Trong đời sống con người, sự tư duy hợp lý không cho phép ta suy nghĩ và
kết luận trên thế gian này có một con người hoàn toàn xấu hay có một
con người hoàn toàn tốt.
Xấu và tốt hay thiện và ác của con
người chỉ là những tập hợp của nhiều yếu tố tạo nên. Bản chất của nó là
rỗng không, không có thật thể. Nên, nó không có bất cứ một hình tướng
nào nhất định cho chính nó, để cho ta nhận định và kết luận một cách
chính xác đối với nó.
Vì nó không có thật thể, và không có bất cứ
một hình tướng nào nhất định cho chính nó, nên nó có thể trở thành bất
cứ hình tướng nào hoặc thiện hay ác, hoặc tốt hay xấu tùy theo điều kiện
nội và ngoại tại tác động để nó biểu hiện. Có khi nó biểu hiện có vẻ
như là thiện, nhưng thực chất của nó là ác và có khi nó biểu hiện có vẻ
như là ác, nhưng thực chất của nó là thiện.
Xấu và tốt hay thiện
và ác của một con người tùy thuộc rất nhiều điều kiện để tạo nên những
phẩm tính thiện ác, xấu tốt ấy. Không có ý nghĩ, hành động và lời nói
nào liên hệ đến tham, sân, si, kiêu mạn, chấp ngã mà trở thành thiện bao
giờ! Và không có ý nghĩ, lời nói và hành động nào đi từ Tâm bồ-đề và
đại nguyện từ bi mà trở thành xấu ác bao giờ!
Trong đời sống của
ta, thiện tri thức là điều kiện tác động giúp cho ta thấy rõ ta có tâm
bồ đề, và tâm ấy có thể sinh khởi và lớn mạnh trong đời sống của ta;
thiện tri thức là người giúp ta nuôi lớn những hạt giống tốt đẹp ấy để
kết thành hoa trái bình an trong đời sống hiện tại và tương lai cho ta.
Thiện
tri thức là người bạn đồng hành với ta, để giúp ta dựng đứng lại những
gì do những tư duy, những nhận thức, những tri kiến sai lầm của ta đã
làm cho đời sống của ta bị chao đảo, bị nghiêng ngửa và sụp đổ.
Thiện
tri thức là người bạn đã đồng hành với ta, để giúp ta hàn gắn lại những
gì mà do những hành động vụng dại, cố chấp của ta làm cho đời sống của
ta bị rạn nứt, vỡ đôi, vỡ ba…
Nếu đời sống của ta bị vỡ vụn,
không thể hàn gắn, thì thiện tri thức là người có thể giúp ta đứng dậy
từ những mảnh vụn của cuộc đời để tái tạo một cuộc sống mới, khiến cho
nhân phẩm của ta được phục hồi, những điều thiện của ta được tái sinh
trở lại.
Thiện tri thức không phải là người có khả năng lý luận
giỏi mà là người có khả năng giỏi để bật sáng ngọn đèn, khi đêm tối phủ
lên đời ta. Thiện tri thức không phải là người có khả năng ngăn chặn gió
bụi cho ta mà là người có khả năng giúp ta vượt qua gió bụi của cuộc
đời.
Thiện tri thức không phải là người suốt ngày ngồi hàn huyên với ta,
hết chuyện này tới chuyện khác hay là người có quá nhiều hứa hẹn với ta,
mà là người có thể chưa từng ngồi với ta một giờ nào và chưa từng hứa
hẹn với ta bởi bất cứ một điều gì, nhưng mỗi khi bất an, tâm ta nghĩ tới
họ, thì sự bình an trong ta liền được phục hồi; niềm tin và hy vọng
trong ta liền được phục sinh.
Thiện tri thức đến với ta không
phải là những thiên sứ từ trời cao giáng xuống hay là những địa thần từ
lòng đất vọt lên, hay từ nơi những am miếu, mà từ nơi Tâm bồ-đề và phát
khởi đại nguyện của họ.
Tâm bồ-đề là tâm sáng suốt và nguyện
sống cuộc đời sáng suốt, ví như ngọc lưu ly, không bị bất cứ một thứ bụi
nào bám vào làm cho dơ bẩn, thiện tri thức đến với ta từ tâm và nguyện
ấy;
Tâm bồ-đề là tâm yêu mến và giúp đỡ hết thảy chúng sanh
thành tựu thiện pháp không hề biết mỏi mệt, thiện tri thức đến với ta từ
tâm và nguyện ấy;
Tâm bồ-đề là tâm rộng lớn như đại địa và
nguyện gánh vác hết thảy trọng trách mà không bao giờ cảm thấy mỏi mệt,
thiện tri thức đã đến với ta từ tâm và nguyện ấy;
Tâm bồ-đề là
tâm rắn chắc như kim cương, và nguyện không bị hủy hoại bởi thời gian,
không bị xê dịch bởi không gian, thiện tri thức đã đến với ta từ tâm và
nguyện ấy;
Tâm bồ-đề là tâm vững chãi, ví như núi Tu-di, nguyện
khiến không bị các dục thế gian làm cho khuynh đảo, thiện tri thức đã
đến với ta từ tâm và nguyện ấy;
Tâm bồ-đề ví như bà mẹ hiền nuôi
con, nguyện không bao giờ cảm thấy nhàm chán và mỏi mệt, thiện tri thức
đã đến với ta từ tâm và nguyện ấy;
Tâm bồ-đề ví như người học trò
trung thành, nguyện không bao giờ đi ngược lời dạy của bậc đạo sư,
thiện tri thức đã đến với ta từ tâm và nguyện ấy;
Tâm bồ-đề ví
như người làm công nhiệt tình, nguyện không bao giờ làm trái lời chủ,
thiện tri thức đến với ta từ tâm và nguyện ấy;
Tâm bồ-đề ví như lương khuyển, vì không bao giờ phản chủ, thiện tri thức đến với ta từ tâm và nguyện ấy;
Tâm bồ-đề ví như kiện ngưu, chuyên chở không bao giờ mệt mỏi, thiện tri thức đến với ta từ tâm và nguyện ấy…
Tâm và nguyện của thiện tri thức là vậy, nên thiện tri thức đã đến với ta rất nhiều hình thức khác nhau:
Có
khi là một hài nhi; có khi là một bậc trưởng thượng; có khi là một vị
tướng giỏi; một quốc vương; có khi là một nhà truyền giáo; có khi là
hình tướng của một trưởng giả giàu có; có khi là hình ảnh của một vị đạo
sĩ; một vị Bồ Tát hay Phật; và cũng có khi là một con người đầy thô
bạo, không có chút nết na nào cả; hoặc có khi chỉ là một vầng trăng; một
đóa hoa; một trang sách; một câu thơ hay một dòng suối reo chảy vô
tình… nhưng tất cả những hình thức ấy là những điều kiện giúp cho ta
phát khởi được niềm tin nơi cuộc sống; khơi phát được tâm Bồ-đề, chuyển
hóa được tâm thức thô trược nơi ta, khiến trong ta sinh khởi những hạt
giống tốt đẹp và thánh thiện; giúp ta có khả năng phòng hộ những hạt
giống xấu ác trong tâm, không để sinh khởi; giúp ta đứng dậy từ tâm ly
tham, ly sân, ly si, ly kiêu mạn, ly nghi ngờ và ly chấp ngã; giúp ta
vượt qua con đường đầy gió bụi của sinh tử, để đến nơi an toàn và hạnh
phúc cao thượng.
Ác tri thức thì ngược lại với thiện tri thức.
Thiện tri thức là người có khả năng làm cho những điều xấu ác trong ta
càng ngày càng giảm thiểu và những điều tốt đẹp trong ta càng ngày càng
tăng lên; là người có khả năng làm cho những khổ đau trong đời sống của
ta càng ngày càng giảm thiểu và sự bình an trong đời sống của ta càng
ngày càng tăng lên.
Trái lại ác tri thức là người có khả năng
làm cho đời sống của ta từ giàu trở thành nghèo, từ thanh cao trở thành
thấp kém, từ thẳng đứng, trở thành xiêu vẹo và từ xiêu vẹo trở thành
nghiêng ngửa và sụp đổ; là người có khả năng làm cho đời sống của ta
đang liền lặn trở thành rạn nứt và từ rạn nứt đến đổ vỡ, bể nát.
Ác
tri thức là người ta gần bên họ, khiến lòng tham của ta càng ngày càng
tăng lên; lòng sân của ta càng ngày càng dễ bộc phát; lòng si của ta
càng ngày càng tăng lên một cách thái quá; tâm nghi ngờ và tính ích kỷ
của ta càng ngày càng trở nên trớ trêu và mù quáng.
Ác tri thức
là người có khả năng đưa ta từ ánh sáng đi vào bóng đêm và từ bóng đêm
này tới bóng đêm khác, khiến cho đời sống của ta từ khổ đau này dẫn sinh
ra sự khổ đau khác.
Vì vậy, thiện hay ác, xấu hay tốt của một
con người, chúng tùy thuộc vào rất nhiều tác duyên để biểu hiện. Thiện
tri thức hay ác tri thức là những điều kiện rất tích cực để cho tính
thiện hay ác, xấu hay tốt nơi ta biểu hiện mỗi ngày.
Nên, ta
không ngạc nhiên gì, một người ngày hôm qua rất tốt mà ngày nay họ lại
trở thành xấu và người ngày hôm qua rất xấu, mà hôm nay họ lại trở thành
một người rất tốt. Xấu và tốt hay thiện và ác ở nơi con người hoàn toàn
không có tự tính, chúng chỉ biểu hiện theo duyên. Duyên ấy là thiện tri
thức hoặc ác tri thức vậy.
Vì vậy, thiện duyên hay thiện tri thức là những điều kiện giúp ta vượt qua gió bụi cuộc đời.
Ở
trong đời, ta thà mất châu báu, mất địa vị, mất tay chân, nhưng nhất
định không để mất thiện tri thức, vì mất thiện tri thức tâm Bồ-đề của ta
sẽ bị thối chùn, ta sẽ mất hết thảy phước báo làm người, làm trời, làm
thánh, làm Bồ Tát và Phật, và vì mất thiện tri thức, thì không còn có ai
bật ngọn đèn tuệ giác giữa đêm trường, cho ta thấy rõ những giá trị cao
quý của cuộc đời, để phát khởi tâm Bồ-đề nhằm bước tới và yêu thương;
và mất thiện tri thức ta sẽ bị gió bụi giữa cuộc đời cuốn mất. Mất đi
đâu đố ai biết!
Thích Thái Hòa - Theo Tập san Hoằng Pháp 32