung hầm hơi cho chín. Món canh thì
nhờ đậu phộng mà ngọt, khác nhau chỉ có bát này là bí đỏ, bát kia là bầu, bát nọ
là rau cải.
Trong bữa ăn có bày luôn cả các món tráng miệng. Và mười lần như một, thế nào
cũng có một người đưa ra ý kiến :
Ăn chay thì phải gắp bỏ nhiều món vô chung một bát rồi ăn mới ngon.
Lần nào dự bữa ăn chay tôi cũng có ý đợi chờ xem ai sẽ đầu tiên nói lên câu đó.
Ở nhà tôi thì y như cô Bảy tôi lãnh phần nói trước. Và chú Ba tôi thực hành liền.
Chú lấy một bát canh, bẻ bánh tráng nướng bỏ vô, gắp xào đậu xào khoai, nộm đu
đủ bỏ vô và chú chuẩn bị biểu diễn. Cô tôi đẩy dĩa cốm và bánh in lại gần (ở
miền Trung, cốm là thứ bánh làm bằng bột nếp rang trộn đường đóng khuôn) :
Bỏ luôn miếng cốm vô.
Chú Ba cười liền :
Phải đó, như vậy mới đúng điệu ăn chay.
Khi tôi lớn lên đi đây đi đó, tôi được dịp ghé thăm nhiều ngôi chùa sang trọng,
được dự nhiều bữa tiệc chay thịnh soạn ngon lành. Mỗi lần như vậy lòng tôi lại
bùi ngùi nhớ đến ngôi chùa quê của tôi , đến những bữa cỗ chay thanh đạm nghèo
nàn, thanh đạm đến mức “có thể trộn lẫn nhiều món vào nhau” mà không sợ mất
hương vị. Bởi lẽ, than ôi, có hương vị gì đâu mà gọi rằng mất?
Những kỷ niệm ngày thơ ấu đó dẫu có thời gian cách trở nhưng bây giờ đây mỗi lần
nhớ lại là tôi thấy hiện lên rõ ràng trước mắt. Tôi có thể nghe cả giọng nói với
âm thanh riêng biệt của từng người. Bà Bộ, buôn trầu cau ở chợ Chiều, mỗi lần lễ
xong tới mục thiêu vàng là khệ nệ lãnh bưng cái nia lớn trên xếp đầy những tờ
giấy tiền, thanh y, giấy vàng bạc ra trước sân chùa. Bà châm lửa đốt từng xấp
giấy rồi chắp tay nhìn ngọn lửa một cách cung kính. Những tàn tro giấy vỡ ra, bị
hơi nóng cuốn hút bay lên, lượn lững lờ. Bà xuýt xoa vái bốn phía rồi nói với
những bà con đứng nhìn xung quanh :
Các đẳng tới nhận áo và vàng bạc đó. Các Ngài đứng ở trên cao.
Không ai tỏ bày ý kiến. Bà đành nói tiếp – như để thuyết phục một kẻ hoài nghi
tưởng tượng nào đó, - cái lý luận bà đã chuẩn bị sẵn ở nhà, có lẽ đã nói nhiều
lần ở nhiều nơi rồi :
Chớ Trời đâu có gió mà tàn tro cứ nhắm trên cao mà bay?
Mọi người vội vã nghiêm chỉnh và kính cẩn. Cả cái không gian âm u của buổi chiều
nơi sân chùa như đầy những vong linh, những cô hồn tụ hội. Bà Bộ thật xứng đáng
được các đẳng ban thưởng. Tôi chưa thấy một khuôn mặt nào rạng rỡ như khuôn mặt
của bà lúc ấy.
Trải qua cuộc chiến dằng co, ấp Quảng Đức của tôi đã thành bãi chiến trường.
Đồng bào bỏ nhà cửa ruộng vườn lũ lượt gồng gánh ra đi. Ngôi chùa xưa chắc còn
tịch liêu tàn phế hơn xưa, con chim chào mào chìa vôi chắc ngang nhiên làm tổ
ngay ở chái sau hiên trước.
ĐI CON ĐƯỜNG KHÁC.
Bác gắng tăng thêm tốc độ.
Dạ.
Gắng tăng thêm nữa.
Dạ.
Người tài xế bặm môi nhíu sát hai lông mày vào nhau. Những nếp nhăn hằn lên, khổ
sở. Tôi chong mắt nhìn ra trước xe. Những cánh đồng trải rộng, trải dài, lác đác
có thôn ấp nấp sau những lũy tre. Chúng nằm bất động, cản ngăn tầm mắt khiến tôi
có cảm tưởng là xe vẫn còn chạy chậm. Tôi muốn giục thêm bác tài nhưng tự nhiên
thấy mình khiếm nhã. Tôi đã giục nhiều lần rồi. Giục thêm, có khác nào bảo rằng
bác ta thiếu thiện chí hay kém tài năng.
Tôi ngồi chồm ra trước, làm như tư thế đó giúp cho xe chạy mau hơn. Tôi rung
những ngón tay tưởng như điều đó làm cho chiếc xe cũng sốt ruột mà gắng chạy
nhanh hơn. Rặng núi thấp có những rẫy sắn rẫy đậu nằm bắc thang trên sườn, từ
nãy giờ vẫn chưa vượt qua. Tôi muốn bất chấp xã giao lên tiếng giục bác tài chạy
mau hơn nữa, nhưng chợt nhìn xuống cây kim đỏ chỉ tốc độ tôi phát hoảng : 110
cây số giờ. Đó là tốc độ nguy hiểm đối với đoạn đường này. Là đùa với Thần Chết
và đi kề cái chết.
Tôi lẩm nhẩm nghĩ : “Đằng nào cũng trễ rồi. Hôm nay đã 16 tháng chín. Xe không
thể chạy về đêm. Trưa ngày 17 là hết. Là xong hết...” Tôi cảm thấy nóng nơi khóe
mắt. Tôi cảm thấy nước mắt đang tụ tập về điểm lệ nhưng tôi cố ngăn không chúng
họp thành giọt. Tôi cắn răng, cầm chắc sự can đảm trong bàn tay trái nắm chặt.
Chợt xe phanh gấp một tiếng két nhức tai. Tiếng bánh xe lết trên mặt đường.
Người tôi nhảy chồm lên, ngã nhào tới trước. Nhưng tôi hoàn toàn không có chút
hoảng sợ. Tô bình tĩnh đến mức độ lạ lùng. Tôi sửa lại tư thế ngồi, dựa lưng ra
nệm và chậm rãi ra lệnh :
Thôi bác chạy chậm lại. Tám mươi đến chín mươi cây số thôi.
Tôi không cần biết cái hãm phanh vừa rồi có nguyên do nào. Mọi nguyên do đều vô
ích khi không sửa chữa được Thực tại. Tôi nhắm mắt lắng nghe hơi thở của mình.
Trong trí óc tôi có tiếng kêu. “Chương ơi! Chương ơi!”, tiếng kêu của tiềm thức
tôi. Không có tiếng đáp lại. Vĩnh viễn từ nay sẽ không còn tiếng đáp lại.
Tôi lần mở xắc lấy ra tờ chương trình. Năm chữ “Đại giới đàn Phước Huệ” in màu
chữ đỏ. Những danh từ xa lạ. Lật trang sau...
Điều kiện thọ giới Sa-di :
Thuộc hai thời công phu
Thuộc hai cuốn luật tiểu
Điều kiện thọ giới Tỳ-kheo :
Đã thọ Sa-di ít nhất hai năm
Đủ hai mươi tuổi đời.
Thuộc hai thời công phu và bốn cuốn luật tiểu.
Phải có đầy đủ y bát, tọa cụ và đãy lọc nước.
Những điều kiện này đang ràng buộc Chương. Đang thắt cột Chương vào một tập thể
lớn có qui luật, nơi đó Chương xóa bỏ Quá Khứ của anh. Nơi đó Chương sẽ là một
cái lá trong nhiều cái lá, một cành cây giữa những cành cây, một hạt bụi lẫn lộn
trong hằng hà sa số hạt bụi. Và tôi, Trâm, người yêu của anh sẽ không còn chiếm
nửa linh hồn anh, ba phần tư linh hồn anh, bốn phần năm linh hồn anh... mà tôi
rút gọn lại chỉ còn là một chúng sinh xếp đồng đẳng với muôn triệu chúng sinh
trước đôi mắt anh. Tôi tham lam hơn, Chương ơi! Tôi không chịu được ý niệm Dân
chủ, tôi ghét cái cân của ngành Luật pháp bởi tôi không chịu đồng đẳng với ai,
tôi phải chiếm chỗ cao hơn hoặc là tôi đoạn tuyệt.
Mà anh có đi tu thật không? Có thể là con Như nó lầm không? Em nhận được thư hỏa
tốc của nó bảo đích xác là có tên anh trong danh sách những người nhận giới
trong Đại giới đàn. Có thể có sự trùng tên không? Em không hi vọng lắm. Khó có
hai người cùng mang tên Lại Tăng Chương.
Như nó gởi luôn cho tôi tờ chương trình. Ngày 17 tháng 9 Quí Sửu, sáu giờ : Hưng
tác thượng phan, khai chung bản, khai kinh bạch Phật. Tôi chẳng hiểu nói cái gì
trong đó. Đoán lờ mờ là có treo cờ, đánh chuông, tụng kinh. Chắc không sai mấy,
8 giờ : Tấn đàn Sa-di. Chắc có nghĩa là truyền giới cho mấy ông Sa-di. 12 giờ :
Quá đường. Có phải nghĩa là đi qua phòng ăn để thọ trai? Có thể là không phải
vậy. Mặc kệ. Chiều ngày 19 và sáng ngày 20 : Tấn đàn Tỳ-kheo. Lễ truyền giới cho
Tỳ-kheo kéo dài lâu hơn chắc bởi cấp bực tu trì cao hơn. Chẳng biết Chương sẽ
nhận giới ở cấp bực nào.
Tôi hỏi bác tài :
Bác dự tính chạy hết tốc lực thì tối nay nghỉ ở đâu?
Theo cái đà này thì chúng ta phải nghỉ đêm tại Sông Cầu.
Sông Cầu là chỗ nào?
Giữa Qui Nhơn và Nha Trang.
Chỗ đó có khách sạn không?
Không hi vọng có.
Tôi định hỏi thêm “Nếu không có khách sạn thì ngủ ở đâu và đậu xe ở đâu” nhưng
trí óc tôi lười biếng quá rồi, tôi không muốn đặt câu hỏi nữa. Thà để trí óc
trống rỗng, trắng bệch còn hơn là bắt nó nghĩ suy lấy lệ.
Con đường chạy dài, xe vượt quá một cánh đồng thì bắt gặp một xóm làng. Những
ngôi nhà tranh đứng hiu quạnh bên cạnh những bụi chuối bụi sả trông thật buồn.
Tưởng chừng như những ngôi nhà bỏ hoang nếu nhìn quanh quất đâu đấy không thấy
một con chó đang nằm khoanh nơi cháy bếp, một con gà giò ốm lỏng khỏng đi thơ
thẩn nơi vạt nước hay một bà lão gầy gò da mặt nhăn nheo đang nhíu mắt nhìn ánh
nắng rung rinh.
Chương sống cô đơn từ những ngày nhỏ. Gia đình anh là một thảm kịch : Cha mẹ ly
dị nhau, cha cưới vợ riêng và mẹ đi lấy chồng. Anh trở thành đứa trẻ mồ côi bởi
vì về ở với cha thì không chịu được dì ghẻ, về ở với mẹ thì không chịu được
dượng ghẻ. Cha và mẹ anh khi cùng ở với nhau thì điều khiển một nhà xuất nhập
cảng lớn, khi ly dị nhau thì trở nên hai nhà xuất nhập cảng còn lớn hơn xưa.
Trong việc tái lập gia đình, hai người đều tỏ ra gặp được hạnh phúc. Tóm lại chỉ
có Chương mới là kẻ bất hạnh cho dù cha và mẹ anh đều nài nỉ anh về ở với mình,
và ở với người nào thì anh cũng được chìu đãi sung sướng. Chương sống tự lập
ngay khi vào Đại học. Khi ra trường, anh xin đi dạy học ở một tỉnh miền trung.
Gia đình tôi và gia đình Chương quen nhau từ nhiều năm vì Ba mẹ tôi cũng mở hãng
xuất nhập cảng. Cảm tình giữa chúng tôi biến thành tình yêu và sóng gió trong
gia đình Chương khiến tôi càng yêu anh nhiều hơn. Tôi thấy tôi có bổn phận đối
với Chương, giúp đỡ và an ủi anh. Chương chỉ còn có tôi ở trên đời để yêu ngoài
cái đam mê suy tưởng Triết học. Yêu tôi, nhưng khi ba mẹ tôi đề cập đến hôn lễ
thì Chương tỏ vẻ ngại ngùng.
Hôn lễ, đó là nghi thức cần thiết – tôi nói.
Chương gật đầu :
Đúng vậy,
Nhưng sao anh...
Tại vì... Tại vì...
Tôi đoán biết tại vì sao rồi. Ba mẹ tôi giàu lớn còn anh thì hiện thời đang đứng
sắp hàng theo chỉ số. Phải đi nhích tới từng bước. Nếu không muốn để cho đồng
tiền cám dỗ thì mắt phải chăm chăm nhìn lên những chữ Lễ nghĩa, Liêm sỉ, Đạo đức.
Chương yêu tôi mà không dám cưới tôi. Ngoài ra, những hình ảnh của cuộc hôn lễ
linh đình ngày cha anh đi cưới mẹ anh đã ám ảnh anh. Chính tôi đã được nhiều lần
ngồi nhìn say mê những bức hình chụp đám cưới ấy. Cha anh mặc áo thụng gấm có
thêu những cái hoa to bằng cái bát úp. Má anh đội khăn màu vàng như một nàng
công chúa. Xung quanh hai người là cả một rừng áo gấm và một bầy công chúa xinh
đẹp như nhau. Bây giờ thì những chữ Song Hỉ bị bẻ ra làm đôi, mỗi người cầm giữ
một nửa. Chương không thuộc về một bên nào. Anh lửng lơ ở nơi biên giới, ở nơi
ranh giới, ở no men’land , ở chỗ đáng lẽ không có người.
Tôi nói :
Nhưng em không thể đến sồng với anh mà không hôn lễ.
Anh biết.
Biết mà vẫn cứ để vậy?
Anh không có lối thoát.
Ba mẹ em không thể đợi anh lâu.
Chắc là anh mất em.
Từ ngày anh ra miền trung, tôi làm gan không biên thư cho cho anh nữa. Tôi đợi
sụ hồi tâm của anh. Thì đột nhiên có bức thư khẩn cấp của Như.
Bác liệu có thể chạy xa hơn Sông Cầu không?
Thưa cô chắc không được. Giờ này mà mình còn leo đèo Cù mông thì không hi vọng
đi vượt quá Sông Cầu.
Cù Mông là cái gì?
Cái đèo lớn nằm giữa tỉnh Bình Định và tỉnh Phú Yên.
Sao mà lắm đèo lắm ải vậy?
Miền Trung mà cô. Hết đèo đến ải.
Y như cuộc đời của Chương. Y như mối tình của chúng tôi. Người bình dân hát rằng
: “Thương nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội cửu thập đèo cũng
qua”. Đó là những sông những núi những đèo của Thiên nhiên, dẫu cao dẫu sâu dẫu
trắc trở mà với quyết tâm người ta vẫn có thể vượt được. Chỉ cần thời gian. Với
núi đèo do con người tạo ra thì vượt qua không phải dễ. Và Chương đang chọn một
lối vượt qua của anh.
Tôi ngủ lại đêm ở Sông Cầu. Đêm thật đen và thật buồn. Thành phố nằm bẹp dí
xuống mặt đất, nhà thấp và mặt biển liếm sát bờ cát. Không thấy một sự cố gắng
vượt lên. Hạnh phúc xuề xòa. Hạnh phúc cao một thước năm ngang vòng tay ôm. Hạnh
phúc cao một thước sáu ngang đôi môi hôn. Hạnh phúc trong giây phúc hiện tại,
trong đêm tối an nghỉ, giữa hai tràng đạn bắn vu vơ, giữa hai quả hỏa tiễn câu
vu vơ... Chương ơi anh coi thường thứ hạnh phúc trần gian này, anh ngước nhìn
lên cao hơn, anh rướn mình lên cao hơn.
Sau một đêm ngủ chập chờn, mới mờ sáng chiếc Falcon đã lại lướt gió, nuốt vội
đường trường. Những cánh đồng còn chìm trong một biển sương trắng đục mênh mông.
Những toán dân vệ đi thành hàng lặng lẽ trên những bờ ruộng thấp, mũi súng chĩa
xuống đất. Một đêm tối bất trắc đã qua, mọi người đón nhận ánh sáng mặt trời,
vui mừng như giữa những thời xa xưa loài người còn cư ngụ trong hang đá.
Xe nhẫn nại bỏ lui lại những xóm làng. Xe hớn hở lượn theo vòng đèo, xe mê mải
bò lên những dốc cao. Ánh nắng đã lên, nhuộm hồng những tàu lá cau, nhuộm vàng
những ruộng lúa. Tôi không có cách nào trì níu thời gian, chiếc kim đồng hồ cứ
lặng lẽ quay vòng và khi xe tôi ngút hơi đậu lại chân núi nơi địa điểm của giới
đàn thì mặt trời đã lên cao.
Trễ giờ rồi. Tôi không còn hi vọng nắm giữ lấy đôi tay Chương và đổ ra những
giọt nước mắt để bắt anh lưỡng lự, khí giới của tôi chỉ có thế. Tôi hơ hãi leo
lên triền núi, đặt chân bất kể lên những viên đá gập ghềnh. Những bụi me đất,
những đám lá dang lá bìm bìm bò vô tư dưới chân những cây mít cao. Lối đi thoai
thoải rải rác lá vàng, lẩn quất dưới những tàn cây âm u.
Leo được nửa dốc, tôi mệt quá ngồi bệt xuống một tảng đá. Đằng nào thì cũng đã
trễ rồi. Bóng người lao xao ở đỉnh núi, di động rộn ràng. Tiếng tụng kinh chậm
rãi, tiếng mõ gõ nhịp đều đều được máy phóng thanh chuyền vang xuống núi. Tôi
gượng đứng dậy bước tiếp. Vài người lên xuống cùng chia với tôi lối đi hẹp. Tôi
bước lên những bực cấp xây bằng đá. Tôi vịn tay lên đường lan can bằng xi măng.
Tôi bước lên những bước cuối cùng.
Người đi dự lễ mặc áo dài nghiêm trang đứng nhấp nhô ỡ dãy nhà trù, ở hiên nhà
khách, ở sân chùa chen chúc bụi trúc khóm tùng. Tôi len vào giữa những thân
người, tôi luồn vào giữa những thân cây. Tôi đi lần tới chánh điện. Uy nghi lặng
lẽ, một tượng Phật lớn thếp vàng ngồi tĩnh tọa trên đài cao. Phía dưới nhiều vị
sư đắp y vàng ngồi nghiêm trang sau những chiếc bàn thấp sắp dàn ra hai bên. Nơi
bàn giữa dưới chân tượng Phật, một vị Đại lão hòa thượng đang chậm rãi cân nhắc
từng tiếng giữa cái im lặng mênh mông, cái im lặng mắc kẹt dưới những góc bàn
chân ghế, cái im lặng rung rinh trên đầu người :
Các giới tử ! Phật vì đại sự nhân duyên mà ra đời cho nên nói ra không lường
pháp môn, tám vạn bốn ngàn diệu nghĩa... (tôi đang nhích tới để nhìn cho rõ mặt
vị Đại lão hòa thượng)... tóm lại không ngoài ba môn học là giới, định, huệ.
Song huệ do định mà phát, định nhờ giới mà sinh, công năng sinh ra giới... Các
bậc Thánh nhờ giữ giới mà chứng Bồ đề, chư Phật do nơi giới mà thành Chánh giác.
Tôi đưa mắt nhìn sang đám đông gần ba trăm vị sư trẻ đang quì trật tự trước lễ
đài, cúi đầu lắng tai. Không cần hỏi ai tôi cũng biết đó là những ông Sa di. Tôi
vội vàng rời chỗ đứng đi lần về phía giới trường đó.
Những ông Sa-di mặc áo tràng màu xám. Vì giới trường hẹp, họ sắp thành mười mấy
hàng, mỗi hàng gần hai mươi ông. Tô điểm mặt từng người một để tìm khuôn mặt của
Chương.
Hàng đầu : một, hai, ba, tư, năm... mười ba, mười bảy...Không có.
Hàng nhì : một, hai, ba, tư... mười lăm, mười sáu. Không có.
Hàng ba : một, hai... năm... bảy... mười hai...
Hàng tư : một, hai... tám... chín......
Tim tôi đập rộn ràng. Lạy Trời đừng có Chương. Sự thể sẽ không quá chậm đâu miễn
là không có Chương trong đó. Tôi sẽ chấp nhận mọi điều kiện của Chương, tôi sẽ
không cần đám cưới linh đình, tôi sẽ ở cạnh Chương giúp anh vượt qua những khổ
não chập chùng đang bủa vây anh. Tôi sẽ quày xe lại đi ngay ra Trung tìm anh,
tôi sẽ tự lái xe lấy và lần này kim tốc độ sẽ chỉ tám mươi cây số là cùng, bởi
chưng tôi yêu đời, bởi chưng tôi quý trọng sự sống.
Hàng chín : một, hai... tám... mười bảy... Không.
Hàng mười : một, hai... mười bốn, mười lăm... Không.
Hàng mười một : Một... Tim tôi nhói lên. Mắt tôi hoa đi. Tôi vội bấu tay vào
khung cửa. Chương đó. Rõ ràng là Chương đó. Tôi nhìn anh trừng trừng. Anh cúi
đầu lắng nghe pháp ngôn của Hòa Thượng.
Nay các vị nguyện bỏ thế tục theo phép xuất gia, vượt khỏi thường tình là không
lạy cha mẹ. Song các vị phải nhớ bốn ân đức lớn trong giờ phút này phải chuyên
tỉnh lễ tạ, về sau không còn lạy nữa.
Có tiếng phát ra từ loa phóng thanh :
Giới tử xoay về hướng Bắc lễ tạ bốn ơn.
Những tấm lưng cúi xuống, quì lạy, đứng lên, rồi lại nhịp nhàng cúi xuống, cuồn
cuộn như những lượn sóng nhấp nhô. Lạy Tạ cha mẹ! Phải lắm, cha mẹ “sinh thành
chi đức”, công lao như bể trời. Tôi nghe người ta nói “cát ái từ thân”, nhưng
cát ái từ thân đâu phải chỉ có cắt đứt tình thương đối với cha mẹ. Nơi những quả
tim kia chỉ có tình thương cha mẹ thôi sao? Chương ơi, thế em không có một chỗ
đứng nào trong trái tim của anh sao? Sao anh không lẩm nhẩm nói tiếp lời Hòa
thượng rằng : “Còn riêng con, con xin lạy thêm một lạy để tạ từ...” Không, không,
anh tha lỗi cho em, em không dám đòi hỏi một cái lạy của anh. Tình yêu không có
nghĩa gì hết. Đối với cha mẹ, từ giờ phút này anh đã xin cắt đứt bổn phận rồi mà.
Bốn cái lạy cuối cùng hướng về cha mẹ trả nghĩa sinh thành. Từ nay dù cha mẹ anh
có từ trần, anh cũng không được quyền quì lạy trước bàn thờ nữa. Anh đã cắt đứt
mọi dây liên lạc tìm cảm, cắt đứt mọi bổn phận riêng tư, như cái cây đã bứt lìa
hết mọi lớp rễ chằng chịt bám vào lòng đất và thay vào đó, cây sẽ nhú ra những
lớp rễ mới, bám vào những sinh môi mới. Em thuộc vào sinh môi cũ của anh. Đã cắt
đứt lìa rồi. Hai giọt nước mắt lặng lẽ lăn trên má tôi.
Cùng với các vị Sa-di, anh vừa tụng niệm bốn lời thệ nguyện vừa quỳ lạy liên hồi:
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Anh lạy vụng hơn mọi người, luôn luôn quỳ gối chậm hơn và đứng dậy cũng chậm hơn.
Có hồi vướng víu gấp gáp, anh lúng túng sắp ngã. Nhưng anh đã gượng lại được.
Nhìn anh quỳ lạy mà lòng em xót xa. Quỳ lạy là cái hình thái khiêm tốn cùng cực,
hạ mình cùng cực, là xóa bỏ cái ngã mạn to lớn mà ngoài đời, trước kia anh đã
dựng lên với tất cả niềm kiêu hãnh. Bây giờ, ở giữa chốn này, anh xếp lại đôi
cánh đại bàng.
Giọng trầm trầm của Hòa thượng chủ lễ :
Các giới tử, cái y này tiếng Phạn gọi là ca sa. Mặc y này có thể giải thoát tham,
sân, si... Tôi nay trao y này cho các vị, các vị phải gia pháp mà thọ trì.
Tiếng Hòa thượng vừa dứt, mỗi Sa-di lần mở chiếc y vàng mới tinh còn nguyên lằn
xếp choàng vào người, choàng ra ngoài chiếc áo xám đang mặc. Gần ba trăm vị vươn
tay duỗi vai, xốc cổ vuốt lưng... đã tạo ra một sinh hoạt rộn ràng. Nhiều vị
lúng túng trong việc tháo cái dải áo và cột lại dải áo. Nhiều vị vội vàng, xỏ
tay lộn ngược. Chương là một trong những người lúng túng. Ngoài đời anh vẫn vậy.
Anh như con hải âu bay vượt trùng dương, thách thức bão tố, nhưng để đứng trên
boong tàu thì chỉ làm trò cười cho lũ thủy thủ độc ác nhỏ nhen.
Một vị Tỳ kheo đứng cạnh đó đã tiến lại choàng chiếc y vàng lên vai anh. Vị đó
còn ân cần buộc dải áo giúp anh và vuốt thẳng bâu áo. Xin cảm tạ vị Tỳ kheo rộng
lòng lân mẫn. Chương hôm nay chỉ còn quý vị để giúp đỡ, để an ủi. Ngày trước đôi
mắt tôi chọn ca-vát cho anh. Đôi tay tôi chọn bít-tất cho anh. Mũi tôi chọn nước
hoa cho anh. Hôm nay thì những món kể trên trở thành kỷ niệm. Hòa thượng lúc nãy
có trao giới tướng :
Các ông suốt đời không đeo tràng hoa thơm, không xoa ướp dầu thơm vào người,
không xem nghe ca múa hát xướng, không ngồi giường cao, không tham chứa vàng bạc...
Mọi giới cấm đều không nặng đối với Chương. Khi ở ngoài đời anh cũng chỉ bị
nhuộm màu đời một cách lợt lạt. Luôn luôn anh là kẻ phong phú trong suy tưởng mà
bần cùng trong hưởng thụ.
Khi các vị Sa-da đã tề chỉnh y vàng đứng sát cạnh nhau thì cái quang cảnh giới
trương bỗng sáng rực hẳn lên. Màu vàng rực rỡ, màu của tâm niệm giải thoát, màu
của Đông Nam Á Châu tràn đầy ánh nắng và tràn đầy khổ đau. Chương bây giờ đã hòa
mình vào cái khối màu vàng kia rồi. Anh lẫn lộn trong đó, anh biến mất trong đó,
không thể chỉ nhìn sau lưng mà biết được anh, không thể chỉ nhìn dáng đi mà biết
được anh. Mà bây giờ cho dù có nhìn rõ mặt, thì anh cũng đã không còn là anh nữa
rồi. Anh đã thay đổi khác rồi.
Tiếng chuông trống đổ hồi chấm dứt buổi lễ. Các Sa-di sắp hàng một đi vòng trước
sân chùa, đi theo một hành lang dài để về các liêu. Từ môt góc hoa viên, đoàn
nhã nhạc bốn người mặc áo đen dài luân phiên nhau thổi những điệu kèn thật buồn.
Tôi rời chỗ đứng, đi ra phía hành lang, ẩn mình dưới một gốc trắc bách diệp.
Đoàn Sa-di lần lượt đi qua, áo vàng rực rỡ, mắt nhìn xuống đất, chân bước khoan
thai. Tiếng kèn thánh thót, tiếng kèn nỉ non như dẫn dụ gót chân, như nâng nhẹ
gót chân, những gót chân trần chạm nhẹ trên nền xi măng.
Một vị Sa-di đi qua, gương mặt nông dân nặng và chắc. Tiếp tới một vị nét mặt
ngây thơ, tuổi chưa đến 18. Một vị mày rậm và dài, mắt xếch như môn sinh của một
Thiếu lâm tự. Một vị gầy gò mảnh khảnh tuổi có đến 30. Một vị đẫm thấp mập mạp
dáng khoan dung yêu đời. Một vị da mặt đen đúa lấm tấm nhiều mụn. Chương lững
thững đi tới kia. Luôn luôn nét mặt anh rạng rỡ và dáng dấp uy nghi. Không một
cử động dư. Anh đi ngang qua chỗ tôi đứng. Ánh sáng nơi khuôn mặt bất động làm
tôi bỗng nhiên bối rối kinh sợ. Tự nhiên tôi quỳ xuống.
Hành động bất ngờ khiến có người lao xao di chuyển gần tôi. Họ đoán một biến
động, phòng ngừa một bạo động. Tôi phải giơ tay ra hiệu cho họ yên tâm. Tôi
không muốn xáo động những bước chân của Chương. Lúc nãy tôi có ý định đợi khi
anh đi qua tôi sẽ khẽ gọi tên anh. Tiếng gọi sẽ khua động cả tâm thức anh, sẽ
chấn động cả tâm linh anh, sẽ phá đổ cả cái mặt biển bình lặng của tâm hồn anh
hiện tại. Tôi tự tin bởi tôi biết tôi ngự trị nơi cái vùng trời Quá Khứ của anh.
Nhưng khi nhìn ánh sáng nơi khuôn mặt bất động của anh, tôi vụt thấy tôi là kẻ
bại trận. Vô nghĩa, phù du là tình yêu của một người đàn bà, là chính ngay người
đàn bà. Trời ơi! Một con phù du vừa có ảo vọng ngông cuồng là vỗ cánh lên để làm
giật mình một con sư tử.
Bóng của Chương đi khuất, nối tiếp theo là những bóng khác, cũng chậm rãi đều
đặn theo một nhịp điệu êm êm, mê hoặc của giọng kèn nỉ non. Tôi vẫn cứ quỳ đó
bất động, bất lực, cảm thấm thía lần đầu tiên thân phận phù du của mình.
(Võ Hồng)