Suốt một trăm
năm qua, hai nền vật lý tương đối và lượng tử được phát triển cao độ với
những lý thuyết mới cũng như các phương pháp thực nghiệm mới. Song
song, người ta tìm cách thống nhất hai lý thuyết đó với hy vọng tiến tới
một lý thuyết chung nhằm soi sáng toàn bộ thế giới vật chất, từ lĩnh
vực vô cùng nhỏ của nguyên tử và dưới (hạ) nguyên tử đến mức độ vô cùng
lớn của các thiên hà cách ta hàng tỉ năm ánh sáng. Giữa hai lĩnh vực cực
tiểu và cực đại này, người ta hy vọng tìm những đơn vị cuối cùng của
vật chất trong lĩnh vực cực tiểu và do đó, thuyết lượng tử được phát
triển hết sức mạnh mẽ. Ngày nay ngành vật lý lượng tử vẫn nằm trong đà
triển khai, chưa ai có thể kết luận điều gì về cơ chế cuối cùng của vật
chất cả. Trong quá trình khảo sát những đơn vị nhỏ nhất của vật chất,
nền vật lý lượng tử phát hiện rất nhiều “nghịch lý” xuất phát từ những
kết quả đo lường và phương cách xuất hiện của vật chất. Những nghịch lý
đó nêu lên những câu hỏi quan trọng về triết học, về nhận thức luận, về
bản thể học..., thậm chí về cả những vấn đề dường như không liên quan
đến vật lý như khả năng của ngôn ngữ khi diễn đạt các vấn đề vật lý, như
các vấn đề sinh lý học (physiology) liên quan đến cái thấy, cái nghe
trong việc thu lượm kết quả thực nghiệm v.v...
Vì những lý do
trên, nền vật lý lượng tử đang đứng trước những luận đề vô cùng cơ bản
của loài người như: thế giới vật chất này do những gì tạo ra, tự tính nó
là gì, mối tương quan của nó với ý thức con người ra sao, thế giới vật
chất như ta thấy phải chăng tồn tại độc lập thực như thế, hay chỉ là
bóng dáng của một thực tại khác... Bài này sẽ giới thiệu một trong những
hướng phát triển của vật lý lượng tử và nêu lên sự song hành của nó với
vũ trụ quan của Phật giáo Đại thừa, được phát biểu trong kinh Lăng
Nghiêm.
Điểm xuất phát
Trong thời điểm hiện nay, theo thuyết lượng tử, vật chất có ba đặc tính sau đây:
1.
Trong thế giới cực tiểu, vật chất vận động một cách phi liên tục, trong
nghĩa là hoạt động của vật chất được hình thành bởi những “lượng tử”
rất nhỏ nhưng cụ thể và không thể phân chia. Sự vận động của vật chất
“nhảy từng bước” chứ không “chảy” một cách liên tục.
2. Các đơn
vị vật chất (thí dụ electron) có những đặc tính khác nhau. Khi thì nó
xuất hiện như hạt, khi thì như sóng, khi thì nửa sóng nửa hạt, tùy theo
điều kiện xung quanh và tùy theo các phương tiện quan sát và dò tìm
chúng.
3. Trong một số trường hợp, hai đơn vị vật chất (thí dụ
hai electron trước đó thuộc về một phân tử nay đã bị cách ly) có một mối
liên hệ liên thông (non-local). Hai đơn vị đó “biết” đến tình trạng của
nhau một cách tức thời, dù chúng bị cách ly với khoảng cách bất kỳ.
Đặc
tính thứ nhất của sự vận động của vật chất trong mức độ vô cùng bé là
khác với sự vận động trong thế giới vĩ mô của chúng ta. Đường đi của vật
thể trong sự rơi tự do hay quỹ đạo của thiên thể luôn luôn vẽ nên một
đường cong liên tục. Tuy thế, đặc tính thứ nhất này vẫn còn tương thích
với lý tính (reason) của đầu óc con người. Đặc tính thứ hai được xem là
một nghịch lý vì sóng và hạt là hai dạng tồn tại của vật chất hoàn toàn
khác nhau, loại bỏ lẫn nhau. Thế nhưng hai dạng tồn tại đó của vật chất
được kết quả thực nghiệm thừa nhận một cách thuyết phục, do đó người ta
vẫn chấp nhận chúng như hai dạng tồn tại song song, thậm chí thiết lập
mối quan hệ về toán học giữa hai bên một cách dễ dàng.
Đặc
tính thứ ba của vật chất mới nghe qua không có gì to tát lắm, nhưng
thực ra nó dẫn ta tới nghịch lý quan trọng nhất từ xưa tới nay. Đó là,
vì tính chất “liên thông” này, ta phải từ bỏ một trong hai quan niệm sau
đây: a) có một thế giới khách quan tồn tại độc lập ở bên ngoài ý thức
con người, hay b) vận tốc của tín hiệu vật lý có thể đi nhanh hơn ánh
sáng. Cả hai quan niệm nói trên đều là những điều bất khả xâm phạm trong
ngành vật lý, bởi lẽ nếu không có một thế giới vật chất độc lập thì
toàn bộ ngành vật lý mất đi đối tượng của mình, thì vật lý và tâm lý sẽ
bị quy thành một. Mặt khác, nếu có tín hiệu đi nhanh hơn ánh sáng thì
thuyết tương đối bị bác bỏ, thì con người có thể đi trước cả tương lai
và biết bao nhiều điều “vô lý” của khoa học giả tưởng sẽ thành sự thực
cả.
Nhưng trước hết, ta cần giải thích do đâu mà có đặc tính thứ
ba nói ở trên. Năm 1935, Einstein và cộng sự đề nghị một phép “thí
nghiệm bằng tư tưởng” nhằm nêu lên sự thiếu sót của thuyết lượng tử
trong việc tìm hiểu tính chất thực sự của các hạt hạ nguyên tử[1]. Thí
nghiệm nổi tiếng này được mệnh danh là nghịch lý EPR. Ở đây ta chỉ trình
bày EPR một cách hết sức đơn giản. Trong nghịch lý này, Einstein cho
cách ly hai đơn vị vật chất A và B (thí dụ nguyên tử hay electron),
chúng vốn nằm trong một thể thống nhất và do đó chúng có sẵn một mối
liên hệ với nhau, thí dụ tổng số spin của chúng bằng không. Nay ta cách
ly chúng hàng vạn dặm, không để cho chúng có thể tương tác lẫn nhau. Khi
đo một trị số spin của A thì B lập tức có một trị số, để tổng số của
chúng bằng không. Trong thuyết lượng tử, vì nguyên lý bất định, người ta
cho rằng hành động đo lường đã xác định một trị số tại A và làm “nhòe”
đi các trị số khác cũng tại A. Câu hỏi của Einstein là tại sao B “biết”
được trị số tại A để phản ứng tức khắc, mà điều này sẽ vi phạm quy luật
vật lý là không có tín hiệu nào đi nhanh hơn vận tốc ánh sáng.
Nghịch
lý EPR này được tranh cãi suốt nhiều thập niên. Nhà duy thực[2]
Einstein cho rằng A và B phải có những tính chất thực sự, khách quan,
riêng biệt, có thể cô lập được, chúng đã có những tính chất đó trước khi
hành động đo lường xảy ra. Khoảng ba mươi năm sau khi nghịch lý EPR ra
đời, Bell’s Theorem quả quyết quan niệm tính chất “thực sự, khách quan,
riêng biệt” là không thể tương thích với cơ học lượng tử [3] . Năm 1981,
Alain Aspect tại Đại học Paris đã chứng minh là kết quả thực nghiệm
tuân thủ cơ học lượng tử và bác bỏ các lý thuyết của tính chất “thực sự,
khách quan, riêng biệt”[4] của vật chất. Điều đó có nghĩa hai hạt A và B
có mối liên hệ liên thông, khi đã ở trong một thể thống nhất rồi, chúng
cần được quan niệm là một hạt dù có tách rời chúng ta vạn dặm đi nữa.
Hơn thế nữa, hạt đó không có tính chất riêng biệt gì cả, mà khi ta đo
lường, các tính chất riêng biệt của chúng (thí dụ spin) mới xuất hiện.
Khi
thuyết “thực sự, khách quan, riêng biệt” của vật thể bị bác bỏ thì một
thực tại vật lý độc lập, có tính chất riêng biệt cũng bị đặt lại vấn đề.
Dĩ nhiên ở giai đoạn này, các kết quả vật lý đã sinh ra những phép diễn
giải (interpretation) khác nhau, mang đậm tính triết học. Người ta ngờ
rằng thế giới hiện lên trước mắt ta sở dĩ có tính chất riêng tư là vì
hành động đo lường của chính chúng ta. Thế thì phải chăng thế giới mà
chúng ta đang thấy vì ta đo lường nó (hay nói chung vì ta nhận thức nó)
mà nó “có”? Phải chăng nó không hề tồn tại một cách độc lập. Đó là lý do
mà đặc tính thứ ba nói ở trên buộc ta phải từ bỏ một trong hai điều bất
khả xâm phạm của ngành vật lý, một bên là có tín hiệu đi nhanh hơn ánh
sáng, bên kia là thế giới vật chất với những đặc tính riêng của nó không
hề tồn tại độc lập mà chỉ xuất hiện khi ta nhận thức nó.
Nếu
mệnh danh thực tại trước khi ta nhận thức nó là “thực tại lượng tử”
(quantum reality) thì ít nhất ta phải thấy là sự biến hình từ thực tại
lượng tử ra thế giới mà ta đang nhận thức bằng cảm quan là rất kỳ lạ.
Hiện nay chưa ai đề ra được một giải pháp thuyết phục được tất cả mọi
người về vấn đề này. Người ta chỉ biết rằng, cần phải đưa hành động đo
lường (tức là quan sát viên) vào trong một tổng thể vật được quan
sát-người quan sát thì mới hiểu được sự vật. Đi xa hơn, nhiều người thấy
phải đưa ý thức hay hoạt động của ý thức như một yếu tố chủ yếu vào
tổng thể này, thí dụ Eugene Wigner, nhà vật lý đoạt giải Nobel. Thế
nhưng đi xa hơn nữa, người ta phải thấy “ý thức” thông thường của con
người là một loại ý thức bị quy định trong tầm nhìn “cổ điển”, không
tương thích với tính chất lượng tử của nền vật lý mới. Nhà vật lý Nick
Herbert viết như sau: “Nguồn gốc của mọi nghịch lý lượng tử hình như
xuất phát từ thực tế là, sự nhận thức của con người tạo ra một thế giới
gồm những thực thể chuyên biệt - do đó kinh nghiệm của chúng ta buộc
phải có tính chất cổ điển - trong lúc thế giới lượng tử thì hoàn toàn
không phải như thế”. Có lẽ Nick Herbert đã điểm đúng huyệt của vấn đề.
Đó là phép nhận thức của con người phương Tây, nhất là các nhà vật lý
duy thực, xuất phát từ hệ tư tưởng xem “vật ở ngoài nhau”, xem sự vật bị
dàn trải trong không gian và được nối với nhau bằng lực tương tác. Đó
là đặc trưng của nền vật lý cổ điển Newton. Trong lúc đó, vật lý lượng
tử - dù đang có nhiều kiến giải khác nhau - ít nhất cũng đòi hỏi cần xem
vật được quan sát và người quan sát phải được thống nhất trong một thể
chung.
Vì vấn đề phức tạp này của bản thể học và nhận thức luận,
hiện nay người ta đứng trước một tình trạng phân kỳ trong ngành vật lý
khi tìm đến thực tại “cuối cùng” của thế giới hiện tượng.
Thuyết “sự vận động toàn thể” của David Bohm
Nhằm
tiến tới một lý thuyết giải thích được những hiện tượng vật lý trong
hai thuyết, cơ học lượng tử và thuyết tương đối và nhất là những nghịch
lý được nêu lên, David Bohm phát triển một lý thuyết được gọi là “sự vận
động toàn thể” (holomovement). Khái niệm trung tâm của thuyết này là
“thứ bậc nội tại “ (implicate order).
1. Thứ bậc và thứ bậc nội tại[7]
“Thứ
bậc” (Order) là khái niệm mới do Bohm nêu lên. Đối với Bohm, mỗi thực
tại, mỗi sự vận động có thứ bậc của nó. Cùng với các phát hiện mới,
ngành vật lý dần dần khám phá thứ bậc của sự vận động, với những mức độ
từ cạn tới sâu. Sự vận động cơ giới trong lý thuyết của Newton được Bohm
gọi là có “thứ bậc không gian Descartes”. Trong thứ bậc này, mọi sự vật
đều được xem là riêng lẻ, cái này nằm ngoài cái kia và tác động lên
nhau bằng lực tương tác giữa vật thể.
Với lý thuyết tương đối và
cơ học lượng tử, dù giữa hai bên có những khác biệt vô cùng cơ bản (như
tính chất phi liên tục, tính ngẫu nhiên, tính liên thông... của vật lý
lượng tử), Bohm thấy cả hai đều mang chung một thứ bậc mới, đó là ta
phải xem sự vật là một cái toàn thể không thể phân chia (undivided
wholeness), trong đó sự cách ly các yếu tố của sự vận động không còn
được chấp nhận. Thứ bậc này hoàn toàn khác với thứ bậc trong nền vật lý
của Galileo và Newton. Thí dụ không gian, thời gian là một thể thống
nhất trong thuyết tương đối, người quan sát và vật được quan sát là một
thể thống nhất trong cơ học lượng tử.
Sự phát triển của vật lý
hạ nguyên tử gần đây cũng như những nghịch lý trong ngành vật lý đòi hỏi
ta phải có một lý thuyết lý giải được vấn đề. Nhất là nghịch lý EPR xem
ra buộc ta phải từ bỏ một trong hai quan niệm hầu như bất khả xâm phạm
của ngành vật lý như đã trình bày ở trên. Ở đây, Bohm cho rằng phải đi
sâu thêm một mức độ nữa để thấy một thứ bậc mới của thực tại. Thứ bậc
này được Bohm mệnh danh là “thứ bậc nội tại” (implicate order). Nội dung
của thứ bậc này là “cái toàn thể nằm trong từng cái riêng lẻ”. Nói rõ
hơn, thực tại là hình ảnh của toàn vũ trụ được chứa ẩn tàng trong từng
đơn vị nhỏ nhất của bản thân nó.
2. Ảnh toàn ký (Hologram)
Khái
niệm thứ bậc nội tại nói trên khó hiểu nên Bohm đề nghị ta hãy liên
tưởng đến một “ảnh toàn ký” (Hologram) để nắm bắt được ý nghĩa của quan
niệm này. Ảnh toàn ký là hình ảnh ba chiều được hình thành bởi tia sáng
laser. Đầu tiên, một vật thể ba chiều được chiếu rọi bằng laser và sau
đó cho phản chiếu lên phim. Tấm phim lại được rọi bằng một nguồn laser
thứ hai. Hai nguồn laser sẽ giao thoa với nhau trên phim và ảnh giao
thoa sẽ được ghi lại trên phim. Ảnh giao thoa chỉ là những nét chi chít
đậm nhạt hầu như vô nghĩa. Thế nhưng nếu ta rọi phim đó bằng một nguồn
laser khác thì sẽ hiện lên hình ảnh của vật thể ban đầu trong dạng ba
chiều.
Điều kỳ lạ là nếu ta cắt tấm phim ra làm hai phần và chỉ
rọi một nửa thì toàn bộ hình ảnh ba chiều vẫn tái hiện. Nếu ta cắt nhỏ
tấm phim ra thành những đơn vị rất nhỏ, hình ảnh toàn phần ba chiều vẫn
hiện lên đầy đủ, dĩ nhiên kích thước của nó bị thu nhỏ đi. Điều đó có
nghĩa, mỗi phần nhỏ nhất của tấm phim vẫn chứa đầy đủ nội dung toàn phần
của vật thể ban đầu.
Theo Bohm, thế giới hiện ra trước mắt ta
chỉ là một hình ảnh hologram của thực tại và sự vận động của thực tại
được Bohm gọi là holomovement (sự vận động toàn thể).
3. Quan niệm về thực tại của David Bohm
Theo
Bohm, vũ trụ, thế giới vật chất mà ta đang thấy xung quanh mình là dạng
hình được khai triển (unfolded) từ một thực tại sâu kín hơn. Thực tại
sâu kín này là một cái toàn thể bất khả phân, không thể định nghĩa,
không thể đo lường. Trong thực tại này, mọi sự đều liên kết chặt chẽ với
nhau. Thực tại này không nằm yên mà luôn luôn vận động nên được mệnh
danh là “sự vận động toàn thể” (holomovement) và nó là nguồn gốc, là cơ
sở của mọi dạng xuất hiện của vật chất và tâm thức.
Muốn hiểu
quan niệm thực tại của Bohm, ta cần từ bỏ phép giải tích, từ bỏ cách
nhìn vũ trụ hiện nay như ta đang nhìn, xem nó gồm nhiều phần tử đang dàn
ra trong không gian thời gian, điều mà Bohm gọi là “thứ bậc dàn trải”
(explicate order). Sự thay đổi thứ bậc này trong cách cảm nhận vũ trụ là
khó khăn hơn cả sự chuyển đổi tư duy từ vật lý cơ giới qua thuyết tương
đối hay qua cơ học lượng tử. Thứ bậc nội tại đòi ta biết cách nhìn “một
trong tất cả, tất cả trong một”, một điều rất xa lạ với con người bình
thường.
Hãy nêu lên vài ẩn dụ để tới với cách nhìn này: Xem hệ
phát sóng truyền thanh truyền hình. Nội dung phong phú của chương trình
đã được chứa “ẩn tàng” trong mỗi đơn vị của sóng, lan tỏa trong không
gian với vận tốc ánh sáng. Khi gặp máy thu hình thì thứ bậc ẩn tàng đó
đã được “bung” ra để thành hình ảnh hay lời nói. Hoặc khi ngắm nhìn vũ
trụ, ta thấy vô số vật thể trong không gian vô tận, chúng đại biểu cho
sự vận động trong thời gian vô tận. Vô số những quá trình đó được chứa
ẩn tàng trong sự vận động của ánh sáng thông qua một khoảng không gian
tí hon của con mắt. Và sau đó nó “bung” ra trong óc ta để ta thấy vũ
trụ. Trong cơ thể sinh vật, mỗi một tế bào nhỏ nhất cũng chứa DNA, thông
tin của toàn bộ cơ thể đó. DNA cũng là một hình ảnh dễ hiểu của quan
niệm “một trong tất cả, tất cả trong một”. Thí dụ giản đơn và có tính cơ
giới nhất là một thanh nam châm với hai cực nam bắc. Nếu ta cắt thanh
nam châm đó làm hai thì lập tức chỗ cắt sẽ sinh ra hai cực nam bắc. Nếu
tiếp tục cắt thì ta sẽ có tiếp những thanh nam châm nhỏ hơn nữa. Do đó
ta có thể nói mỗi điểm trong thanh nam châm đã chứa “ẩn tàng” hai cực
nam bắc. Có cắt thì hai cực đó mới hiện ra, không cắt thì chúng nằm
trong dạng “nội tại”.
Những ẩn dụ trên có thể có ích để hình
dung về một thứ bậc nội tại nhưng chúng có hiểm nguy là làm ta lầm tưởng
thực tại như là “sóng truyền hình” hay một không gian với các đơn vị
vật chất riêng lẻ và tuân thủ theo những qui luật nhất định. Ngược lại,
theo Bohm, thực tại là một thể thống nhất đang vận động, không thể phân
chia, không thể định nghĩa, không thể đo lường mà một số dạng xuất hiện
của nó hiện ra với ta như hạt, như sóng hay như những đơn vị tách lìa
nhau và có tính chất ổn định tương đối. Những đơn vị vật chất, thí dụ
electron, chỉ là một cái tên tạm đặt cho một khía cạnh xuất hiện của
thực tại đó. Vật chất chỉ là một số dạng được “dẫn xuất” (abstracted) từ
thực tại đó. Các quy luật vật lý đều là những lý thuyết áp dụng cho một
số hiện tượng xuất phát từ sự vận động toàn thể đó. Và toàn thể vận
động chính là sự tiếp nối liên tục giữa hai giai đoạn ẩn-hiện
(enfold-unfold) của sự vận động toàn thể, mà vũ trụ của chúng ta chỉ là
một phần rất nhỏ của nó.
Theo Bohm, phương pháp thông thường đến
nay của vật lý là xem sự vật vốn tách biệt và được nối với nhau bằng
những lực tương tác. Nhiệm vụ của khoa học là xét các sự vật riêng biệt
và sau đó thấy cái toàn thể là tổng số các sự vật. Ngược lại, trong quan
niệm thứ bậc nội tại, người ta phải bắt đầu với cái toàn thể bất khả
phân và nhiệm vụ của khoa học là suy ra các phần đơn lẻ của nó bằng cách
trích dẫn, xem chúng chỉ là những phần tử tạm thời ổn định và độc lập.
Những phần tử xuất hiện có tính tạm thời đó được mô tả bằng “thứ bậc dàn
trải”. Trên cơ sở này, Bohm nêu lên những nhận định như sau:
-
Trong quá trình ẩn-hiện nhanh chóng của sự vận động toàn thể đó, có
những dạng xuất hiện mà giác quan ta thấy là hạt. Chúng nối tiếp nhau
xuất hiện trong thứ bậc dàn trải, khi thì ta thấy chúng nằm trên đường
thẳng, khi thì hình cong trong không gian và tưởng có những lực tương
tác chúng với nhau. Thực tế chúng là dạng xuất hiện kế tiếp nhau của một
“tập hợp” (ensembles) không mang tính chất không gian. Ngược lại, vì
chúng “hiện” ra liên tiếp, cái này sau cái kia mà ta thấy có không gian.
Quan niệm này giải thích dễ dàng sự phi liên tục trong sự vận động được
nêu ra bởi cơ học lượng tử. Ngoài ra, vì hạt chỉ là dạng xuất hiện của
sự vận động toàn thể, nên khi những điều kiện thay đổi thì dạng xuất
hiện cũng thay đổi, lúc đó nó có dạng sóng. Nghịch lý của sóng-hạt không
còn tồn tại trong quan niệm về thực tại này nữa. Vật chất chỉ là một số
khía cạnh thứ cấp của cái toàn thể đang vận động (subtotality of
movement).
- Xuất phát từ cơ học lượng tử, đặc biệt từ nghịch lý
EPR, ta phải tin rằng thứ bậc nội tại có nhiều chiều
(multidimensional). Thứ bậc dàn trải ba chiều của chúng ta chỉ là một
hình chiếu (projection) của thứ bậc nội tại. Trước vấn đề của mối liên
hệ “liên thông” (đặc tính thứ ba) nói ở trên, Bohm dùng thứ bậc nội tại
nhiều chiều để giải thích và dùng ẩn dụ “hồ cá” sau đây để minh họa.
Trong một hồ cá chỉ có một con cá duy nhất. Hồ cá được thu hình bằng hai
máy quay phim từ hai hướng khác nhau. Hai máy quay phim đó được ghi
hình lên hai màn ảnh khác nhau A và B. Như ta thấy, hình A và B không hề
có mối liên hệ nhân quả hay tương tác gì với nhau cả, chúng chỉ là hai
hình của một vật thể (con cá) duy nhất.
Tương tự như thế, hai
đơn vị vật chất có mối liên hệ liên thông chẳng qua chỉ là hình chiếu
của một đơn vị duy nhất của một thực tại nhiều chiều hơn. Thật ra chúng
chẳng tương tác với nhau gì cả, chỉ là hai dạng khác nhau của một thực
thể. Sự tách biệt của chúng trong không gian chỉ là một ảo tưởng
(illusion) của chúng ta khi đứng trước thứ bậc dàn trải, nơi đó thực thể
nọ đã bị “dàn trải” làm hai đơn vị. Theo Bohm, số lượng kích chiều của
thứ bậc nội tại là vô tận (infinite).
- Xuất phát từ quan niệm
năng lượng là vô tận trong chân không lượng tử, Bohm quan niệm vũ trụ là
một biển năng lượng đa chiều đang vận động trong dạng của thứ bậc nội
tại. Vũ trụ vật chất mà ta đang thấy chỉ là một dạng hình của năng lượng
bao la đó khi bị kích thích sinh ra. Dạng hình đó có tính chất ổn định
tạm thời và chiếu hiện lên không gian ba chiều theo cách của thứ bậc dàn
trải. Còn không gian trống rỗng mà ta đang thấy là được chứa đầy bởi
một thứ “tinh chất” (plenum). Tinh chất này không có chất liệu vật chất
như quan niệm ê-te của thế kỷ thứ 19. Quan niệm về vũ trụ hiện nay là
quan niệm “big bang”, cho rằng khởi thủy là một vụ nổ từ một điểm nhỏ
trong không gian và thời gian cách đây hơn 10 tỉ năm. Trong quan niệm
của Bohm thì vụ nổ đó chỉ là một gợn sóng nhỏ (just a little ripples)
của biển năng lượng mênh mông kia. Hiện tượng “lỗ đen” cho phép ta dự
cảm có nhiều vũ trụ khác tồn tại song hành, cũng trong dạng thứ bậc dàn
trải như vũ trụ vật chất của chúng ta.
- Bohm cho rằng không có
sự khác biệt giữa thế giới vô sinh và sự sống. Cả hai đều lấy thứ bậc
nội tại làm gốc, lấy nơi đó những “thông tin” (information) cho sự vận
hành của quá trình của bản thân mình. Cũng như hạt giống của một cây con
là nơi chứa đựng và phát xuất thông tin để “lèo lái” các thành phần
xung quanh (đất, nước, ánh sáng mặt trời) cấu tạo nên cây thì các đơn vị
vật chất cũng tiếp nhận “thông tin” từ thứ bậc nội tại để xuất hiện
từng chập nhanh chóng, do đó mà ta thấy chúng dường như tồn tại liên
tục. Vì vậy, đối với Bohm, sự sống (life) được chứa ẩn tàng trong thứ
bậc nội tại. Trong một số dạng của hiện tượng thì sự sống không xuất
hiện rõ nét, trong một số khác thì rõ ràng hơn.
- Cuối cùng,
Bohm đi một bước dài và cho rằng ý thức con người cũng lưu xuất từ thứ
bậc nội tại đó. Vật chất và ý thức có tác dụng hỗ tương lẫn nhau, ý thức
sinh ra những dấu vết trên vật chất và ngược lại. Do đó, hai mặt này
bắt nguồn từ một thứ bậc chung, có kích chiều cao hơn. Cả hai vật chất
lẫn ý thức đều là dạng xuất hiện của thực tại nhiều kích chiều đó. Bohm
đề nghị một đơn vị cơ bản vận động trong thứ bậc nội tại đó, ông gọi là
“chập” (moment). Một chập chứa tất cả những chập khác, một chập có thể
rất nhỏ hoặc rất lớn, có khả năng “bung” ra trên thứ bậc dàn trải để
thành không gian và thời gian. Mỗi chập trong sự vận động sẽ hiện ra
trong thứ bậc dàn trải, lại trải nghiệm nó, trở nên phong phú rồi tác
động ngược lại vào trong để sinh ra một lực mà Bohm gọi là “lực thiết
yếu” (force of necessity) để sinh ra chập sau. Ý thức và thân vật chất
đều là phản ánh của thực tại đó, chúng không có mối liên hệ nhân quả với
nhau và xảy ra đồng thời. Khi nói ý thức là ý thức cá thể nhưng nó nằm
chung trong một biển mênh mông của một thực tại duy nhất. Mỗi ý thức cá
thể đều chứa toàn bộ thực tại đó.
Dạng vật chất của mọi hiện
tượng là phản ánh của sự vận động toàn thể, nên nếu chỉ xét dạng vật
chất thôi ta cũng có thể đến gần với sự thực nhưng sẽ không đầy đủ. Do
đó, những quan niệm khoa học đứng trên cơ sở của thứ bậc dàn trải là
không sai nhưng không trọn vẹn. Thí dụ, khi xét lịch sử của sinh vật, ta
có thể sử dụng thuyết chuyển hóa (evolution) nhưng thuyết này sẽ có
tính cách rất cơ giới. Nếu lấy sự vận động toàn thể làm cơ sở, ta sẽ xem
đây là một loạt những dạng của sự sống đã triển khai một cách đầy sáng
tạo.
Mối liên hệ với kinh Lăng Nghiêm
Thuyết “sự vận
động toàn thể” với quan niệm then chốt “thứ bậc nội tại” là một bước
nhảy vọt của khoa học vật lý trong vũ trụ quan. Xưa nay, người ta thấy
thế giới hiện tượng là một thực thể khách quan, nằm ngoài con người và
xem nó là đối tượng đích thực của ngành vật lý. Cả thuyết tương đối lẫn
cơ học lượng tử, dù có xem người quan sát (và thiết bị quan sát) cần
phải được thống nhất vào chung một thể với vật bị quan sát, nhưng nói
chung nền vậy lý vẫn giả định có một thực thể ở “bên ngoài”. Thực tế là,
quan niệm “vật ở ngoài nhau” là đặc trưng của ý thức hệ phương Tây, bắt
nguồn từ thời Hy Lạp cổ đại.
Nay, khi thuyết của Bohm xem thế
giới hiện tượng chỉ là thứ bậc dàn trải, là sự trình hiện của một thứ
bậc sâu xa hơn - thứ bậc nội tại - khi đó, Bohm đã làm một bước nhảy vọt
về nhận thức. Đã đành hiện nay cũng có nhiều lý thuyết vật lý khác cũng
xem thực tại như một thực thể có nhiều chiều (thí dụ lý thuyết dây) mà
thực tại của chúng ta chỉ là dạng xuất hiện ba chiều của nó, nhưng
thuyết của Bohm đi xa hơn hẳn, cho rằng thứ bậc nội tại bao gồm vật
chất, lẫn ý thức, bao gồm cả toàn bộ sự sống của mọi sinh vật, kể cả
loài người. Do đó, thuyết của Bohm được mệnh danh là phép diễn giải
thuộc về bản thể luận (ontology), trong lúc các lý thuyết kia là những
phép diễn giải thuộc về nhận thức luận (epistemology). Nhớ lại hai
thuyết tương đối và lượng tử, ở đây ta thấy có một sự tương đồng thú vị
về sự phát sinh của ba lý thuyết. Nếu thuyết tương đối được phát sinh
bởi sự bất biến của vận tốc ánh sáng, thuyết lượng tử bởi tính phi liên
tục trong sự vận động của các hạt hạ nguyên tử, thì thuyết “vận động
toàn thể” được phát sinh bằng tính chất liên thông của các hạt đó. Cả ba
điểm xuất phát đều là những kết quả của thực nghiệm cả. Một điều tương
đồng nữa là thuyết của Bohm dẫn đến những giả định về bản thể luận vô
cùng xa lạ với nhà vật lý, cũng như những hệ quả của thuyết tương đối và
cơ học lượng tử cũng rất khó hiểu, kể cả đối với những ai làm việc với
hai lý thuyết này.
Mặc dù xuất phát từ kết quả thực nghiệm,
nhưng lý thuyết của Bohm chưa được cộng đồng vật lý thừa nhận vì những
giả định thuộc về bản thể luận của ông chưa được chứng minh là tất yếu.
Ngoài ra, những giả định đó vượt khỏi phạm vi “thông thường” của ngành
vật lý, vì nó bao gồm cả vật chất lẫn tâm thức, cả lĩnh vực vô sinh và
sự sống. Dù thế, thuyết của Bohm được nhiều nhà vật lý quan tâm vì nó
trả lời nhất quán được nghịch lý EPR về các hạt liên thông và nhất là nó
mở ra nhiều khả năng khác của vật lý hiện đại.
Từ một hướng
nhìn khác, thuyết “sự vận động toàn thể” của Bohm không thể không làm ta
liên tưởng đến triết học Phật giáo. Quan niệm “tất cả trong một, một
trong tất cả” chính là tư tưởng Hoa Nghiêm. Chủ trương “thực tại xuất
hiện như một cảnh tượng khi bị quan sát” đã được kinh Lăng Nghiêm nói
đến. “Sự sống, ý thức lẫn vật chất đều lưu xuất từ một thể” chính là
quan niệm Duy thức trong Phật giáo Đại thừa.
Tinh túy của triết
học Phật giáo chính là vấn đề bản thể luận của thế giới và con người. Vì
lý thuyết của Bohm cũng là một thế giới quan có tính bản thể luận nên
nơi đây ta thử tìm hiểu, liệu triết lý Phật giáo có thể soi sáng gì hơn
cho lý thuyết của Bohm hay không. Cũng chỉ trên mảnh đất bản thể học mà
hai ngành khoa học và Phật giáo mới có chỗ tiếp cận với nhau.
Sau
đây ta sẽ dẫn vài nét lớn của kinh Lăng Nghiêm [8] về bản thể của thế
giới hiện tượng. Sau đó ta sẽ vận dụng quan niệm Lăng Nghiêm [và nói
chung của Phật giáo Đại thừa] để lý giải vài vấn đề bản thể học được vật
lý hiện đại nêu lên.
1. Thế giới quan trong kinh Lăng Nghiêm
Kinh
Lăng Nghiêm nói về một thể uyên nguyên, được tạm mệnh danh là “Chân
tâm”. “Tính chất” của Chân tâm là phi hình tướng, phi tính chất, không
thể nghĩ bàn. Nhiều người cố nghĩ về Chân tâm và tạm hình dung Chân tâm
như một “biển tinh lực uyên nguyên” hay “vầng trăng tròn đầy” hay “không
gian vô tận”. Dù hình dung thế nào đi nữa, Chân tâm có hai “công năng”
như sau: lặng lẽ chiếu soi và có khả năng tự chiếu soi mình. “Chiếu soi”
có thể được hiểu như “nhận thức” trong ngôn ngữ hiện đại. Từ “chiếu
soi” làm ta cảm nhận là biển tinh lực đó gồm vô số cực quang hay quang
minh (radiation) rực rỡ.
Xuất phát từ một Chân tâm thuần túy
“lặng lẽ chiếu soi” đó, bỗng một “vọng tâm” nổi lên, đó là lúc Chân tâm
quay qua tự nhận thức chính mình và thấy có một thể bị nhận thức (tướng
phần) và một thể nhận thức (kiến phần). Theo ngôn ngữ hiện đại thì với
vọng tâm, xuất hiện một lúc hai thể tính: người quan sát và vật bị quan
sát. “Vọng tâm” được Kinh Lăng Nghiêm sánh với cơn buồn ngủ. Khi ngủ mê
thì hiện ra giấc mộng, trong đó có người có ta, có cảnh vật, có diễn
biến thông không gian và thời gian. Nếu tỉnh dậy thì tất cả cảnh vật
trong mơ cũng không còn. “Nếu vọng tâm sinh khởi thì các pháp đều sinh
khởi, vọng tâm diệt đi thì các pháp đều diệt” [9].
Đối với Phật
giáo, thế giới hiện tượng là một sự trình hiện, là một huyễn cảnh (maya)
như “hoa hiện trong hư không”. Thế giới đó trình hiện cho một quan sát
viên nhất định, mỗi quan sát viên có một thế giới. Thế nhưng như ta đã
nói ở trên, quan sát viên lẫn thế giới hiện tượng đều là phần tử của
Chân tâm (kiến phần và tướng phần) nên đều chính là Chân tâm cả. Cả hai
đều lưu xuất từ Chân tâm, bị “vọng hóa” mà thấy có chủ thể (người quan
sát) và khách thể (vật bị quan sát).
Thêm một bước vọng hóa, chủ
thể quan sát lại làm thêm hai “lầm lạc” nữa, đó là: a) cá thể đó sinh
khởi thương ghét, yêu thích hay từ chối đối với vật được quan sát vì
tưởng rằng những sự vật tồn tại độc lập ở “bên ngoài” (chấp pháp); và b)
người đó tưởng mình là một chủ thể có thực, có một cái Tôi tồn tại
riêng biệt ở “bên trong” (chấp ngã). Cũng như trong giấc mộng, người nằm
mơ thấy ta, người và cảnh vật đều thực có.
Xuất phát từ hai
thành kiến chấp pháp và chấp ngã, với mọi tâm trạng diễn biến liên tục
và nhất là với tâm lý yêu ghét, người quan sát sinh ra vô số quá trình
vọng hóa với nhiều mức độ tâm lý với nhiều tính chất khác nhau, chồng
chất bao phủ lên nhau. Đạo Phật chia các quá trình tâm lý đó thành bốn
giai đoạn, bốn mức độ khác nhau mà thuật ngữ gọi là thọ, tưởng, hành,
thức. Ngoài bốn quá trình tâm lý đó, đạo Phật còn xem “sắc” là toàn bộ
hiện tượng mà ta gọi là vật chất, kể cả thân vật chất của người quan
sát. Do đó sắc, thọ, tưởng, hành, thức được gọi chung là “ngũ uẩn”, là
toàn bộ tiến trình của vọng tâm được sinh ra và phát triển, khi Chân tâm
“dại dột” tự chiếu soi chính mình và sa vào chấp ngã, chấp pháp. Ngũ
uẩn bao phủ quanh cá thể với các dạng tâm lý và vật lý. Thế giới đang
bao trùm xung quanh chúng ta chỉ là một thế giới đang hiện lên cho mỗi
cá thể chúng ta, thế giới đó gồm vật chất (sắc), tức là các dạng vật
chất quanh ta cùng với thân thể, cộng với các hoạt động tâm lý (thọ
tưởng hành thức) đang được duy trì và phát triển liên tục.
Sự
hình thành thế giới đó có thể được tưởng tượng như một vận động xoáy
vòng vô hình và thần tốc, còn cá thể đứng ở giữa mà nhận thức. Những
vọng tâm “kiên cố” nhất bị “tạt” xa ra bên ngoài, biến thành thể vật
chất. Khi biến thành vật chất, các vọng tâm đó bị dàn trải để hiện thành
không gian và thời gian. Chính sự vận động của các vọng tâm kiên cố nói
trên làm người quan sát thấy có vật chất và vọng tưởng, thấy có không
gian và thời gian [10].
Mỗi thế giới đó tuy là có giá trị cho
mỗi cá thể nhưng chúng hòa vào nhau, tưởng chừng như thể nhiều cá thể,
toàn xã hội, toàn loài người... có chung một thế giới. Đó là vì “cộng
nghiệp” chung của nhiều cá thể làm cho những cá thể đó thấy chung một
thế giới, như thể chỉ có một thế giới duy nhất. Vì sự vật chỉ là sự
trình hiện nên không thể nói “có” hay “không có” một cách tuyệt đối
được. Khi nói “có” là “có” cho những cá thể nhất định, đối với một người
là “có” nhưng đối với người khác là không, cũng như người nằm mơ thấy
“có sự vật” nhưng sự vật đó không có cho người tỉnh. Do đó khái niệm
cộng nghiệp là hết sức quan trọng để giải thích thế giới hiện tượng
“chung” của chúng ta.
Điều nói trên còn dẫn đến một triết lý sâu
xa hơn nữa, đó là “pháp vô ngã”, “nhân vô ngã”. Pháp vô ngã cho rằng
không có sự vật nào tồn tại với tự tính riêng của nó cả, tất cả đều chỉ
là sự biến hiện làm ta thấy “có” khi đủ điều kiện (nhân duyên sinh) để
cho sự vật trình hiện trước mắt ta. Nhân vô ngã cho rằng con người mà ta
tưởng là có một cái Tôi đứng đằng sau chỉ là sự vận hành vô chủ của ngũ
uẩn. Các tình trạng của ngũ uẩn diễn ra, cái này tiếp nối cái kia,
nhưng không ai làm chủ chúng cả. Triết lý nhân vô ngã và pháp vô ngã cho
thấy mặc dù thế giới hiện tượng và thế giới tâm lý vận hành liên tục,
nhưng đó là sự vận động nội tại của nó, không ai làm chủ cho chúng cả.
Sự vận động đó chủ yếu xuất phát từ “hành” (Samskara), đó là động cơ tâm
lý tạo tác hành động và qua đó tạo tác thế giới. Toàn bộ những động cơ
tâm lý đó được gọi là “nghiệp” hay “nghiệp lực”. Nghiệp lực (của cá thể
và của toàn thể) là tác nhân làm thế giới vật chất được duy trì, nó làm
cho vũ trụ được sinh ra và phát triển [11].
Như đã nói, sắc thọ
tưởng hành thức đều lưu xuất từ Chân tâm. Chân tâm có đặc tính “chiếu
soi” và “tự chiếu soi” nên cả năm yếu tố của ngũ uẩn đều có khả năng
nhận thức và tự nhận thức. Yếu tố vật chất (sắc) cũng có khả năng nhận
thức và tự nhận thức. Đọc nhiều kinh Đại thừa, ta có thể cảm nhận Chân
tâm là một nguồn tinh lực vô tận và dạng xuất hiện của nó trong thế giới
vật chất là “quang minh”. Quang minh trong thế giới vật chất (sắc)
chính là ánh sáng, là các dạng sóng điện từ khác như nhiệt, quang
tuyến... Quang minh trong thế giới tâm lý (thọ tưởng hành thức) là những
loại sóng mà ngày nay ta chưa xác định được chính xác.
Ngũ uẩn
không phải là năm yếu tố riêng lẻ lẫn nhau mà vì chúng có chung nguồn
gốc Chân tâm nên chúng dung thông và chứa đựng lẫn nhau trong tinh thần
“một trong tất cả, tất cả trong một”. Một hệ quả của quan niệm này là
mọi hoạt động trong tâm lý (thọ tưởng hành thức) đều có dấu vết trong
vật lý (sắc) và ngược lại mọi điều chỉnh trong vật lý đều có tác dụng
trong tâm lý. Sắc chính là Không, Không chính là sắc (Tâm kinh). Do đó
“trên đầu một cọng cỏ chứa tam thiên thế giới” (tư tưởng Hoa nghiêm).
Như
vậy, đối với Phật giáo, với “ngũ uẩn”, khái niệm “vật chất” - tức là
thế giới hiện tượng lẫn thân vật chất của con người - chỉ nằm trong
trong từ “sắc”. Một cách phân loại khác cho thấy thế giới vật chất được
xem do “tứ đại” (đất nước gió lửa) hình thành, tương tự như quan niệm
của các triết gia cổ đại của Hy Lạp