Nhưng thế nào là hình ảnh, giáo sư Nguyễn Lang giải thích:
“khi Vô Ngôn Thông được hỏi về Thiền và thiền sư, ông đã im lặng
lấy tay chỉ vào một gốc cây Thoa lư. thiền và thiền sư trong lãnh vực đàm luận
có thể là những khái niệm trừu tượng, gốc cây Thoa lư là hình ảnh cụ thể của
thực tại, nếu nhìn gốc cây Thoa lư trong trong chính thực tại của nó tức là đã
xâm nhập thế giới Thiền và trở thành thiền sư. Các thiền sư không bao giờ muốn
đưa học trò của mình vào thế giới suy luận trừu tượng”.(1)
Tất nhiên trong các Tông phái của Phật giáo, thì thiền là tông
phái gây cảm hứng mạnh mẽ nhất trong mọi lĩnh vực sáng tác nghệ thuật. Đặt biệt
là trong lĩnh vực thi ca. Nhưng theo tôi, chính đức Phật mới là người đầu tiên
khai mở dòng cảm hứng bất tận ấy cho những nghệ sĩ sáng tạo.
Đọc lịch sử đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập
định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni liên thiền, khi sao vừa mọc thì thái tử
Tất Đạt Đa hốt nhiên đại ngộ ( Anuttara Samyak Sambodhi ) mà người Trung Quốc đã
dịch là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nghĩa là chứng nhập chân lý tối cao.
Ta có thể đặt câu hỏi, tại sao đức Phật không hốt nhiên đại ngộ
vào buổi trưa hay buổi chiều? mà biến cố ấy lại xẩy ra lúc sao mai mới mọc? phải
chăng đó là giây phút đẹp nhất ? giây phút mà vũ trụ thức tỉnh sau một đêm dài
bị bóng tối vây phủ. Như vậy giây phút mà đức Phật giác ngộ đó, nếu ta nhìn theo
cách nhìn của thi nhân thì đó là giây phút màđức Phật đã nắm bắt được cái đẹp
thiên thu của vũ trụ chính trong lòng bàn tay của Ngài.
Nhưng thơ là gì? và tại sao con người phải làm thơ? Thi hào Hàn
Mạc Tử của Việt Nam, người đã dâng hiến trọn vẹn cuộc đời ngắn ngủi của mình cho
thi ca và nhất là đã từng trãi qua những đau khổ nhất cũng như hoạn lạc nhất
trong trái tim rỉ máu của mình, đã cho biết vì sao ông làm thơ :
“Tôi làm thơ nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi bị
phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, đều hết sức giữ bí mật. Và cũng
có nghĩa là tôi mất trí, tôi phát điên. Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng
khóc, tiếng gào, tiếng rú, có ai ngăn cản được lòng tôi ?
Trong Trường Bộ Kinh có ghi lại, sau khi rời gốc cây Bồ Đề, trên
đường trở về thành Ba La Nại gặp đạo sĩ Upka, đức Phật đã reo lên:
“Ta là bậc tối thắng, ta là bậc toàn trí
Xả trừ hết ô nhiễm và trần cấu,
Lìa bỏ tất cả, lửa tham dục đã tắt
Ta không học với ai, thì còn biết gọi ai là thầy?
Những gì ta biết ta không học với một ai,
Không ai bằng ta trên thế gian này,
Dầu sanh ở cõi phàm hoặc cung trời
Không một ai bằng ta hết
Ta đã thực sự chiếm được qủa giải thoát,
Toàn thế gian ta là bậc vô thượng đạo sư,
Độc nhất trong đời, hoàn toàn giác ngộ,
Tự ngự trong yên vui vô thượng.”
Nếu trong thi ca trong tinh thần Hàn Mặc Tử, thì những lời trên
của đức Phật cũng có thể tạm gọi là ngôn ngữ của thi ca, vì nó đã được trào vọt
ra từ trái tim tràn đầy hoan lạc của một người vừa tìm lại được tự do nơi chính
quê nhà của mình sau bao thuở lang thang phiêu bạt tận nơi gốc bể chân trời.
Và rồi sau đó trong gần 50 năm lang thang khắp lục địa Ấn Độ rộng
lớn, từ những cung điện nguy nga trán lệ của vua chúa đến những căn nhà nghèo
khổ tăm tối nhất thuôïc giai cấp tiện dân, từ những bậc thánh ẩn mình trong rừng
sâu đến những tay đồ tể giết người, hay từ một tư tưởng gia thông thái đến những
người nông dân chất phát thất học, với lòng từ bi vô hạn Ngài đã vì sự thống khổ
của muôn loài mà tuyên thuyết bao nhiêu thi kệ. Những thi kệ ấy, có khi thì chất
phát giản dị từ nội dung tư tưởng đến ngôn ngữ như trong các kinh thuộc thời
Nguyên thỉ, khi thì bay bỗng tuyệt vời như trong các kinh thuộc Đại thừa. Chẳng
hạn như Hoa Nghiêm Kinh, ta đọc mà có cảm tưởng như đó là trường thi vĩ đại nhất
mà dân tộc Ấn Độ đã cống hiến cho thi ca nhân loại, và phải chăng chỉ có một dân
tộc được sinh ra dưới chân núi Hi Mã Lạp sơn cao nhất thế giới thì mới tạo ra
một thứ ngôn ngữ kỳ lạ như vậy ?
Năm 520 Bồ Đề Đạt Mamang thông điệp Phật Giáo Thiền tông đến
Trung Quốc. Đã biết bao nhiêu thiên niên kỷ trôi qua rồi, vậy mà cái truyền
thuyết về việc đức Phật cầm đóa hoa đưa lên trước pháp hội và nụ cười mênh mông
của Tôn Giả Ca Diếp trên đỉnh núi Linh Thứu cùng với đôi mắt của Bồ Đề Đạt Ma
chín năm trầm hùng nhìn vào vách đá Chùa Thiếu Lâm, đôi mắt sâu thẳm như nhìn
vào kiếp người đen tối vẫn còn tiếp tục nuôi dưỡng tinh thần sáng tạo nghệ thuật
không những chỉ tạo Trung Quốc mà còn cả toàn thể thuộc khu vực Viễn Đông nữa.
Nhưng vì Bồ Đề Đạt Ma dù sao cũng là người Ấn Độ nên theo giáo sư
D.T Suzuki, chỉ có công khai mở một trào lưu. Phải đợi đến khi Huệ Năng, một
người sanh ra từ đất Trung Hoa, và với thiên tài Huệ Năng thì thiền mới chính
thức trở thành một trào lưu tâm linh vĩ đại cho đến ngày nay.
Nhưng mảnh đất đã sinh ra Bồ Đề Đạt Ma có gì khác biệt với mảnh
đất đã sinh ra Huệ Năng? “ Còn người Trung Hoa mãi mãi là những đứa trẻ bụi đời,
vóc dáng nặng nề không bao giờ dám bay bổng lên mây, sinh hoạt của họ thường
ngày là cày cuốc, là gom lá khô, là xách nước, là buôn bán, là hiếu thảo. Làm
việc công ích, là qui định những lễ nghĩa rắc rối nhất đời, đại khái có nghĩa là
có ý thức về lịch sử quan sát thời vụ, là ghi lại những dấu vết ấy làm chứng
tích của thời gian. Người Trung Hoa có vẻ tự hào giỏi ghi chép nhất trong đời,
trái hẳn với người Ấn Độ đánh mất ý niệm thời gian .”(2)
Vì tinh thần thực tiễn như vậy nên người Trung Hoa say sưa với
những gì trên mặt đất này “Núi vút trời cao, nước đi ra biển. Cây trổ hoa xuân,
hoa đơm tàn đỏ. Trăng sáng thì nhà thơ say sưa trổ khúc thái bình.”
Lục tổ Huệ Năng là một người con của một đất nước như thế, mà lại
sống cùng thời đại với Lư Chiếu Tân ( 637 – 690 ), Mạnh Hạo Nhiên ( 689 – 740 )
và Vương Duy ( 710 – 776 ) vv… Tức là những tên tuổi lớn của thi ca Trung Quốc
thời sơ Đường. Đặc biệt là khi lục tổ Huệ Năng đang du thuyết đạo thiền thì Lý
Bạch, thi hào được xem như làvĩ đại nhất Trung Quốc đã là cậu thiếu niên 12 tuổi,
và năm Huệ Năng viên tịch thì thi hào Đổ Phủ vừa chào đời được một năm, Đổ Phủ
sanh 712 và mất 770… “Huệ Năng viên tịch 713 thọ 76 tuổi, nhằm thời thịnh Đường
thiên hạ vui cảnh thái hòa và văn hóa Trung Quốc vút đến tuyệt đỉnh vinh quang
trong lịch sử.” (4)
Bởi vậy, dù không phải là một thi nhân, nhưng khi đem những vấn
đề huyết mạch nhất của tư tưởng Phật Giáo để giải thích cho người Trung Hoa thì
Huệ Năng đã sử dụng ngôn ngữ đầy hình ảnh thi ca, ví dụ đoạn này trong Pháp Bảo
Đàn kinh :
“ Huệ Năng này bước ra ngồi xếp bằøng trên tảng đá, Huệ Minh làm
lễ nói rằng: Mong hành giã nói pháp cho tôi nghe!
Huệ Năng nói: Nếu ông vì pháp mà đến thì nên dứt tưởng niệm, lành
dữ thảy đừng nghĩ tới. Huệ Minh vâng lời.
Vài giây sau Huệ Năng lại nói: “Đừng nghĩ thiện, đừng nghĩ ác,
ngay lúc này đây đưa cho tôi xem cái ‘bản lai diện mục’ của ông trước khi mẹ
ông sanh ra.” Giáo sư D.T Suzuki cho rằng, đoạn kinh trên là sự sáng tạo vĩ đại
nhất của thiên tài Trung Hoa “ Đó là chân trời mới mà Huệ Năng mở ra cho thiền
cổ truyền Ấn Độ. Ở cách nói ấy, ta không thấy gì là Phật Giáo hết, thế có
nghiã là Huệ Năng tự vạch ra cho mình một con đường riêng lẻ, và diễn đạt một
chân lý thiền theo kinh nghiệm riêng độc đáo, và đầy tinh thần sáng tạo. Trước
Huệ Năng để biểu thị kinh nghiệm ấy, người ta vay mượn đó đây, mượn chữ cũng như
mượn phương pháp nói rằng: “ ông là Phật” hoặc là “ Phật ở trong ông” thật quá
sáo quá chìm, vì quá trừu tượng, quá khái niệm. Những câu nói ấy đành là có chứa
đựng một chân lý thâm điệu nào đó, nhưng thiếu cụ thể, không đủ sinh khí lay hồn
ta chìm giữa trừu tượng và từ chương vậy. Huệ Năng chất phát ở tâm, mộc mạc ở
trí, không nhiễm phải cái học của đạo và đời, Huệ Năng có thể nắm lấy chân lý
nóng hổi trong tay, và đó là chỗ tươi mát khác thường của tâm trí trong khi tiếp
xử với đời.” (5)
“ Chất
phát ở trong tâm, mộc mạc ở trí”
Có lẽ đây chính là điểm gặp gỡ quan trọng nhất giữa thiền (nhất
là thiền của Huệ Năng ) và thi ca. Đặc biệt làsau hai câu thơ lừng danh của
Bàng Uẩn, một trong những cư sĩ trác việt nhất của Phật Giáo thiền tông Trung
Quốc:
Thần
thông tịch diệu dụng
Vận thủy cập ban sài.
( Này thần thông ! Này diệu dụng !
Ta gánh nước ! Ta đốn củi )
Khởi đầu là Trung Quốc, rồi sau đó tràng qua Nhật Bản, Triều Tiên,
rồi tất cả các quốc gia thuộc khu vực miền viễn Đông, tại các thiền viện, chùa
chiền, trong các công án, pháp ngữ hay kệ thị tịch của các thiền sư, ta thấy
tràn đầy tinh thần thi ca.
Tại Việt Nam, ngoài các thiền sư, thi sĩ đời Lý, Trần ta còn thấy
đầu đời hậu Lê có bậc anh hùng Nguyễn Trãi, một con người hoàn toàn cô độc trước
thời đại mình đang sống, đã luôn luôn mong ước dù chỉ một lần thôi, được đến tận
nguồn của suối Tào Khê, nơi mà lục tổ Huệ Năng đã khai mạch cho dòng suối tâm
linh vĩ đại ấy :
Bán sinh khưu hắc tiện u thê
Thiền pháp phân minh thính điểu đề
Vạn lý nam lai sơn thủy viễn
Nhất sinh năng kỷ qúa tào khê.
( Nửa đời ẩn dật sẵn hang sâu
Vang động gian chùa tiếng nhạn kêu
Muôn dặm từ nam non nước thẳm
Một đời mấy bận tới tào Khê.)
Vì nước củøa
dòng suối ấy, Nguyễn Trãi tin tưởng rằng không chỉ rửa sạch những đau khổ của
chính mình thôi mà còn cả mọi sinh linh thống khổ khác nữa:
Môn
tiền nhất phái tào Khê thủy
Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần
( Trước cửa tào Khê dòng nước chảy
Rửa bụi bặm bao nhiêu kiếp của nhân gian )
Trong một bài thơ chúng ta biết rằng, Nguyễn Du đã trì tụng kinh
Kim Cang hơn cả ngàn lần, vậy mà thi hào của chúng ta vẫn không hiểu hết ý nghĩa
sâu xa của kinh. Cuối cùng phải nhờ bài kệ đắc pháp lục Tổ Huệ Năng mới chợt
nhận ra rằng, con đường đi vào thực tại không qua ngôn ngữ mà chính là con đường
của vô ngôn, nghĩa là con đường của im lặng:
Nhân liễu thử tâm nhân tự độ
Linh sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
Minh kính diệc phi đài
Bồ Đề bổn vô thọ
Ngã
độc Kim Cang thiên biến linh
Kỳ trung áo nghĩa đa bất minh
Cập đáo phân kinh thạnh đài hạ
Tài tri vô tự thị chân kinh.
( Ta giải thoát khi nào trong lòng đã sáng tỏ.
Linh sơn ở ngay trong chính ta,
Gương sáng vốn không đài,
Cây Bồ Đề cũng không có gốc,
Ta đã từng đọc kinh Kim Cang hơn ngàn lần,
Ý nghĩa sâu xa vẫn chưa hiểu hết,
Chỉ đến khi đứng trước đài phân kinh,
Mới hay rằng: “ vô tự” mới chính là chân kinh.)
Nhưng tại sao một tổ sư của Phật Giáo mà lại dấy động cả phong
trào thi ca rầm rộ như vậy ?
Tôi nhớ hồi nhỏ tôi đọc được pháp Bảo Đàn Kinh tại một ngôi chùa
ở vùng núi non hẻo lánh thuộc miền Trung, thôn quê vốn đã vắng vẻ tĩnh mịch, mà
cách đây 40 năm lại càng vắng vẻ và tĩnh mịch hơn. Hồi đó tôi mới học lớp 4 hoặc
5 ở trường làng, nên dĩ nhiên đọc Pháp Bảo Đàn Kinh cũng như đọc truyện cổ tích
vậy thôi.
Nhưng chính như đọc truyện cổ tích mà tôi mới thấy hình ảnh của
lục tổ Huệ Năng gần gũi với tuổi thơ của tôi vô cùng, tôi cứ tưởng tượng cái xử
Lĩnh nam mà Lục tổ nói nghèo khổ quê mùa đó chắc cũng giống như quê của tôi,
cũng những người nông phu ra đồng cày ruộng, cũng những người tiều phu lên rừng
đốn củi. Ngôi chùa Đông Thiền núi Hoàng mai sinh hoạt cũng giống như những ngôi
chùa trong rặng núi quê tôi, nghĩa là cũng xay lúa, cũng giã gạo. Nhiều khi tôi
cũng tưởng tượng hình ảnh lục Tổ Huệ Năng mặc chiếc áo tràn màu nâu đất, mang
đôi guốc gỗ lầm lũi bước đi, có lúc là giữa núi rừng chập chùng, có khi là trên
những con đường thôn dã giữa những người nông dân chân lấm tay bùn.
Khi lớn lên lưu lạc các chùa ở thành phố, sống giữa thế giới văn
minh tiến bộ, nên tất nhiên tôi cũng không còn đọc Kinh Pháp Bảo Đàn như đọc một
câu chuyện cổ tích nữa, nhưng lúc nào hình ảnh lục tổ Huệ Năng, ngôi chùa xưa
dưới bầu trời cao rộng, nơi một quê tĩnh mịch vẫn cứ sống êm đềm trong ký ức
tuổi thơ xa xôi của tôi.
Và tôi cũng nghĩ rằng, hễ bất cứ cái gì đưa tâm hồn con người đi
lên, đưa con người tiến về cái đẹp, thì cái đó là hình ảnh của thi ca vậy.
Dường như thế giới càng văn minh tiến bộ bao nhiêu, thì tâm thức
của con người hoang mang và lạc lỏng bấy nhiêu, sự hoang mang đó có lẽ cũng
giống như sự hoang mang của thần Tú ( Một con người rất uyên bác) khi ngũ Tổ bảo
phải làm một kệ khác để trình cái sở chứng của mình:
“Tâm trung hoảng hốt, thần tứ bất an, du như mộng trung hành
tọa bất lạc” (trong lòng hoảng hốt, thần tứ chẳn an, dường như giấc mộng, đứng
ngồi chẳn vui) (6) . Nghĩa là bất an và đau khổ vì cái sở học uyên bác của mình.
Có lẽ nhân loại đang đứng trước ngưỡng cửa thế kỷ 21 này, nên
khởi sự học lại từ đầu cái mà lục Tổ Huệ Năng đã bị mắng là: “Nhĩ giá lạp lão
bất tri” ( Con người man rợ này chẳng biết chi hết ) thì mới mong tìm được
một nền văn minh đích thực cho chính mình chăng ?
Chùa Hải Đức, Nha Trang, mùa hạ 98
Chú thích:
(1) Việt Nam Phật Giáo sự luận, tập I Nguyễn Lang, trang 204 NXB
Văn Học, Hà Nội 1994.
(2) Thiền Luận , D.T Suzuki, trúc thiên dịch, trang 144, NXB An
Tiêm Sài Gòn 1973.
(3) trang 161
(4) trang 356
(5) trang 331
(6) Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm tự tự.
(7) phẩm tự tự.