tải xe cho đến khi chấm dứt một kiếp đời thầm lặng. Trên
đồng cỏ bình yên, ngựa thồ và chiên mã có khác gì nhau. Có khác chăng là mỗi
chiều về cất tiếng hí, âm vang của ngựa chiến vẫn còn chút âm hưởng ngang tàng
như còn tiếc thương thuở nghìn bờm gió lộng.
Cuộc binh đao giữa Tây Sơn và
Nguyễn Ánh chấm dứt trên chiến trường và thanh bình đã đến với lê dân, chim
muông, cây cỏ. Nhưng một cuộc chiến mới âm thầm, không biên cương, không tuốt
gươm trần và không vang rền vó ngựa lại bắt đầu khai diễn ở chốn cung đình.
Văn thần để khô nghiên bút. Võ
tướng tìm giá treo gươm. Những kiện tướng một thời áo bào thay chiếu, giờ quyết
hơn thua lấn lướt nhau, cố kiếm một chỗ quỳ gần vua để được ngài nhìn cho thấy
rõ mặt ở sân chầu. Vua chỉ muốn ngắm giang sơn hoa gấm và điện ngọc ngai vàng
trước mắt. Vua Gia Long thường tỏ vẻ khó chịu trước những lời nhắc nhở đoạn
đường quá khứ, nếm mật nằm gai; vua muốn quên những tháng ngày bị quân Tây Sơn
truy kích, cả tôi lẫn chúa phải chia chung mảnh ván qua sông, phải đói khát lênh
đênh từ Côn Sơn qua Phú Quốc. Vua chỉ muốn giữ ngai vàng vững chắc và chỉnh đốn
giềng mối quốc gia theo mô thức chính danh: Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử.
Những cử chỉ thân mật, gần gũi, góp lời, bông đùa như thuở còn bôn ba trên bước
đường chinh chiến giờ bị coi là phạm thượng, khi quân. Như quan thượng thư bộ lễ
đã đôi lần lên tiếng với quan Tổng trấn Bắc Kỳ Nguyễn Văn Thành, cánh tay phải
của vua trong mười năm chiến đấu, về thái độ thân mật của ông ta đã làm vua khó
chịu, giảm mất thiên uy trước quần thần.
Càng ngày, những văn võ thần một thời
giúp Nguyễn Ánh làm nên sự nghiệp như Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành, Lê
Văn Duyệt, Nguyễn Văn Khiêm, Nguyễn Thái Nguyên, Lê Quang Định... chia phe kết
nhóm, thành những đối thủ của nhau giữa chốn triều đình: Quan thì sợ bị vua thất
sủng, vua thì sợ quan làm phản tiếm ngôi, cho nên nghi lễ của triều đình mỗi
ngày một nặng nề nghiêm nhặt. Quan chức thì tìm cách dò xét nhau để mật tấu,
tâng công. ( Theo Thực Lục Chính Biên) .
Trong số những người hiếm hoi chọn
lựa thái độ “công thành, thân thoái”, theo gót Phạm Lãi, Trương Lương thuở đó là
một vị hoàng thân nổi tiếng tài cao học rộng. Vị hoàng thân sống như một nhà ẩn
sĩ tại phủ Ông Hoàng khiêm tốn phía Tây Bắc chùa Linh Mụ, ít người được gặp mặt
nhưng hầu như mọi người đều biết tiếng qua tin đồn. “Trí Hải” - là biệt hiệu mà
người đời đặt cho ông để chỉ trí óc ông rộng mênh mông như biển cả. Tin đồn rằng
trong phủ của ông hoàng Trí Hải không có vàng bạc châu báu mà chỉ chứa toàn sách
vở bút nghiên. Sách ông đọc chất cao như núi và mực ông mài để chép sách làm thơ
nhiều đến nỗi đen đặc cả ngự hồ. Trí Hải đam mê sách vở đến độ có những gia nhân
phục dịch tại phủ Ông Hoàng đã hơn 3 năm mà chưa hề được tận mắt thấy chủ nhân
lần nào.
Trí Hải là niềm hãnh diện chung của
hoàng tộc. Vua Gia Long lên ngôi Hoàng đế, thống nhất sơn hà nhưng giới sĩ phu
Thanh Nghệ Tĩnh và Bắc Hà vẫn thờ ơ, không tỏ lòng quy phục vì họ vẫn hoài niệm
Lê triều, vẫn hướng về “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”. Dưới mắt họ, Nguyễn Ánh,
nhân vật thời đại có ý chí kiên trì và sắt đá nhưng thiếu cái hào quang bừng
bừng sấm dậy của Nguyễn Huệ, mà cũng chẳng xuất thân từ hàng vương tôn hiển hách
đất Thăng Long. Trí Hải vô hình chung đã trở thành một đáp số của vấn đề. Trong
chinh chiến, ông đã vào sinh ra tử phò vua xưng nghiệp đế. Lúc thanh bình ông
quy ẩn không chịu nhận một tước vị hay ân sủng nào vua ban. Trí Hải chỉ xuất
hiện vào những dịp cực kỳ trọng đại của triều đình như trong các dịp quốc lễ
thiết đại triều nghi hoặc để tiếp kiến các phái bộ đại sứ thần ngoại quốc. Với
dáng dấp uy nghi, kiến thức uyên bác, và tài ứng biện trùng trùng như mây bay
nước chảy của ông bên cạnh vua, tuy Trí Hải không nắm giữ một địa vị nào rõ rệt
nhưng ông lại được coi như một vị tối uy thần. Ông là vị hoàng thân duy nhất
được vua đích thân xa giá đến đàm đạo tận tư dinh. Có một thời, nhiều nhân vật
tai mắt hàng đầu của hoàng tộc và triều đình coi Trí Hải như là tai mắt của vua.
Họ nườm nượp kéo đến tiếp kiến vị hoàng thân để nói tốt người nầy, chê bai người
nọ với ước mong đến tai vua cho thỏa lòng ao ước vùi dập kẻ thù hay được hoàng
thượng gia ân ban bổng lộc. Nhưng tất cả đã rơi vào im lặng vì Trí Hải đã
nghiêng tai thần sấm mà nghe chuyện thế nhân nên chuyện thị phi chỉ là tiếng ồn
vô nghĩa. “Nhãn để phù vân khan thế sự - Mắt nhìn thế cuộc giống mây trôi”, nên
Trí Hải đã được đời trả lại sự cô liêu của một kẻ đứng bên lề.
Đất nước và vương triều trải qua
bao đổi thay của buổi đầu dựng nghiệp nhưng vị hoàng thân đó vẫn say sưa vây màn
đọc sách. Có chăng một người bạn văn chương là cậu ấm Nguyễn Văn Thuyên, con
trai của đệ nhất công thần Trung quân Nguyễn Văn Thành. Ấm Thuyên là một công tử
nổi tiếng tài hoa phong nhã của kinh thành Huế đương thời. Thuyên đỗ cử nhân rất
sớm nhưng không chịu ra làm quan, mà lập hội Tao Đàn ở phường Đông Ba để tiêu
khiển bằng cầm, kỳ, thi, tửu. Trí Hải một thời kết bạn tâm giao với Ấm Thuyên và
rất tương đắc trong những cuộc bình thơ, xướng họa, nhưng cái khác của hai tâm
hồn đã đưa họ đi xa mỗi người một cõi. Trí Hải với kinh nghiệm thiếu thời đi đó
đi đây với giám mục Bá Đa Lộc đã sớm nhận thức được rằng, có một thế giới phương
Tây đằng sau chân trời đang bừng bừng trỗi dậy. Có những lối suy nghĩ khác với
Luận Ngữ, Trung Dung. Có nhiều cách hay hơn để thể hiện lòng trung quân ái quốc
hơn là chỉ biết phủ phục ở sân chầu. Ấm Thuyên cũng cưu mang cái hào khí của
tuổi trẻ, nhưng ước mơ xa nhất vẫn chưa ra khỏi xã hội hoàng kim thời Nghiêu
Thuấn. Người hùng lui tới cũng chỉ quanh quẩn hình ảnh tráng sĩ cầm gươm lên
ngựa hay mài kiếm dưới trăng. Hành động bão nổi cũng không xa hơn Kinh Kha qua
bờ sông Dịch với tâm sự kẻ sang Tần. Sinh hoạt của Ấm Thuyên và thi hữu trong
Hội Tao Đàn trở nên phù phiếm, vui buồn với phong hoa tuyết nguyệt, khóc gió
thương mây. Ấm Thuyên càng chiêu mộ những danh sĩ trong giới bút nghiên, Trí Hải
càng rút về lặng lẽ, cuốn mình trong vỏ ốc cô đơn.
Năm Gia Long thứ 13 (1814), vụ án
“Văn chương phản nghịch” đã làm xôn xao khắp nước và lay động tận gốc rễ giới
bút nghiên đương thời của Kinh Thành Huế.
Nguyên nhân vụ án là cậu Ấm Nguyễn
Văn Thuyên nghe danh ở Thanh Hóa có hai nhân vật lỗi lạc là Nguyễn Đức Nhuận và
Nguyễn Văn Khuê, nên đã làm một bài thơ tâm tình sai người nhà tên Nguyễn Trương
Hiệu mang thư ra Thanh Hóa và mời họ vào Huế chơi. Bài thơ như sau:
Văn đạo Ái Châu đa tuấn kiệt,
Hư hoài trắc tịch dục cầu ty.
Vô tâm cử bảo Kinh Sơn phác,
Thiên tướng phương tri Ký Bắc kỳ.
U cốc hữu hương thiên lý viễn,
Cao cương minh phượng cửu thiên
tri,
Thử hồi nhược đắc Sơn Trung tể,
Tá ngã kinh luân chuyển hóa ky.
Sử gia Trần Trọng Kim dịch nghĩa:
Ái Châu nghe nói lắm người hay,
Ao ước cầu hiền đã bấy nay.
Ngọc phác Kinh Sơn tài sẵn đó,
Ngựa kỳ Ký Bắc biết đâu thay.
Mùi hương hang tối xa nghìn dặm,
Tiếng phượng gò cao suốt chín mây.
Sơn Tể phen này dù gặp gỡ,
Giúp nhau thay đổi hội cơ nầy.
Xét về mặt văn chương thuần túy
thì đây là một bài thơ hay, mặc dầu hơi sáo ngữ và quá tâng bốc kẻ hiền tài chưa
gặp mặt. Tuy nhiên hai câu
kết đã bị suy diễn bởi kẻ thù và bởi lòng nghi ngờ âm mưu thoán nghịch thường
xuyên và sẵn có trong lòng của vua Gia Long, nên mười bốn chữ oan nghiệt sau
chót đã gây nên thảm trạng ngút trời: Đệ nhất công thần Nguyễn Văn Thành phải tự
tử trong ngục và con trai Nguyễn Văn Thuyên bị án phân thây.
Sơn Trung Tể là “Tể Tướng Trong Núi”,
dựa theo tích Đào Hoàng Cảnh, đời Lương Vũ Đế, học thức uyên bác mà không muốn
ra làm quan, vào núi ở ẩn. Mỗi khi vua có chuyện quốc sự phải cho người vào núi
tìm hỏi kế. Vì vậy người đời sau đặt là “Sơn Trung Tể Tướng”. Xét về mặt chính
trị, thì bài thơ trên đây rất dễ bị xuyên tạc và trở thành lợi khí để hãm hại
phe thù nghịch trong thời quân chủ chuyên chế đa nghi, bảo thủ và hẹp hòi. Cái
chết của Nguyễn Văn Thành còn là vì ông xuất thân từ hàng quý tộc, văn võ toàn
tài, lại có cậu con trai nối dõi tài hoa. Ông lại có ý coi thường Tả quân Lê Văn
Duyệt, xuất thân con nhà dân dã, lại là một họan quan. Oái oăm thay, vua lại
giao vụ án cho Lê Văn Duyệt xử nên cha con Nguyễn Văn Thành đã bị hạ ngục ngay
tức khắc.
Sau thảm họa Ấm Thuyên, Trí Hải
càng nhận rõ hơn cái phù phiếm của sách vở từ chương và cái bọt bèo phi lý của
thân phận con người. Đã có tiếng thở dài trăn trở trong thơ ông:
Bắt chước người xưa ta vây màn
đọc sách,
Ba năm trường không thấy mặt
nhân gian.
Khi ngoảnh lại thấy hồn bay mây
trắng,
Và quanh ta cỏ dại mọc hoang đường!
(P.Đ.T)
Rồi đến một ngày đầu
Xuân không lâu sau đó, cả kinh thành và hoàng cung nhốn nháo khi nghe tin Trí
Hải cùng đám tùy tùng lặng lẽ rời tư dinh trong một cuộc hành trình đi về hướng
Tây Bắc, tìm lên núi Ngọc Trảng cách xa kinh thành cả năm bảy ngày đường.
Theo dõi chuyến đi của Trí Hải,
người ta kể lại rằng:
Trí Hải đã vượt suối trèo non tìm
lên chùa Từ Vântrên núi Ngọc Trảng, phía Tây núi Kim Phụng, đến gặp thiền sư
Trúc Lâm, một nhà sư nổi tiếng đạo cao đức trọng của phái Liễu Quán thời đó, để
hỏi con đường đi tìm chân lý.
Trong hang núi cheo leo chỉ có mây
bay và gió thoảng, Trí Hải đến gặp sư Trúc Lâm đang nhập thiền định. Chờ mãi vẫn
thấy nhà sư im lìm như tượng đá. Đã ba ngày chờ đợi, vẫn không thấy nhà sư động
tĩnh, mặc dầu hơi thở điều hòa chứng tỏ nhà sư ở trong trạng thái tham thiền
nhưng tỉnh thức.
Cuối cùng Trí Hải phải lên tiếng:
- Thưa thiền sư, tôi chỉ là một kẻ
vô danh, được người đời kêu là Trí Hải. Kẻ hậu sinh vốn xuất thân từ chốn hoàng
cung nhưng bình sanh ham mê đèn sách. Suốt 10 năm trường chuyên tâm nghiên cứu,
giam mình trong thư phòng, học cho đến khi thuộc làu kinh sử Đông Tây kim cổ với
ước mong luận ra con đường cứu đời giúp nước. Nhưng càng ngày, chữ nghĩa càng
làm cho tôi hôn mê trong trận đồ bát quái của sách vở từ chương, không tìm ra
được con đường tiến thoái để thực sự đi vào cuộc đời. Nay được nghe danh thiền
sư là bậc đạo cao đức trọng và đạo Phật của thiền sự là giáo lý cao siêu cứu khổ
giúp đời. Bởi vậi hôm nay tôi lặn lội đến đây xin thỉnh ý thiền sư để mong tìm
ra một con đường, không phải là con đường đi vào rừng thiêng của chữ nghĩa kinh
sách, mà chính là con đường đi vào cuộc đời.
Sau câu nói đó, Trí Hải xiết bao
vui mừng khi thấy sư Trúc Lâm từ từ mở mắt nhìn thẳng vào người viễn khách. Ánh
mắt của nhà sư trong như pha lê, sắc sảo như bảo kiếm và tràn đầy ánh sáng của
một buổi bình minh. Vẫn im lặng! nhưng Trí Hải cảm thấy như người đối diện đang
nhìn xuyên suốt quá khứ và vị lai của mình qua ánh mắt. Nhà sư mở miệng. Trí Hải
nín thở đợi chờ. Nhưng tất cả chỉ là hai tiếng gọn lỏn phát ra từ cửa miệng nhà
sư:
- Con gà!
Từ những triền núi thấp thoáng
giữa rừng mây khói xa xăm bên kia có tiếng vọng lại:
- Con gà! Con gà! Con gà!
Âm thanh nhẹ như gió lá xào xạc
qua rừng cây, nhưng cũng mạnh như hải triều âm dâng lên từ phương Đông huyền
diệu.
Trí Hải hồi hộp đợi chờ những lời
lẽ minh triết tiếp theo nhưng nhà sư đã từ từ nhắm mắt lại. Ba ngày tiếp theo,
núi vẫn núi, cây vẫn cây, và im lặng vẫn chìm sâu trong im lặng. Người viễn
khách bâng khuâng tự hỏi:
- Chỉ có vậy thôi sao?!
Trên yên ngựa quay về lối cũ, đoàn
tùy tùng chỉ thấy một hoàng thân Trí Hải đầy ưu tư và lẩm bẩm một mình: “Con gà!
Con gà!”
Tiết Thanh Minh năm Qúy Dậu, số
người đi dự hội Đạp Thanh ở kinh thành thưa thớt vì tất cả đều tò mò tập trung
đến dinh hoàng thân Trí Hải để tham dự hoặc quan sát, theo dõi “Đại Hội Con Gà”
sẽ được tổ chức tại đó.
Số là sau khi từ giã thiền sư Trúc
Lâm trở về Thái Ấp, Trí Hải đã cho mời tất cả văn nhân, tài tử, học giả nổi
tiếng đương thời về dinh để truy tìm cho ra mọi triết lý cao xa có liên quan đến
giống gà. Hơn 3 ngàn cuốn sách được đem ra tra cứu. Vô số định nghĩa về gà do
hơn một ngàn học sĩ đương thời cốnng hiến vẫn không làm thỏa mãn vị hoàng thân
đang muốn thoát khỏi mê đồ của chữ nghĩa nầy.
Giống gà hiền lương, vô tư đã bị
những đầu óc thông thái nhìn qua những cặp kính màu: màu đỏ của tham vọng, màu
xám của hận thù, màu rong rêu của nịnh hót, màu phôi pha của nông cạn, màu âm u
của si mê... Con gà sống thực giữa cuộc đời bỗng nhiên mất hút, mỗi khuynh
hướng vẽ ra một hình ảnh con gà kỳ dị riêng tư. Con gà đã trở thành một cái cớ
để cho người ta bám vào đó mà leo lên giấc mơ khanh tướng, công hầu.
Có nhiều vị khoa bảng đi xa hơn cho
rằng gà là một linh vật vì gà là một trong tam sinh để cúng thần linh. Giò gà
mang thông điệp của thần thánh nên có người giết gà cầu nguyện để đem giò coi
bói với hy vọng tìm ra bí quyết đời mình. Có nhiều nhà thơ, nhà văn lấy làm tiếc
và trách nhà sư Trúc Lâm tại sao không nói đến con én mùa Xuân, con quốc nhớ
nước, con sơn ca hót lồng lộng trên trời xanh, con hoàng oanh hát chào nhà quý
tộc... mà lại nói đến con gà thấp bé tầm thường.
Suốt một tháng trường, Trí Hải càng
cố đào sâu về triết lý con gà, trí óc ông lại càng rối loạn vì những mớ lý
thuyết bòng bong của những nhà thông thái chỉ biết vùi đầu trong sách vở như ông.
“Đại Hội Gà” là một cố gắng cuối
cùng của Trí Hải để bước ra khỏi tháp ngà của sách vở, lý thuyết suông mà đi vào
thực tế. Thực tế ở đây là những gì ngắm nhìn và sờ mó được. Trong đại hội nầy,
Trí Hải kêu gọi bất cứ ai có những loại gà, giống gà độc đáo và kỳ lạ nhất hãy
mang về tham dự đại hội. Đến giờ Ngọ, cái dinh cơ đồ sộ của hoàng thân Trí Hải
đã đầy đặc những gà. Hơn 500 loại gà từ rừng núi cho đến đồng bằng, sông biển
đều được đem ra đấu xảo. Mọi người xem đều hứng thú: có những giống gà kỳ lạ như
rồng, như phượng, như gia súc, như rắn rết, như chim muông. Chỉ riêng Trí Hải
vẫn thất vọng, hờ hững đắm mình trong suy tư. Ông muốn quên đi chuyện “Con Gà”
nhưng ánh mắt kỳ diệu và danh tiếng lẫy lừng của sư Trúc Lâm vẫn đè nặng trí óc
và tâm hồn ông như một nghiệp chướng nặng nề.
Rừng nhân sĩ đã lui gót, đại hội gà
đã tàn, Thái Ấp đã trở về nếp sinh hoạt thường nhật với cảnh êm đềm và tịch liêu
của nó. Suốt mấy đêm liền Trí Hải vẫn ngồi đăm chiêu trong đêm thâu.
Đêm xuống đã lâu rồi, gia nhân đã
mấy lần nhắc hoàng thân dùng trà khuya đi ngủ mà Trí Hải vẫn ngồi yên lặng trong
sương đêm. Ông nhìn bầu trời đầy sao, nghe gió về trong lá, cảm nhận cái mát
lạnh mơn man của mùa Xuân măng tơ và chìm lắng trong dòng suy nghĩ. Mùi hoa phù
dung thoang thoảng cho ông biết đã quá nửa đêm. Ông ngước nhìn những vì sao hiu
hắt và thao tức trăn trở cho đến quá canh tư. Giữa không gian vô cùng và thinh
không lắng đọng, tiếng chuông công phu buổi sớm của chùa Thiên Mụ bỗng vang lên,
ngân nga, nhỏ dần rồi tắt lịm như biểu hiện cho một kiếp người. Từ trong Thái Ấp,
một tiếng gà gáy sáng vừa cất lên. Tiếng gà gáy như một thứ âm thanh nẩy mầm từ
lòng đất, vắt qua bầu trời và rơi vào một thế giới xa xăm. Hồi chuông công phu
quyện với tiếng gà gáy sáng có một sức hút lạ lùng làm cho Trí Hải lắng nghe.
Tiếp theo là tiếng gà gáy sáng thi nhau rộn rã đủ sức lay động cả bình minh và
tâm hồn Trí Hải. Có tiếng gà thanh thoát cao vút với nhiều cung bậc u trầm như
tiếng hò ru con của người cô phụ. Có tiếng gà trong suốt mời gọi tươi vui. Có
tiếng gà vừa cất lên đã vội vàng rơi xuống. Có tiếng gà khàn khàn như tiếng ho
hiu hắt của cụ già. Trong một khoảnh khắc thời gian, trí óc của vị hoàng thân
lênh đênh, chơi vơi rồi bùng vỡ ngập tràn ánh sáng. Ông ngạc nhiên nhìn lại
chính mình rồi tự hỏi:
- Ta là ai? Một đứa trẻ chưa sanh
hay một cụ già đã chết? Tại sao mấy chục năm qua ta chưa hề nghe được một tiếng
gà gáy sáng? Phải chăng chỉ vì ta quên hiện tại rồi loay đào bới một dĩ vãng xa
xăm và sống mơ mộng cho một tương lai chưa đến nên đã bao năm qua ta không biết
trên đầu có một bầu trời xanh, bên cạnh ta có những con người thân thương đang
sống, và trong xóm kia có những tiếng gà?
Tiếng chuông chùa vẫn ngân nga
trong gió, tiếng gà vẫn rộn rã trong sương, Trí Hải cảm nhận sự hiện hữu của thế
giới, của chính mình và bỗng nhiên cảm thấy một niềm hạnh phúc vô biên tràn đầy
trong hơi thở.
- Cuộc đời chính là đây! Sao ta
chưa vào đời? Trí Hải đứng bật dậy đúng lúc người hầu cận trung thành vừa bước
đến, cất giọng run run:
- Bẩm hoàng thân đại nhân, trời đã
sáng. Xin mời ngài dùng chén trà sen kẻo nguội. Trí Hải cười vui thành tiếng,
nói với người hầu cận:
- Này lão nhân! Ngươi cũng thức
trắng đêm với ta sao? Ô! Trà thơm quá, ngươi ngồi xuống uống với ta một chén đi
nào.
Lão hầu cận mở to mắt, há hốc mồm,
tay chân run rẩy tưởng chừng như đang sống trong mơ. Đã hơn 20 năm hầu cận vị
hoàng thân nầy, người lão bộc sống trung thành và âm thầm như chiếc bóng. Đối
với lão, Trí Hải thật phải là một người lạnh lùng, đôi mắt lúc nào cũng chăm
chăm vào trang sách, ra lệnh cho lão bằng những cái vẫy tay và lắc đầu hay gật
đầu nửa vời mệt mõi. Bỗng dưng hôm nay lại xuất hiện một Trí Hải biết cười, biết
khen trà thơm và kinh khủng hơn nữa là mời lão cùng uống trà. Người lão bộc chỉ
có thể phản ứng bằng những lời lắp bắp:
- Dạ bẩm đại nhân, kẻ... nô bộc
không... không dám...
Trí Hải bật cười thành tiếng, đùa
vui vời ông lão:
- Ông lão đừng sợ. Đêm qua ta thức
suốt đêm vì có ông tiên trên trời hiện xuống bảo ta phải vui với mọi người và
nhất là sáng nay phải uống trà với lão. Nào ngồi xuống, chúng ta cùng uống trà
để ông tiên khỏi buồn lòng và quở phạt ta.
Trí Hải đã đánh trúng tâm lý sùng
bái vị hoàng thân như tiên thánh, nên ông lão đành cúi đầu vâng dạ nhấp chén trà
để vui lòng chủ.
Trong cuộc đối ẩm bất đắc dĩ, ông
lão toàn “Dạ, thưa” và chỉ dám trả lời cung kính mỗi khi được hỏi, thế nhưng đối
với Trí Hải lại thích thú vô cùng. Ông đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác
khi khám phá ra rằng, vị lão nô âm thầm như chiếc bóng bên cạnh ông mấy chục năm
không phải là một thứ vật dụng trong nhà biết cử động mà là một con người thâm
trầm, đầy suy tư và chia xẻ.
Bao nhiêu năm qua, người lão bộc và
vị hoàng thân sống kề cận nhau như hình với bóng nhưng chưa một lần nhìn thấy
nhau. Vị hoàng thân như một hòn núi thái sơn sừng sững nhưng lạnh lùng và cô
quạnh. Người lão bộc như một khe suối nhỏ nhoi róc rách chảy dưới chân cầu. Sự
khai ngộ hôm nay như một trận đại hồng thủy để cho khe suối và núi cao biết nhau
rằng mỗi giọt nước tầm thường đều mang tính chất của đại dương và mỗi ngọn núi
uy nghi đều đến từ sõi đá.
Mãi uống trà và trò chuyện, mặt
trời đã mọc quá cây sào. Biên giới ngăn cách giữa ông lão và vị hoàng thân dần
dần nhỏ lại. Đến gần trưa thì những nhười dân trong Thái Ấp đã thấy hai người
khách lạ có dáng dấp quý tộc nhưng ăn mặc tầm thường giống nhau, một già, một
trẻ đi bên nhau vào tận mỗi thôn cùng xóm vắng của những vùng lân cận kinh thành.
Vốn khao khát cuộc sống và yêu
thương con người đến quặn mình, Trí Hải cố gắng phá tung những chấn song của
chiếc lồng son quý tộc đã nhốt ông hơn nửa cuộc đời để xây dựng cái tín hiệu
giữa quần chúng và lãnh đạo, đó là tín hiệu của trái tim. Dần dà, Trí Hải đã học
được tiếng gáy của con gà, đó là tiếng gáy hồn nhiên, trong sáng, gần gũi, thân
thương không ẩn chứa một mưu mô, một định kiến, một mặc cảm đen tối nào cả.
Sau vụ gặt hái tháng Tư, những
người nông dân trong Thái Ấp bỗng xôn xao và hoảng hốt khi họ biết rằng “ Thầy
Khoá lỡ thời,” cái tên thân mật dành cho người thư sinh tuổi trung niên hàng
ngày gần gũi, chuyện trò, hát dặm với trai làng, chia xẻ với các cụ già, đùa vui
với đàn trẻ nhỏ, chính là hoàng thân Trí Hải, vị chủ nhân tối cao của Thái Ấp mà
họ trước đây chỉ nghe tên chứ chưa từng biết mặt.
Từ khi khám phá ra người đàn ông,
nhân hậu, xuề xòa đó là hoàng thân Trí Hải, mối giao tình hồ hởi, thân thương
giữa nhà đại quý tộc và quần chúng bình dân mới chợt loé lên đã chìm hẳn lại.
Trí Hải đi đến đâu mọi người đều e dè, cung kính, xa cách vì sợ mang tội bất
kính. Cái biên cương giữa bình dân và quý tộc đã do lịch sử xây lũy, đắp thành
cao chất ngất đâu dễ gì phá đi một sớm một chiều. Trí Hải muốn bước vào đời
nhưng vẫn đi bên cạnh cuộc đời. Giới qúy tộc và bình dân chưa thể nhận ra nhau
vì họ không nói cùng chung một ngôn ngữ, không cùng một suy tư và cũng chẳng
chung nhau những nỗi vui buồn qua tiếng cười hay tiếng khóc.
Những đêm dài trăn trở lại đến.
Tiếng chuông công phu chùa Thiên Mụ vẫn thanh thoát, tiếng gà vẫn giục giã đầu
thôn nhưng Trí Hải lại phờ phạc với nỗi bơ phờ của người lạc bước giữa cuộc đời
tầm thường mà cuốn hút nầy. Ông muốn đưa cả hai cánh tay ra cho đời bắt lấy,
nhưng đời lại lạnh lùng và cung kính khước từ. Trí Hải có cảm tưởng chơi vơi như
mình là kẻ ngồi ở đầu non để nhìn khe suối róc rách reo vui dưới lưng đèo. Thèm
một ngụm nước trong nhưng khi xuống lưng đèo thì nước rút xuống đồng bằng và khi
cố tới đồng bằng thì nước lại trôi xuôi về biển.
Lại vang vọng trong đêm thâu tiếng
chuông Thiên Mụ. Tiếng chuông như hữu tình mà vô ngã vì muôn năm vẫn thoát ra
ngoài buồn vui của nhân thế.
?
Chùa Từ Vân lặng lẽ đón hai người
khách cũ đã mệt nhoài vì sương nắng đường xa. Trí Hải và lão bộc âm thầm khăn
gói lên đường tìm sư Trúc Lâm. Vẫn chỉ là núi rừng và khung cảnh cũ nhưng cái
lạnh của núi rừng nhức buốt từng thớ thịt mà sư Trúc Lâm vẫn tham thiền trong tư
thế kiết già với mảnh áo choàng đơn sơ. Đợi đến ngày thứ ba, Trí Hải mới đến
bên nhà sư lên tiếng:
- Thưa thiền sư, theo lời của ngài,
tôi đã học được tiếng gáy của con gà; mở lòng thật rộng và cúi mình thật thấp để
gần gũi với lê dân nhưng rốt cuộc tôi vẫn bị tách rời trơ trọi đứng bên lề. Vì
vậy, tôi trở lại đây để xin theo thiền sư học hỏi. Lần nầy chưa tìm ra hướng đi
tôi quyết sẽ không xuống núi trở về. Xin thiền sư nhủ lời chỉ bảo.
Sư Trúc Lâm nhìn dịu dàng vào đôi
mắt của người viễn khách, môi mĩm nụ cười mát dượi và bao dung như giọng nói ấm
áp thật bất ngờ:
- Thiện hữu, mời người ăn trước đã.
Trí Hải thắc mắc:
- Thưa thiền sư, ba ngày qua tôi đã
ăn nhiều bữa và ăn no lắm rồi.
Nhà sư trả lời và nhắm mắt vào
thiền định:
- Không! Thiện hữu chỉ gắng nhét
cho đầy bụng chứ chưa ăn.
Trí Hải lui về nhà trai khi bữa cơm
chay buổi chiều đã được người lão bộc dọn sẵn chờ đợi. So với những bữa ăn hàng
ngày thịnh soạn của một ông hoàng thì bữa cơm chay đạm bạc tại một ngôi chùa heo
hút trong rừng sâu như chùa Từ Vân nầy trông nghèo nàn một cách tội nghiệp. Trí
Hải lặng lẽ ngồi xuống cầm đũa, nhìn chén cơm bốc khói trước mặt và còn nghe
văng vẳng lời vọng như chuông vang của nhà sư “Thiện hữu chỉ gắng nhét cho đầy
bụng chứ chưa ăn!”. Trí Hải cầm đũa, nhắm mắt hít một hơi dài như muốn tập trung
tất cả mọi cảm giác vào cái “ăn”. Mùi cơm dìu dịu nhẹ nhàng len vào khứu giác
và lần đầu tiên ông ngạc nhiên hỏi người lão bộc đứng bên cạnh:
- Cơm hôm nay nấu bằng loại gạo gì
mà lại thơm ngào ngạt như vậy?
Đến lượt ông lão ngạc nhiên:
- Bẩm tôn ông, chùa nghèo không có
gạo de An Cựu hay gạo Nàng Hương như ở dưới phủ nên phải nấu tạm cơm gạo hẩm.
Gạo nầy là gạo xấu nhất trong các loại gạo đó ạ.
Trí Hải gật gù và miếng cơm vào
miệng, gắp rau rừng chấm với tương. Ông vừa nhai vừa cảm nhận được vị ngọt và
bùi của cơm; vị rau rừng vừa ngọt vừa pha chút chua chua chát chát, rau luộc
xanh thoang thoảng như mùi lan núi; những hạt tương đậu nành vỡ ra, mặn mà và
ngọt lịm trong từng kẽ răng.
Trí Hải khám phá ra một thế giới
nhỏ bé nhưng kỳ diệu trong từng miếng ăn. Ông như một đứa trẻ mới được bú giòng
sữa Mẹ Thiên Nhiên lần đầu trong đời. Ông quên mùa đông giá lạnh bên ngoài, quên
người lão bộc đứng hầu bên cạnh, quên tất cả những chân trời mơ ước cao xa. Ông
nghe được cả những cảm giác run run phập phồng trong thân thể mình đang náo nức
đón lấy nguồn sống từ hạt đậu, miếng cơm. Nước mắt ông ứa ra vì biết ơn những
bàn tay đã làm ra hột gạo, trân trọng những mạch đất đã nuôi lớn cọng rau.
Người lão bộc dọn dẹp mâm cơm với
chén dĩa sạch trơn và nghe Trí Hải nói với bóng mình: “Tội nghiệp mình!
Bao năm qua ta chỉ nhét thức ăn cho đầy bụng, bây giờ mới được
ăn!”
Sáng hôm sau, Trí Hải đến gặp sư
Trúc Lâm.
Ông đã hơi quen
với không khí tĩnh lặng trong ngôi chùa cổ kính này. Ông không còn thấy khó khăn
khi nói với nhà sư như nói với một bức tượng:
- Thưa thiền sư, tôi đã ăn và đã
hiểu lời dạy của ngài: “Có thì có tự mảy may.
Khi không
cả thế gian này cũng không.”
Sư Trúc Lâm lại mỉm cười.
Nụ cười trong sáng và dễ dãi quá,
không ẩn chứa một gợn phê phán, khen chê. Nhà sư hỏi Trí Hải, giọng vô tư nhưng
tha thiết như nó với một đứa trẻ lạc đường:
- Thiện hữu có thấy con cọp nằm và
con công múa ở đâu không?
Trí Hải trả lời thành thật:
- Từ dưới nhà trai lên núi tôi
chẳng thấy gì cả.
Nhà sư nói tiếp trong dáng cười
chưa tắt:
- Vì thiện hữu chỉ nhìn mà không
xem nên chưa thấy!
Vốn đã quen dần với lối nói của
nhà sư.
Trí Hải còn hoang
mang nhưng biết hỏi thêm cũng vô ích nên rời chùa, trở lại khu nhà trai dưới
chân núi. Ông uống tách chè xanh và lững thững bước ra ngoài.
Núi rừng mùa Đông lạnh và trơ vơ
nhưng lại mang vẻ đẹp lão tùng chịu đựng tuyết sương. Lá khô trải thảm dày trên
đá sỏi. Nắng đã lên nhưng chưa thắng nổi sương rừng và gió núi nên cả không gian
và thời gian nơi này còn nhuộm trắng tóc mây. Trí Hải nhìn quanh, chân trời xa
bị mây và sương che khuất nên mắt ông đậu trên từng phiến đá, gốc cây. Ông không
biết đi đâu, không có một cõi đi về hay đâu đâu cũng là cõi đi về nên chẳng bước
vội. Rừng vắng quá nên ông nghe cả tiếng bước chân mình dẫm xào xạc trên lá.
Bước chậm quá nên ông thấy bàn chân mình dò dẫm tìm đường trên mặt sỏi. Một cảm
giác mát lạnh và bình an đi từ gan bàn chân chuyển dần lên mắt, lên tóc nên ông
thấy bình thản lạ lùng trong suy nghĩ và trong vắt trong mắt nhìn.
Xa, rất xa, trong vầng sương nắng
ẩn hiện, ngọn núi đá màu xanh thẩm và tím ngắt hiện ra sừng sững trên nền trời
trắng đục làm Trí Hải bàng hoàng giật mình. Rõ ràng trước mắt ông là trái núi hổ
phục - hình con cọp nằm - mà sư Trúc Lâm nói đến. Chờn vờn phía đuôi “con cọp”
là triền núi xẻ ba, cây mùa đông có đám lá rụng trơ xương, đám màu xám, màu đỏ,
màu vàng, màu xanh trông giống hình một con công đang múa. Trí Hải chân vẫn cất
đi nhè nhẹ, thần trí lâng lâng, mắt không rời “con hổ nằm và con công múa” đẹp
lãng đãng và phiêu bồng với mây núi như một kỳ quan. Cái đẹp thiên nhiên cuốn
hút con người làm cho Trí Hải ngỡ như mình đã hoà tan với đất, không biết mình
đang hóa thành cây cỏ hay cây cỏ là hiện thân của chính mình.
Ông sực tỉnh để nhận ra thằng
người nhỏ bé của mình khi chân bước lên tam cấp của chùa. Sư Trúc Lâm đã đứng đó
tự bao giờ. Hai người nhìn nhau không lên tiếng, “đối diện đàm tâm”. Im lặng
rất lâu nhưng nhà sư và viễn khách đã nói với nhau hàng ngàn câu chuyện.
Nắng đã lên cao. Trí Hải ngước lên
nhìn sư Trúc Lâm mĩm cười và nhà sư gật đầu. Im lặng. Chia tay.
Cũng vẫn là con đường cũ mà khi về
lại Trí Hải có cảm tưởng như mới đi lần đầu. Trước đây, con đường chỉ là một
phương tiện để tìm đến với sư Trúc Lâm nên chân bước trên đường mà đầu vẩn vơ
nghĩ về phương trời khác. Nay cũng trên con đường rừng gập ghềnh ấy, nhưng khi
bước lên sỏi đá, Trí Hải biết mình đang bước, đang sống thực và làm chủ lấy bước
chân của mình. Lần đầu tiên trong đời, ông vừa đi vừa nhìn cảnh vật và sự sống
chung quanh. Ông ngắm những con sáo núi làm tổ trên cây phong và thấy được con
đường chập chùng xa lắc nầy tiếp nối bừng lên sự sống. Ông cũng thấy mình đang
sống, đang bước đi thanh thản như con kiến đang bò trên đường dài.
Về lại Thái Ấp sau một cuộc hành
trình xa, Trí Hải cảm thấy một cái gì vừa đổi khác. Ông tạt qua ruộng lúa, vườn
cà, nương khoai... ngỡ ngàng và thú vị như người hành tinh vừa mới đến trái đất
lần đầu. Ông ngồi xuống nâng niu từng chồi non, từng đọt bông, từng ngọn lá. Gặp
người dân Thái Ấp ông nhoẻn miệng cười dễ dãi và bắt chuyện với họ tự nhiên như
những người bạn cũ thân thương. Ông không còn cảm thấy mình cao hơn họ và cũng
chẳng thấy mình thấp hơn họ. Ông chỉ thấy mình cũng là một con người có đủ tính
chất vui, buồn, hờn, giận... như muôn ngàn người khác, thế thôi.
Chính lúc Trí Hải không bắt chước
mà sống thực hồn nhiên như tiếng gáy con gà thì cũng là lúc ông đã quên đi bản
thân mình là ông hoàng, là chủ Thái Ấp, là người đã ba năm vây màn đọc sách, là
nhà quý tộc muốn cúi xuống thật thấp, “hạ cố” đi vào cuộc đời và bị cuộc đời
quay lưng từ khước. Khi ông thôi không còn quay quắt vào đời thì chính cuộc đời
tự động mở ra và vây bủa lấy ông. Người dân Thái Ấp đã nhận được tín hiệu từ
trái tim nên tự động tìm đến với Trí Hải. Họ vẫn dành trọn vẹn cho ông lễ nghi,
cung kính nhưng không còn sợ hãi vì mối giao tình phát khởi từ những tấm lòng
chân thành và nhân hậu với nhau, đó là sự tương kính gần gũi và yêu thương.
Tiếng chuông công phu chùa Thiên Mụ
đêm đêm rót vào bầu trời xứ Huế đã mấy trăm năm, nhưng chuông vẫn không cạn mà
Huế cũng chẳng đầy.
Suốt mấy mươi năm, Trí Hải đã nghe
quen tiếng chuông nên dần dần không còn nghe nó nữa, như những đứa con xứ Huế
khôn lớn còn mấy ai nhớ mùi sữa mẹ đọng trên vành môi. Tiếng chuông ngân vẫn u
trầm dìu dặt nhưng không một giọt chuông nào rơi vào hồn Trí Hải vì lòng ông đã
đầy đặc chuyện đời, trí ông đã ngổn ngang trăm mối. Khi tâm thức không còn
khoảng trống cho hiện tại và mất đi sự ngạc nhiên tươi mát trẻ thơ thì tiếng
chuông hay tiếng đồng vọng của đất trời cũng chỉ là dư âm dội vào tường gạch vỡ.
Sau “Đại Hội Con Gà”, tiếng chuông
Thiên Mụ cùng với tiếng gà đánh thức bình minh lại nhen nhóm trở về với Trí Hải.
Tiếng chuông giọt ngắn giọt dài rơi vào lòng ông lúc nầy cũng như những giọt mưa
đêm rơi vào lòng biển động. Mất hút, lạnh lẽo, mù sương. Ông nôn nao dậy sóng đi
tìm một nghĩa sống cho đời trong khi tiếng chuông vẫn khoan thai, thanh thản, vô
tình trôi như chiếc thuyền nan trên sông Hương trước chùa Thiên Mụ. Có lúc ông
say đắm bằng nỗi đam mê vụng dại với tiếng chuông, nhưng cũng có lúc ông giận
hờn, bất mãn vì tiếng chuông quá thản nhiên trước những thao thức trăn trở của
con người. Ông muốn tiếng chuông phải “đeo sầu”, phải có cái “ngã” trong khi
tiếng chuông lại hoàn toàn vô ngã.
Cũng vẫn là tiếng chuông Thiên Mụ
của trăm năm trước, cũng vẫn là tâm hồn Trí Hải của trăm năm sau sao bây giờ lại
khác. Trí Hải sống với tiếng chuông như sống với một em bé nhỏ hay một bác nông
phu. Chuông và người cùng sống, cùng ăn và cùng thở. Đêm khuya ông vẫn nói
chuyện rì rào với chuông. Ông hiểu chuông hơn bao giờ hết. Trí Hải không cần
phải thức khuya dậy sớm mới nghe được tiếng chuông khi trong lòng ông có nắng
hòa với tiếng chuông sâu thăm thẩm phát khởi tự tâm hồn.
Ông nghe tiếng gió từ muôn phương,
ông thấy cành trúc từ vạn cổ, ông cảm tiếng chuông từ tám hướng, ông nhận tiếng
gà từ làng thôn. Tiếng gió, cành trúc, tiếng chuông, tiếng gà và lòng người gặp
nhau từ vô ngã.
Có một ngày, người lão bộc nghe vị
chủ nhân gõ vào sừng trâu mà hát:
Gió đưa cành trúc là đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà
Thọ Xương.
Hát ngêu ngao như một người lãng
tử và chơi đùa với đám mục đồng như thuở ấu thơ, Trí Hải được sống ngây ngất với
từng giây phút trôi qua mà không một chút tiếc nuối với cuộc đời quá dài hay quá
ngắn.
Đầu óc ông trở nên
khoảng khoát như một bầu trời mơn man mây trắng và lòng ông tĩnh lặng như ánh
trăng vằng vặc trên đồi xa. Rừng sách vở vẫn còn là một dấu ấn chưa phai nhưng
đã được phủi bụi và được xếp vào ngăn riêng của nó. Nhờ vậy ông đã bắt đầu tập
nói chuyện triết lý cao siêu bằng ngôn ngữ chất phác và đơn sơ như nói vè hay kể
chuyện Tấm Cám. Dường như đôi khi ngôn ngữ là một phương tiện nghèo nàn, bất
lực và yếu đuối trước im lặng suy tư. Lý sự là chiếc ghe chòng chành mà im lặng
là chiếc cầu vững chải để qua sông, giòng sông tư tưởng có bờ bên nầy là bão nổi
bon chen tuyệt vọng và bên kia là trầm tư tĩnh lặng tuyệt vời.
?
Có đám bụi đất đỏ của đàn trâu đạp
lúa đang về và có đám bụi mù của vó ngựa phi nhanh trên đường quê Thái Ấp. Đối
với Trí Hải thì đám bụi nào cũng giống nhau, vó trâu hay vó ngựa cũng chỉ là
những bước đi dấy lên từ đất, nhưng đối với người dân Thái Ấp thì vó ngựa có
người kỵ mã mang lệnh bài của triều đình là một biến cố. Mọi người lập tức dạt
ra hai bên đường và dắt trâu nép xuống bờ ruộng cho kỵ sĩ và tuấn mã phi nhanh
về phía dinh ông hoàng. Trí Hải đang kể chuyện về giống vịt trời cho đám trẻ con
đang chen lấn nhau, hoác miệng cười vang bên bờ ruộng. Ông cung tay thi lễ đón
nhận lệnh của vua triệu vào cung khẩn cấp với vẻ bình thản như nghe chuyện xảy
ra hàng ngày trong Thái Ấp đã làm cho mọi người và ngay cả sứ giả ngạc nhiên đến
độ sững sờ. Một Trí Hải nghiêm trang, trịnh trọng, lạnh lùng và cách biệt không
còn dấu vết nơi ông. Trước khi bước lên cổ xe song mã lộng lẫy của triều đình
vào nội thành, Trí Hải còn vui cười vẫy lũ trẻ sợ hãi ngồi im thin thít hay chạy
biến loanh quanh để dặn dò lúc về ông sẽ kể tiếp chuyện vịt trời.
Trên đường vào đại nội, vị quan bộ
lễ hộ giá hoàng thân kể rằng, sau vụ án “văn chương phản nghịch” ấm Thuyên, vua
mang tiếng là bạc đãi trung thần và khắt khe với hiền sĩ nên đã tìm cách lấy lại
niềm tin của giới nhân sĩ Bắc Hà bằng cách cho vời vào cung một phái đoàn nhân
sĩ đất Thăng Long gồm nhiều nhân vật danh tiếng và các học sĩ lừng lẫy xứ Bắc
vào Huế để được thấy tận mắt uy thế của thiên triều và giang sơn hoa gấm của đất
Thần Kinh. Đồng thời vua cũng muốn ổn định phương Bắc quá xa xôi và sử dụng nhân
tài, nhưng trong hơn mười ngày qua, giới nhân sĩ Bắc Hà không làm vua hài lòng
vì họ vẫn xa cách và lạnh nhạt trước những tiểu yến và đại yến được mở ra tưng
bừng để chiêu hiền đãi sĩ. Với quyền uy thiên tử, chém đầu ba họ thì chỉ cần một
cái gật đầu, nhưng chinh phục được lòng người thật khó. Giới sĩ phu Thăng Long
không khuất phục trước quyền thế, không mờ mắt trước hư danh, không dễ dãi chấp
nhận những lời biện thuyết của giới học sĩ Đàng Trong. Sự từ chối lời mời ở lại
phò vua, giúp nước của họ đã làm cho cả triều đình Huế vừa bối rối vừa ngấm ngầm
tức giận nên mọi hy vọng đang đổ dồn vào Trí Hải.
Đại yến đang mở ra tại Ngự Viên.
Đội ngự binh gươm giáo sáng lòa. Các quan phẩm phục lóng lánh như sao sa. Cung
tần, thị nữ đẹp rực rỡ và thơm mát như những hình hài không có thật ở trần gian...
Bỗng mọi người đều “ồ” lên kinh ngạc khi Trí Hải bước vào. Một hoàng thân Trí
Hải có dáng đi đường bệ với khuôn mặt nhìn thẳng lạnh lùng trong phẩm phục triều
nghi có thể chói lòa trong đêm tối đâu rồi. Một Trí Hải khác có dáng đi khoan
thai, khuôn mặt vẫn thanh tú nhưng màu da trắng xanh nay trở thành rám hồng vì
nắng gió. Nét cười khoan hòa dễ dãi và đôi mắt tinh anh nhưng lại ấm cả vùng
trời đang đậu trên từng người quen và khách lạ. Áo quần đơn sơ mà thân thiện như
người nông dân đi ăn giỗ. Một thoáng xôn xao nổi lên trong đám nhân sĩ Bắc Hà.
Người ta tự hỏi, một vị hoàng thân tiếng tăm như Trí Hải lại là một người bình
thường và đơn giản đến thế sao.
Buổi đại tiệc bắt đầu khi xa giá
của nhà vua ngự đến. Những lễ nghi quan cách rườm rà lúc đầu từng bước nhường
lại cho mục đích chính của buổi ngự yến là cuộc đấu trí tay đôi giữa nhân sĩ Bắc
Hà và giới học sĩ đất Thần Kinh nhằm thuyết phục khách Thăng Long ở lại ra tay
phò vua giúp nước. Các Văn minh điện đại học sĩ, Võ hiển điện đại học sĩ, Cần
chánh điện đại học sĩ cùng các danh gia, danh sĩ Thần Kinh đối mặt với sĩ phu
Bắc Hà trên chiến trường trùng điệp, võ trang bằng lý thuyết và tư tưởng của
Bách Gia Chư Tử. Khi hai bên đều có kẻ tung người hứng không để hở đường tơ kẻ
tóc thì Trí Hải và Lê Trung Ọn, thủ lãnh sĩ phu Bắc Hà vẫn ngồi im lặng lắng
nghe. Hai phe chưa ai nhường ai nửa chữ. Đêm trôi dần, cuộc đấu xoay chiều đến
hồi gay cấn qua chuyện “chính danh”. Dù lời lẽ bóng bẩy nhẹ như tơ trời, dù sự
ngụ ý xa xôi như sao khuya leo lắt, nhưng ai cũng hiểu là hai phía đang nói đến
vương mạng của nhà Lê và nghiệp đế của nhà Nguyễn. Mọi con mắt đều đổ dồn về
phía Trí Hải và Lê Trung Ọn khi luận bàn chuyện “tiếm quyền và tiếm văn”. Phía
nhân sĩ Bắc Hà thì cho rằng, chỉ có câu ca dao duy nhất phát xuất từ miền Bắc:
Gió đưa cành trúc là đà,
Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà
Thọ Xương.
Giới học sĩ Thần Kinh thì lại dùng
mọi luận chứng lịch sử để cho rằng, chỉ có một câu ca dao xuất phát từ Huế, sau
khi chùa Thiên Mụ được chúa Nguyễn Hoàng cho khởi công xây dựng vào năm 1601:
Gió đưa cành trúc là đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà
Thọ Xương.
Vô hình chung, Trí Hải và Lê Trung
Ọn biến thành thủ lãnh của hai phe. Thế nhưng im lặng kéo dài. Mãi đến khi nhà
vua lên tiếng gọi hai người ngõ lời, Trí Hải mới đứng lên. Mọi người như nín thở
chờ đợi những lời minh triết cao siêu, những biện giải hùng hồn như sấm dậy do
vị hoàng thân uyên bác nầy sắp sửa nói ra. Trí Hải mĩm cười nhìn Lê Trung Ọn và
đồng thời cũng bắt gặp nét cười trả lại. Hai nét cười tỏa hào quang của sự đơn
sơ như cỏ nội hoa đồng, của sự cảm nhận sâu xa và trọn vẹn. Hai lối nhìn tinh
anh, sâu thẳm nhưng nhu hòa không gợn một chút thách đố khen chê. Trí Hải đọc
mấy câu thơ của Tuệ Trung nói với vua Trần Nhân Tôn về cái tâm tĩnh lặng, vô ngã:
- Giữa ba nghìn thế giới,
Có chung một nụ cười.
Trăm nhánh sông vô ngã:
Chung một giòng ra khơi.
Thiên Mụ, Trấn Võ, Thọ Xương...
đều là tên đặt, là danh từ, là huyễn tướng. Tên sông
không phải là giòng sông, tên đường không phải là con đường, ngón tay chỉ mặt
trăng không phải là mặt trăng. Cho nên tranh nhau cái tên gọi là hoàn toàn vô
ích, phù phiếm. Tiếng gió lao xao qua cành trúc, tiếng chuông, tiếng gà đến và
đi từ vô ngã, không lời. Chấp ngã, nhiều lời sinh ly tán!
Nhiều người thở dài thất vọng. Với
họ, Trí Hải đã mất đi khả năng ứng đối khóa lưỡi kẻ thù, chẻ tóc làm tư.
Mọi người lại nhổm dậy. Đến lượt Lê
Trung Ọn đăng đàn lên tiếng. Ông mượn lời của thiền sư Hương Hải nói với vua Lê
Dụ Tôn về cái tâm rỗng lặng:
- Nhạn bay cao vút trời xanh,
Nước soi bóng nhạn mong manh
giữa vời.
Nhạn đi bóng mất lưng trời,
Nước không lưu giữ bóng ngời
thoáng qua.
Thiên Mụ, Trấn Võ, Thọ Xương và
tiếng gió, tiếng chuông, tiếng gà đều là giả tướng, không có thật. Khi tâm lắng
nghe là có, khi tâm khép lại là không. Khi đã không thì cả thế gian này cũng
không. Không có chấp ngã mà cũng chẳng có vô ngã. Quyết tranh nhau cái không có
để về đâu?!
Trong khi mọi người còn đang ngơ ngác thì Trí
Hải và Lê Trung Ấn đã tiến lại gần nhau, cầm tay nhau như hai người bạn cố tri,
như hai người anh em từ kiếp trước và nhìn vào mắt nhau rất sâu như đọc hết
những thế giới âm u ẩn tàng sau nét mĩm cười rất nhẹ. Nhà vua cũng cả cười bước
xuống cầm tay họ và chư khách cũng bùng vỡ tiếng cười vui không che dấu những
mưu toan. Đêm tàn nhưng đại tiệc chưa tan. Bỗng tất cả đều lặng im vì tiếng
chuông công phu của chùa Thiên Mụ vừa lọt vào Ngự Viên. Lê Trung Ấn ngỏ lời:
“Nước non muôn thuở không hay có. Một cõi đi về phát tự tâm”. Trong mắt
vua, ngời ánh phong quang và thoáng nét phong trần nhưng thuần hậu của tay hảo
hán Lương Sơn Bạc, người đã vào sinh ra tử để thống nhất sơn hà, dựng nên nghiệp
đế. Nhóm nhân sĩ Bắc Hà, cùng nhìn một hướng về phía giang sơn thay cho nụ cười
kiêu bạt, lên tiếng: “Vâng, chúng tôi sẽ ở lại!”
Tiếng chuông Thiên Mụ từ hai trăm
năm trước vẫn ngân nga mà cũng chẳng bao giờ có thật.