Hãy bước qua cổng tre ngõ sau của vườn nhà, dạo xem hoa nở.
Như một cô gái nhỏ, „hiền” núp sau lưng, níu áo líu ríu bước theo.
Không quay lui nhìn mà biết mắt „hiền” đang lấp lánh, đuôi mắt dài hình
lá phượng, rất nhiều lần nheo lại rồi tròn xoe. „hiền” bé tí tẹo, nếu ai
nhìn từ hướng đối diện, thì sẽ không thấy người, chỉ thấy lá phượng
phất phơ trên tay áo hay hai hạt sương đang chập chờn bên vai tôi…
Con đường nhỏ nhỏ, cỏ xanh non mượt, buổi sáng còn ướt sương long
lanh, lấm tấm những búp violette, màu tím nhu mì, đượm duyên thầm; hương
violette không nồng, như một thoáng tình cờ trong gió sớm, quyện với
mùi sương trong lành, làm cho ánh nắng ban mai thêm dịu dàng, phơ phất
vài sợi tơ huyển ảo của khí trời, đưa bước chân hóa nhẹ như mây…
Vườn chưa cười hẳn trong nắng, bóng cây còn ngủ trên bãi cỏ, nhưng
hoa đã thức dậy từ khuya, từ tháng ba năm ngoái hay năm ngoái nữa, hay
những khuya nào…? Tiếng reo bất ngờ đầu tiên luôn luôn là khóm hoa
tuyết hình trái chuông, một sáng mai còn tê lạnh hơi băng, trỗi lên đột
ngột từ đám lá khô, hoa reo hay người reo? Hình như cả hai cùng một
lượt, năm nào cũng như năm nào, từ cửa sổ nhà, khánh hoa „diễm lệ” rung
chuông báo tuyết vừa tan, mùa xuân sẽ đến.
Thế rồi trời xuân dần sáng hơn khi khóm hoa vàng giông giống mai Huế
óng ả, rực rỡ bên dậu tre, hoa mơ bôi trắng cả góc vườn phía bắc đến
chóa mắt, hoa mận trắng xanh giữa bãi cỏ, hoa táo trắng hồng in lên nền
trời xanh, hoa tu líp năm màu và nhiều thứ hoa vừa dại vừa ngoan, lần
lượt nở rộn ràng.
Tôi dẫn „hiền” đi qua khóm hoa dại ra vườn sau, vừa đi vừa kể chuyện
người láng giềng khó tính hay dòm ngó khu vườn hoang ít được vun xới của
tôi. Vườn ông ngăn nắp đâu ra đấy, cỏ được uốn nắn trong từng ô vuông,
không được tràn lan ra lối đi, hoa hồng theo hoa hồng, hướng dương theo
hướng đương, thược dược đứng thẳng tắp, hoa bìm bìm leo hoang cũng được
nắn nót theo đường dây uốn quanh, các cây ăn quả sao mà khỏe mạnh, tươm
tất không mang một cành khô nào quá lứa. Cẩn thận một cách truyền thống,
khu vườn kiểu mẫu có luôn cả mấy ông già lùn râu bạc giữ vườn bằng đất
nung, mặc áo đỏ, quần trắng, đi hia màu xanh hay đen, ngày đêm cười hớn
hở cầm cuốc hay xuổng, đứng bên bồn cỏ, canh con sâu cái kiến. Ngăn nắp
thật!
Thế nên mỗi lần nhìn sang khu vườn hàng xóm, rất nhiều khi ông nổi
cơn dị ứng, mặt mày nhăn nhó với đám hoa dại mọc hỗn bên kia hàng rào và
bãi đất hoang sau vườn. Người láng giềng mê trồng hoa cũng bằng mê ngậm
ống pipe phì phèo, bao mùa quanh quẩn, không nhịn được cơn ghiền, ông
mon men đến mảnh đất bỏ không, nhổ cỏ, phạt cây, đổ đất, bón phân, chia
luống…Có trời biết! Tự dưng tôi được cái may làm cô hàng xóm Á châu có
đất bỏ hoang, còn ông có dịp làm ông Tây Ðức hàng xóm siêng năng, „được”
ươm cây, trồng tỉa, xới đất, bắt sâu mà không bị ai cự nự đi chiếm đất
thuộc địa của người.
Ðứng trong nhà nhìn ra, thường chỉ thấy cái mũ nồi của ông nhấp nhô,
là biết ông đang chăm chỉ sau vườn nhà, phía sau vườn thôi, còn cái vườn
riêng của người khác thì ông kính nhi viễn chi không bao giờ bước vào,
dù cỏ cao hơn thước cũng mặc…Này nhé, tháng mười tháng mười một, đào
luống cho củ thủy tiên, tu líp, cắt hết các nhánh cây úa lá cho hoa huệ,
hoa hồng, hoa cúc, hoa tường vi. Qua mùa tuyết, tháng ba tháng tư dọn
cỏ dại, nhặt hết sỏi đá, cào lá khô, thêm đất, sửa sang bồn cỏ đón tiết
xuân.
Chẳng biết ai chờ ai, hoa hay người ươm hoa? Không biết ông có nôn
nóng, bồn chồn đón hoa? Chỉ có mỗi khi tháng tư hoa bắt đầu sơ khai, cái
mũ nồi kia không thấy nhấp nhô nữa, ông thường vắng mặt những giờ hoa
nở. Chắc ông không chờ, người láng giềng Ðức của tôi trồng hoa theo nỗi
thôi thúc của mầm hoa, của rễ, lá, thân cây, đang tìm sự sống. Nắm trong
tay những thứ cây cỏ, sỏi đá, đất xốp, cảm giác sáng tạo gần gủi quen
thuộc làm ấm tay, rạo rực cả lòng. Chỉ chừng ấy thôi.
Hình như ông trồng hoa theo kiểu „mệnh lệnh phạm trù” của ông triết
gia Kant đấy, có nghĩa là tự do hành động theo tiếng gọi trong tâm,
không vướng bận một mục đích vọng ngoại nào, ví dụ trồng để bán hoa hay
hưởng một điều lợi gì, trồng hoa vì trồng hoa, chỉ là như thế, như một
lẽ „đạo với hoa”…
Con mắt lá phượng sau lưng đang cười tôi triết lý kỳ quặc về chuyện
ông hàng xóm trồng hoa. (Mà cũng nên nhớ một điều, để đừng lý tưởng hóa,
ông hàng xóm ni khó chịu lắm, không dễ thương chút nào ngoài chuyện
trồng hoa, nhưng cũng chẳng sao, ông nên không dễ chịu ở nơi mô khác,
cũng được, mà nên ngoại lệ hoài với những bông hoa trong vườn, cũng đủ!)
Còn tôi thì sao? thì đã hẳn tôi chẳng bao giờ chờ, vì đã không một lần nhúng tay vào đất…lòng hờ đã sẵn, ai đi bận tâm chờ đợi?
Chẳng có ai chờ đâu, mà rồi những ngày đầu xuân vẫn luôn là nỗi ngạc
nhiên về chiếc đũa thần ảo thuật thiên nhiên nơi bồn hoa ấy. Nỗi bất ngờ
sửng sốt như khi „gặp tiên”: vừa hé cánh cổng tre, phơi phới tràn vào
mắt những hoa thủy tiên như vừa mới được tắm gội bằng thứ nước sương
thuần khiết nhất của sáng đầu xuân, súng sính trong chiếc áo màu „trắng
nhìn không ra” hoặc „màu vàng mơ thôi” chưa hề có mặt trong một mùa nào
trên nhân gian. Thế là lòng nghe tở mở, con tim đập nhanh, niềm vui lanh
chanh như chân con chim khuyên không ngừng chuyền nhanh qua lá cành,
giữa vùng phương thảo muôn màu cẩm tú thanh thanh…
Từ buổi ấy, mỗi bước ra vườn một sáng xuân là mỗi lần hoa bắt môi
nhoẽn cười, con mắt sáng lên, bước đi hết gấp, đầu óc hết nghĩ, lo âu
chùng lại, quá khứ không sau, tương lai không trước, và hiện tại đang
là… Là hoa, là lá, là màu xanh, là bông trắng, là ngọc thạch, là tím
ngát, là hồng hương, là đỏ duyền quyên, là vàng mơ ảo…
Tôi nói với „hiền”, ai ở đây rồi cũng thành bà hoàng không ngai, cả
hoa lẫn người. Nhưng bà hoàng ở đây khác với mấy bà hoàng có ngai từ cổ
đến kim chỉ ở một điều: bà không trị vì hoa mà hoa ngự trị bà, bà không
ra lệnh hoa phải nở mà hoa ra lệnh bà „phải” ngắm khi hoa nở. Không ngắm
không được đâu nào, hoa lá phơi phới thế kia, không ngắm bơ hoài! Khu
vườn mùa xuân trước mắt là vườn thượng uyển trời trao cho đấy!
Chẳng nói ngoa đâu! Hãy xem! Sáng sáng - hoặc trưa hay chiều giờ nào
tùy lòng - đủng đỉnh ra vườn, ngắm hoa, thăm cây, đoán nụ. Hoa bày ra
trước mắt mà chẳng cần phải sở hữu nó, chẳng cần khư khư giữ của, không
cần tranh cải, dành phần, ai muốn ngắm muốn nhìn thì hoa đó của chung,
mặc tình thưởng thức, mặc tình đưa mũi lên không hít thở hương hoa. Yên
lặng nhìn hoa hay huyên náo thưởng hoa, tha hồ… Từ khi hoa bán khai cho
đến mãn khai, tùy duyên như gió! Người ngắm được vui, người trồng được
thỏa…Ở nơi khu vườn ấy thường không thiếu điều lạ, của hiếm, khó có trên
trần gian…
Năm nay không hiểu từ đâu, bên cạnh cổng tre, dưới chân cây tử đinh
hương đang sơ khai, có một loài hoa tím đến thăm đất vườn, nở sáng cả
một vùng. Buổi sáng mới mở cánh cửa tre chưa kịp bước hẳn ra ngõ, màu
tím làm ngợp đến nỗi phải dụi mắt nhìn cho rõ hơn, lại càng thấy lạ, bởi
từ khi dọn về vườn này, chưa bao giờ thấy một loài hoa như thế.
Dáng cây khỏng khảnh cao gầy, lá xanh đuỗn dài tựa lá gai, hoa đơm
từng chùm với những đóa bốn cánh tựa như hoa cải, chỉ khác thay vì màu
vàng, hoa hửng lên ánh tím long lanh, thoáng chút trang đài tựa màu sen
cánh giáng. Nhưng có lẽ hoa chẳng phải là loài hoa thuộc họ hàng cao
sang vì vẻ đơn sơ, hầu như hoang dã và lối mọc um tùm của nó; chắc chắn
nó không nằm trong kế hoạch hàng năm của người láng giềng đầy kỷ cương
trồng tỉa của tôi, thường cho cây hoa mọc theo thứ tự lớp lang. Chỉ là
một tình cờ, không định trước mà hoa đến đây, mọc dại, mọc tràn, lại nở
rộn nở ràng làm cho người láng giềng không kịp nghiêm khắc khai trừ.
Có thể do một cơn gió lộng nào, từ phương trời xa thật xa, tận tít
phương đông, hạt hoa bị tung cuốn đi hàng vạn dặm, đang bay lơ lững trên
không, ngang qua trời Munich, bỗng thấy cái cổng tre, tưởng đã đến vườn
cũ quen thuộc nên sà xuống nằm ngủ suốt mùa đông như thế. Có thể trước
kia hoa đã là hoa cải màu vàng rủ bướm về trong nắng xuân trên biền
Lương Quán, bướm đem bụi cải về ngàn, gió ngàn mang cánh bướm theo mây,
mây theo mây bay mãi, đến tận mút trời bên tê, bên tê trời chuyển lạnh,
hóa thành mưa, đem hương phấn về với đất. Mùa xuân đến, hoa cải vàng
suốt mùa đông nằm nhớ cố viên, nỗi nhớ thiết tha, đến nỗi hoá tím tự bao
giờ, nên khi trỗi dậy, hoa mang một màu tím lạ lùng, vừa ngây ngất nhớ
vừa đắm đuối thương… đến gấp mười cái thương của xứ Huế…
Hôm trời vừa ấm, mở ngõ ra vườn, cảm giác gặp hoa thật lạ lùng. Trong
bóng lá xanh cây tử đinh hương, màu tím như gợi nhớ một vùng đất hoang
vu nào đó trong quá khứ, thoảng đến như một điệu hát buồn, thân thuộc,
thân như hơi áo tím ấm nồng của bà nội, như hương tím xưa thoảng từ tóc
dài của mẹ, như ước mơ tím hiền trong mắt của cô gái mười sáu, như nhung
nhớ tím ngát thời gian bên bến cũ Văn Lâu…
Cảm giác đẩy ta giật lùi vào quá khứ, xui chân bước lui, bước lui mãi
về đến tận nơi Hà Khê nước chảy đường mê, những tưởng sẽ buồn triền
miên vì nhớ, những tưởng sẽ buốt lòng như „nghe sầu âm nhạc đến sao
Khuê”[2] …
Nhưng không, màu hoa gợi nhớ mà không gây sầu, vì màu hoa tươi mát
hồn nhiên như ngày và đêm, như nắng và mưa, như trăng và sao, như giòng
suối nhỏ hiền hòa làm lành vết gai sướt chân giang hồ, như tiếng „quỳnh”
khúc khích sau lưng[3] khiến lòng chợt mừng, không chờ mà gặp được cố nhân...
Từ xưa đến nay, có vườn thượng uyển nào được một loài hoa mọc dại mà
không bị biếm đi đất Thục như đi vào thùng bi –ô để làm nước tưới cho
những loài hoa quí khác? Và có bà hoàng nào hạnh phúc hơn tôi, không có
lầu vàng gác tía nguy nga, thiên nga thị nữ, nhưng một sáng tinh mơ, vừa
bước chân ra ngõ, đã gặp quê hương, bên dậu tre ngát màu hoa tím?
Cái cảm giác hạnh phúc bãng lãng đến từ đôi chân loắng thoắng trong
màu tím ngỡ như đang chạm trên đất quê hương tôi muốn chia cho „hiền”
một nửa…chắc không khác chi„một chút quê hương” nơi những khóm sả, những
vườn rau, bụi chuối mà người tha hương nhớ quê đem theo trồng lại trên
khắp địa cầu…đơn sơ lắm, chỉ cần chân lướt thướt dạo qua là niềm vui quê
xưa tự nhiên tở mở…Cần chi là hoàng hậu…”trạng” như tôi hè?
Nghe có ai níu áo đòi về…con đường xiêu lối nhỏ… Quay lui với ấm trà,
chợt thấy lá phượng phất phơ biến đâu mất, sương đã tan đầu ngõ…chỉ
nghe một tiếng reo nhỏ rớt trong không…Tôi nhìn quanh, bỗng thấy trong
đám hoa màu tím một đóa hoa khác tộc - hiền không phải hiền, tú nhường
như tú, quỳnh chẳng hơn quỳnh, thu từa tựa thu, khánh tuyền như khánh,
oanh mới vừa oanh, khuê chẳng khác khuê, lan chưa thật lan - màu hoa
hồng tía ửng chút vàng mơ, nhón gót đứng chen hoa tím, cũng yêu kiều vẻ
Huế… với nhau…
TKL
Muenchen - Mùa Phật Ðản 2549
[1] Thơ Huy Cận „Ði giữa đường thơm“, trong tập thơ „Ði giữa đường thơm“
[2] Thơ Xuân Diệu
[3] Lời nhạc Trịnh Công Sơn.