"có
duyên" đến chùa chiêm bái bầu không khí An Cư đượm nhuần đạo vị như thời
còn ở Huế. Hoàn cảnh thay đổi, đất trời còn thay đổi theo; huống chi là
khói sương của một chân trời cũ. Tìm đâu ra một tiếng chuông chùa hay
chuông nhà thờ theo gió Nồm đồng vọng trên xứ Mỹ quạt nhiều hơn gió nầy.
Người Mỹ có vẻ thực tế hơn người Việt
khi cho rằng, về hưu không phải là gác kiếm xoa tay quy ẩn mà đây là một
cơ hội quý báu cuối đời để được sống và làm những điều mình thích, nhưng
khi còn đa đoan với chuyện áo cơm chưa làm được. Như có một mùa Hè đã
lâu lắm, gặp Trịnh Công Sơn ngồi quán cà phê Tôn Thành Nội Huế để mơ… dễ
sợ. Mơ khi đất nước thanh bình sẽ đi thăm cầu gãy vì mìn và thăm mộ bia
đều như nấm! Tôi thì không thế. Cũng là một gã “con trai của mạ” xứ Huế
thơ mộng, tộng bộng hai đầu, đang lên lão nhưng lại mơ đi thăm lại thế
giới của mình. Thế giới nhỏ bé riêng của tôi bắt đầu từ ngôi chùa làng
đổ nát và bà mẹ quê trên Quê Mẹ. Đời tha hương của tôi bắt đầu từ thành
phố Baton Rouge. Hình ảnh “Cây Gậy Đỏ” mang bóng dáng của ông Tây Nhà
Đèn hơn là chú Sam Cao Bồi Texas xứ Mỹ.
Ba mươi năm chưa về thăm lại Baton
Rouge, tôi không còn nhớ thành phố đầu tiên cưu mang gia đình tôi trên
đất Mỹ giờ như thế nào. Ngày ấy, từ trại tạm cư Bataan, Phi Luật Tân,
chúng tôi đến Mỹ theo diện “đầu trọc”; nghĩa là không có ai quen biết
hay bà con thân thích đón nhận giúp đỡ bước đầu. May được Hội Chiến Sĩ
Baton Rouge nhận bảo trợ. Ba mươi năm trước, gia đình tôi đặt chân xuống
xứ Baton Rouge lạ hoắc vào một đêm tối trời mùa Thu. Gia đình các anh
chị trong hội Chiến Sĩ đến đón tận phi trường. Từ bác Nguyễn Văn Chuân,
các anh Lê Bá Khiếu, Trần Huệ, Vũ Quốc Công đến các bạn Nguyễn Văn Hạnh,
Trần Bé, Cáp Côi… là những cựu chiến sĩ cấp tướng, cấp tá, cấp úy, cấp
sỹ vang bóng một thời; sau cuộc đao binh, nay làm từ thiện. Khi ngồi
viết những dòng nầy trên American Airline từ Sacramento về Baton Rouge,
nhắc đến cảnh cũ, người xưa tôi bỗng cảm thấy bâng khuâng với nỗi buồn
lay lắt khi đếm lại các anh chị trong Hội Chiến Sĩ Baton Rouge đã ra đi
gần một nửa. Ai cũng biết “nhân sinh tự cổ thùy vô tử” nhưng vẫn tự hỏi,
đời gặp nhau có mấy lần vui và sẽ được mấy lần còn gặp lại. Nên càng già,
nếu gặp được nhau thì phải đừng giận, bớt trách, ít cãi, thêm khen, lắng
nghe, đừng chê và tìm đến nhau với cái tâm buông xả.
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày
và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo
lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu. Buông xả là không chấp thủ,
không nắm giữ. Không nắm giữ tiền tài, danh lợi, vật chất khó nhưng mà
dễ vạn lần hơn buông bỏ những ý nghĩ đã chồng chất thành núi, thành đồi,
thành vết sẹo trong tâm mà người ta thường gọi là định kiến, là cố chấp,
là chấp trước. Đây chính là thủ phạm gây nên phiền não và đau khổ. Vũ
trụ và con người thì thay đổi từng nháy mắt mà người ta thì cứ khư khư
nắm giữ mãi cái nhìn, cái nghĩ về một đối tượng sự việc hay con người
nào đó từ ba bốn mươi năm trước. Người ta lôi những bóng ma đã lụi tàn
trong quá khứ và đuổi bắt những bóng quái ảo ảnh của tương lai mà quên
mất hiện tại. Người ta ngỡ mình đang đánh đấm tơi bời một “đối thủ” –
hoang tưởng –mà mình cho là gian ác, là kẻ thù nào đó hay ca tụng hết
lời một nhân vật quá vãng mình cho là kiệt hiệt anh hùng, nhưng thật ra
là đang mò trăng đáy giếng!
Bởi vậy, trong Lục Độ Ba La Mật của đạo
Phật thì hạnh Bố Thí đứng đầu. Bố thí không chỉ là cho mà còn là buông
xả. Tay cho mà tâm không cầu; cúng dường mà lòng không mong đợi mảy may
một hạt bụi khen chê. Buông xả là cánh cửa đầu tiên không khóa, không
cài để bước vào các hạnh khác. Không buông xả thì tâm chưa sẵn sàng bố
thí. Nhích bước đi đâu mà khỏi bị vướng víu khi lối về lại với chính
mình vẫn còn cửa đóng then gài.
“Trẻ khôn qua, già lú lại”, cổ nhân
Việt Nam đã từng ngắm nhìn và suy nghĩ đến bạc đầu khi nói lên hình ảnh
trung thực mà xót xa nầy. Cũng đành buông tay trước dòng chảy một chiều
“sớm như tơ mà tối đã như sương” của thời gian thôi! Tôi đang quên dần
tên những con đường đã đi qua và tên những người bạn đã gặp. Không buồn,
không vui trước sự mất còn; không vất đi oan uổng, không níu lại tiếc
thương mới mong học được bài vở lòng của hạnh buông xả. John Milton tin
có một Thiên Đường nên đã dày công đến mù mắt soạn nên thiên anh hùng ca
Thiên Đường Đã Mất – Paradise Lost – trong khi mất hay còn cũng chỉ là
một không hai đối với người thực hành hạnh buông xả.
Hôm nay, về lại thành phố ba mươi năm
trước, với cái tâm cố hướng tới nhưng vẫn còn quá nhiều vướng mắc, mong
học chút hương hoa về hạnh buông xả, tôi đi lặng lẽ như một chiếc lá rơi
trên đường vắng đang vào Thu. Chẳng mong, chẳng cầu, chẳng đợi; không
lấy, không cho… Tôi chỉ muốn tìm lại chính mình. Chuyến đi mở đầu như
một cuộc hành hương tâm lý. Những dòng nhật ký tiếp theo sẽ ghi lại
những gì tôi sẽ gặp trên đường hành hương vạn lý mà thật ra muôn kiếp cũng chỉ là sự lập đi lập lại tấm
thân nầy. Nếu không tìm ra một lối bứt phá hay một ngã rẽ thuận dòng thì
giờ đây cũng sẽ là mãi mãi. Về đâu theo lối mòn đơn điệu. Về đâu mà cứ
trôi lăn hoài. Dừng chân ở chốn nào đây hay long đong bước dài thêm mỏi
nản.
Trần Kiêm Đoàn
Baton Rouge, 28-7-
2011
Chùa Tam Bảo
Baton Rouge,
LOUISIANA 7-2011
Nhật ký hành hương 2
Đêm nghe tiếng chuông chùa Tam Bảo
Ngày 30 - 7- 2011
Chùa Tam Bảo được xây dựng trên một rừng sồi xanh (live oaks) rộng hơn 4
mẫu Tây. Những cây sồi cổ thụ tuổi cả trăm
năm, vươn cành che bóng nắng như những cây đa cao ngất từng xanh. Với người
Việt thì đây là một ngôi chùa có tên Tam Bảo; nhưng người Mỹ lại biết đến nơi
nầy như một trung tâm Thiền (Meditation
Center). Lối kiến trúc
cũng mang một tinh thần “Thiền Tịnh song tu” như thế. Cũng mái cong nhiếp tính
âm dương, cũng cổng tam quan chánh phụ tương hòa nhưng những đường nét và bài
bản kiến trúc cổ điển truyền thống như “song long chầu nguyệt, lưỡng long tranh
châu, long ly quy phụng” thì lại rất mờ nhạt, hầu như không xuất hiện rõ mặt ở nơi
nầy. Dáng uy nghi và mạnh mẽ từ cổng tam
quan đến chánh điện; từ bảng tên chùa cho đến bệ thờ đức Phật của tổng thể kiến
trúc đã làm cho cái nhìn đầu tiên của khách hành hương viếng chùa không trôi
vào lối mòn của thế giới chùa viện cổ điển trên quê hương. Tầm nhìn trôi vào nẻo khác. Nẻo về của “sông
chảy vào lòng nên đáy rất sâu.”
Đêm đầu tiên ở lại tại Chùa, tôi được ăn bữa cơm chay chiều không sửa
soạn vì thức ăn buổi trưa vẫn còn. Tối lại, dự khóa lễ thường xuyên hàng ngày
mở rộng cho mọi người, tôi có một cảm giác là lạ trong suốt hơn nửa giờ ngồi
xếp bàn yên lặng định tâm – mà nói cho nó “sang” là bán già thiền định – tôi
nghe được tiếng chuông chùa. Chuông đánh lên thì ai mà chẳng nghe. Nhưng thường
khi, tiếng chuông gióng lên được nửa chừng thì tắt vì lỗ tai người nghe đã đầy
ắp. Còn có khoảng trống nào đâu để dung nạp âm vang ngân vọng của hồi chuông
cho trọn vẹn. Dư âm nhỏ mềm và uốn lượn của tiếng chuông ngân sẽ tràn ra để nhường
chút khoảng trống hiếm hoi nào đó cho tiếng mõ, tiếng tang, tiếng quả lắc; có
khi còn thêm tiếng trống, tiếng gõ nhịp trên thành chuông, vành trống nêm vào
chật ních.
Thời kinh tối ở chùa Tam Bảo tương đối ngắn. Thời gian quỳ gối chưa quá 2
phút và bái lạy không quá nhiều. Nhưng dài nhất là thời gian tĩnh lặng định tâm.
Hầu hết thời gian hành lễ không có sự “mê theo” tiếng tán xếp, tán rơi mà chủ yếu
là đọc, hiểu và tin kính. Đồng tụng tối nay là một bài kệ thuần Việt trích từ phần phụ lục của Nghi thức Tụng Niệm
giúp làm cho thêm trong sáng ý nghĩa của phẩm kinh Hán Việt Phổ Môn. Đó là bài
kinh cầu an quan trọng nhất trong tín lý Đại Thừa; tuy vẫn tụng hằng ngày nhưng
ít người hiểu trọn vẹn Phổ Môn Phẩm, tương tự như Bát Nhã Tâm Kinh, Phật Thuyết
A Di Đà Kinh.
Một tâm lý chung rất thông thường là có hiểu
mới biết quý; có thấm mới biết thương. Kinh văn tối tăm không hiểu nghĩa mà
tụng đọc hằng ngằy để quý và thương là... thương vay quý mướn. Không thật!
Một thời nghi lễ đi qua mà còn lưu lại trong
tâm thức người đã dự khóa lễ những khoảng không gian tĩnh lặng của chiêm nghiệm
và tin kính là một thành công của vị trú trì chủ lễ. Người đến chùa dự lễ dẫu
có bề dày tu học đến đâu cũng thường ở thế bị động. Ngưởi chủ lễ là nhạc trưởng
của một dàn đại hợp xướng về nghi lễ.
Sau khóa lễ chiều, tôi trở về phòng nghỉ. Căn
phòng nhỏ không có gì ngoài cái giường vải bố dã chiến, chiếc gối đơn sơ và một
tấm mền mỏng vửa đủ đắp kín hai phần người. Đơn giản quá nên tôi không bị thứ
tâm lý hưởng thụ hay kiểu cách thư giản hoa hòe tới quấy phá. Ở chùa cũng có
những nhu cầu không khác ngoài đời: Cũng ăn, cũng mặc, cũng ngủ. Nhưng ngày xưa
các bậc minh sư đã dạy: “Sung tài, đạo tán.” (Lắm tiền thì tan đạo.) Và,
khuyên nên “Tam thường bất túc”. Nghĩa là phải để cho cái ăn, cái mặc,
cái ngủ thiêu thiếu một chút thì đời sống mới thăng hoa về mặt tinh thần.
Đêm về, một chút thao thức đến với tôi vì hồi
chiều uống liên tiếp mấy bình trà đậm với thấy Trú trì. Bốn bức tường trống
trơn, đôi mắt ngấm nước trà ráo hoảnh. Nhìn đâu cũng chẳng thấy gì. Bụng êm ả
không một chút quậy cựa, co thắt vì thịt cá. Cảm giác ngây ngây bia rượu thường
ngày của những buổi chiều tối cũng không. Nằm trên giường bố vừa đủ ngã lưng.
Vừa nhắm mắt lại để dỗ dành “giấc ngủ nước trà” thì mới cảm nhận cái thân xác
“an phận” của mình trãi ra xa. Một thân xác mà phải chứa nhiều chất kích thích
và bổ dưỡng sung mãn quá thì phải co lại mà đối phó với phản ứng sinh lý tự
nhiên, làm gì còn chỗ cho Chánh Niệm hiện tiền.
Một chút gì thiêu thiếu giữa đêm khuya ở chùa
Tam Bảo. “Tam thường bất túc” chăng?!
Tôi nghe như nguồn suối của tâm mình trải dài
xa tít tắp. Khi thân tâm chẳng bị cột trói vào những giới hạn đời thường, không
gian bên trong sẽ lớn lên vô hạn. Những thiền âm nội kết sẽ không còn bị che chắn
mà vang vọng tới cõi vô cùng. Tôi nghe từ trong sâu thẳm của lòng mình có tiếng
chuông đêm từ khóa lễ hồi chiều tối, vẫn còn ngân vọng u trầm.
Tiếng chuông là phương tiện thiện xảo của cửa
thiền để mở ngõ vào đời sống tâm linh. Chuông không cầu, không chấp, không vọng,
không trì. Tiếng đại hồng chung (chuông lớn) treo trên gác chuông đưa nhân
gian vào cõi tịch tĩnh hư không. Tiếng trung thính chung (chuông vừa) trên
bàn kinh đưa tập thể đạo tràng vào lễ nghi bái niệm. Tiếng tiểu văn chung
(chuông nhỏ) giúp từng cá nhân tự mình an trú trong giới hạn hay phối hợp nhịp
nhàng với tập thể thiền nhân.
Tiếng súng của cuộc chiến trên quê hương đã im
từ hơn 30 năm trước, nhưng đến nay vẫn còn nổ lách tách, đì đùng đâu đó trong hoài
niệm và trong lòng người. Sống cho quá khứ là chối bỏ hiện sinh. Tiếng súng muộn
màng sau một cuộc chiến đã tàn thường là ngôn ngữ của hận thù, chối bỏ. Tiếng
chuông là biểu tượng của yêu thương, tìm về. Lời ca đầy Bóng Mát của Phạm Thế Mỹ
vẳng tới cùng với tiếng chuông đêm giữa quê người thao thức: “ Bởi thương
tôi, bởi thương em, bởi yêu em, nên ghét hận thù.” Người không thương chính
mình trước thì sẽ không thương ai, yêu ai được cả. Có thương mình mới thương em,
yêu em. Em là em, là bạn, là người thân, là hơi thở, là tiếng chim, là cây cỏ,
là trăng sao mỗi ngày, mỗi đêm thường gặp. Với đạo Phật, làm được thân người thật
khó. Trăm nghìn vạn kiếp sinh diệt nổi trôi mong gì một lần gặp lại kiếp người
– bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ – nên thử lắng lòng nghe tiếng chuông. Chuông
ngân như một cuộc hành hương từ chốn phong ba về vùng rỗng lặng: Tu (?!). Tu là
tập sống làm người. Hướng một kiếp người gió bụi, nổi trôi về với ái hòa, an lạc.
Louisiana, chùa Tam Bảo.
Trần Kiêm Đoàn