Mẹ Việt Nam gian khổ cay đắng hơn mọi ca ngợi vinh quang. Và đã là Mẹ
thì không cần vinh quang, mẹ có thể đổi vinh quang để lấy đau khổ thay
cho con. Bởi vì mẹ sống vì tình thương…
Tôi đến đây với một tâm
trạng xúc động do những tin tức gần đây về số phận của người phụ nữ Việt
Nam qua báo chí và bảng tổng kết giáo dục về dân số do Quỹ Dân Số Liên
Hiệp Quốc UNFPA tài trợ và Bộ Giáo dục
Đào tạo tổ chức. Những con số
không vui cho thấy số phận của người phụ nữ ngày hôm nay vẫn còn là vấn
nạn lớn cho xã hội Việt Nam trong thời đại toàn cầu hóa. Nếu người phụ
nữ không tự mình và không được xã hội tạo điều kiện nâng đỡ thì nguy cơ
toàn cầu hóa tiêu cực sẽ xảy ra cho phụ nữ Việt Nam, có thể thân phận
của họ còn éo le hơn cả nàng Kiều.
Khi chúng ta biết rằng, một trong
những thành tựu lớn của văn minh thời hiện đại và hậu hiện đại chính là
sự giải phóng phụ nữ trên quả địa cầu. Thế giới đã ghi nhận những thay
đổi tích cực về vai trò và
giá trị của người phụ nữ Việt Nam trong
xã hội hôm nay (Việt Nam là một trong những nước công nhận quyền bình
đẳng nam nữ tiên tiến).
Người phụ nữ Việt Nam, nói như một người bạn
Âu châu của tôi nhận xét, là biểu tượng quý giá nhất của đất nước Việt
Nam. Sự cao quý ấy cần được đất nước và con người Việt Nam gìn giữ, bảo
trọng, không thể phung phí như một món rẻ tiền.
Trước tiên, người phụ nữ cần ý thức rõ hơn ai cả về ý nghĩa của cụm từ
“là người phụ nữ Việt Nam” trong khung cảnh Việt Nam, trong điều kiện
đạo đức xã hội Việt Nam, và nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường
hiện nay. Phụ nữ cần được tạo nhiều cơ hội trao đổi học hỏi, trong tất
cả các tầng lớp quần chúng, vượt ra khỏi mọi khuôn sáo đóng khung họ
trong vai trò thụ động đã rỗng hết ý nghĩa; vượt ra khỏi những định
chế, ngay cả định chế của Hội Phụ nữ… Nếu Hội Phụ nữ cũng chỉ là một
cái khung gây nên sự loại trừ những người không ở trong Hội Phụ nữ.
Chính Hội Phụ nữ cũng nên mở rộng cái vốn xã hội đã trở nên vốn đóng
khung và khép kín cho chính người phụ nữ nói chung. Cần phải đến gần
hơn với thực trạng cụ thể của người phụ nữ, từ đó tìm ra những biện
pháp bảo đảm cho người phụ nữ có một cuộc sống xứng đáng “là người phụ
nữ” trong nghĩa không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, sang hèn đồng thời
vẫn “đẹp” trong bản chất phái tính của mình.
Tôi đã trải qua những phong trào giải phóng phụ nữ tại Âu châu, được
chứng kiến sức mạnh cũng như giới hạn, chừng mực cũng như sự quá khích
của nó. Thành quả khả quan của nó một phần lớn là do sự trưởng thành
tư tưởng từ thời khai sáng và tinh thần tôn trọng dân chủ của cả hai
giới tính. Có thể nói vấn đề giải phóng phụ nữ đòi hỏi một tinh thần
dân chủ tự nguyện rất cao đến từ những người trong cuộc, trước hết từ
cả bên nam giới và ngay cả những người phụ nữ.
Ta có thể đồng ý với một nhà khoa học xã hội, rằng: “làm đàn bà, có
nghĩa là tạo được thế quân bình giữa đàn ông và đàn bà”, điều ấy cũng
đúng cho nam giới, và ngay cả giữa nữ giới với nhau. Chỉ có thế quân
bình qua lại giữa giá trị và vai trò của nam nữ trên mọi bình diện,
bản chất và chức năng của người phụ nữ mới được bảo đảm.
Bản chất và chức năng cao quý của người phụ nữ Việt Nam từ nghìn xưa
đã từng được ca ngợi trong văn chương. Đức tính hy sinh, chịu đựng,
tận tụy tần tảo và trung kiên của người phụ nữ Việt Nam đã làm rúng
động biết bao con tim. Mẹ Việt Nam đã trở nên một khái niệm cốt tủy
của tâm tình Việt Nam từ muôn đời. Nhưng có lẽ khái niệm nào cũng chưa
đủ để có thể giải bày hết những gian nan khổ ải mà mẹ đã trải qua suốt
cả đời người. Mẹ Việt Nam gian khổ cay đắng hơn mọi ca ngợi vinh
quang. Và đã là Mẹ thì không cần vinh quang, mẹ có thể đổi vinh quang
để lấy đau khổ thay cho con. Bởi vì mẹ sống vì TÌNH THƯƠNG. Đây là
kinh nghiệm về mẹ của tôi, nhưng có lẽ cũng là kinh nghiệm chung về mẹ
của mọi người. Những người phụ nữ đã quên mình trong hy sinh và không
đòi công bằng. Tất cả những ca ngợi về sau đối với họ chỉ là ảo ảnh.
Ảo ảnh về đức tính người phụ nữ lắm khi bỏ quên thực trạng đắng cay mà
người phụ nữ phải gánh chịu, bỏ quên những đôi vai còng vì gánh nặng,
bỏ quên trẻ mồ côi, gái mãi dâm, phụ nữ bị lường gạt, phụ nữ bị bạc
đãi từ tinh thần đến thể xác.
Chính những thực trạng này đánh thức năng khiếu bẩm sinh của người phụ
nữ: tình thương. Nếu không có tình thương không thể làm rung động con
tim. Chính vì tình thương, người phụ nữ mới động tâm để hành động.
Phải đi từ quan điểm tình thương để tìm đích hướng cho người phụ nữ.
Nhưng cũng chính tình thương lại là điểm yếu của người phụ nữ trong
cuộc đời. Tình thương của người phụ nữ dễ bị lạm dụng và bóc lột tàn
nhẫn, nhất là một khi xã hội bị tha hóa về đạo đức, niềm tin, về nhân
bản và tình người. Và dĩ nhiên, cũng vì nghèo đói và nhất là không
được khai hóa.
Cho nên khai hóa giáo dục là điểm tiên quyết cho người phụ nữ. Trong
tiến trình toàn cầu hóa và trong trào lưu đổi mới xã hội hôm nay,
người phụ nữ cần được nâng đỡ để trau dồi trí tuệ, phải được khai hóa
trên bình diện tri thức, cần được hưởng những quy chế đào tạo đúng
mức, để quân bình tình cảm và thực hiện tình thương trong sự can đảm
để sử dụng trí tuệ của chính mình. Trí tuệ quan trọng cho sự thực hiện
đúng đắn, không làm sai lạc tình thương, như chính Đức Phật đã chỉ cho
ta con đường thực hiện giải phóng: Bi - Trí - Dũng. Khai triển trí tuệ
là triển khai bình đẳng và dân chủ, phá mọi phân biệt đối xử và ngu
dân.
Người phụ nữ có thừa tình thương của người xiếu mẫu (Bi), người phụ nữ
có đủ can đảm để sẵn sàng hy sinh (Dũng), và người phụ nữ có thừa
thông minh để học được những nghề nghiệp xứng đáng, cải thiện đời sống
vật chất và đi đến tự lập đối với nam giới.
Trong tiến trình giải phóng phụ nữ tại Âu châu, hiện nay có quan điểm
cho rằng, nam giới là những người thua cuộc ở nhiều điểm, và điểm nổi
bật nhất là trên thị trường lao động, trong lúc số phụ nữ đi làm tăng
lên bằng với tỷ lệ nam giới bị giảm xống, khuynh hướng nam giới thay
chức nội trợ cho phụ nữ càng ngày càng rõ rệt. Điều này cho thấy, sự
cải thiện đời sống và chức năng của người phụ nữ chỉ có thể thực hiện
thực sự khi có sự tương trợ của người khác phái cũng như cùng phái,
đồng thời xã hội sống là môi trường căn bản để sự khai hóa được nẩy
mầm.
Giáo dục khai sáng trong tình thương và tôn trọng nhân phẩm người phụ
nữ là điều kiện không thể bỏ qua hay xem khinh trong cuộc sống hiện
đại.
Trên đây là một vài suy tư tổng quát về vấn đề của Hội thảo. Riêng về
kinh nghiệm cá nhân của một người phụ nữ du học và lập nghiệp ở nước
ngoài, tình trạng như của tôi như người xiếc đi trên giây. Trong những
lúc hiểm nghèo thập tử nhất sinh - về phương diện tinh thần hơn là vật
chất - tôi đã có cơ may là người Phật tử dấn thân. Với tư cách là
người hành nghề dạy học, tôi có thể truyền đạt nếp tư tưởng và đạo đức
cao đẹp Đông phương cho người Đức, và như thế đã làm giàu thêm nguồn
cảm hứng tâm linh cho người cùng chung sống. Làm mẹ, tôi đã bước đầu
tập cho con cái tình thương bằng cách niệm Phật với con, và như thế,
cho dù được giáo dục trong môi trường “khai sáng” của nước Đức, con
gái tôi không bao giờ xa cách. Và dù có xa nhau nghìn vạn dặm, tiếng
niệm Phật làm gần mẹ con.
TKL
(Tham luận đọc tại một hội thảo về Phụ nữ do báo Sài gòn Tiếp thị tổ chức năm 2005)