(Hồ trường - Nguyễn Bá
Trác)
Con người sống
trong đời, nếu không phải là bậc chân nhân thế ngoại tìm niềm vui trong cảnh
giới tiêu dao tự tại của riêng mình, thì thường có nhu cầu đòi hỏi sự cảm thông
và chia sẻ. Người ta thường nói niềm vui có người chia sẻ sẽ được nhân đôi, còn
nỗi buồn nếu có người chia sẻ sẽ vơi đi một nửa.
|
Nhưng ở đời có thể tìm được chăng một người tri kỷ?
Tấm lòng tri âm giữa Bá Nha và Chung Tử Kỳ, tình bạn tri kỷ giữa Quản Trọng và
Bão Thúc Nha có lẽ chỉ còn là huyền thoại. Bạn tri kỷ chỉ do cơ duyên mà gặp,
không thể gượng gạo mà cầu.
Không riêng gì loài người mà cả loài vật cũng khát
khao tìm tri kỷ, từ thế giới có sự sống của bao loài sinh vật cho đến thế giới
tưởng chừng như vô hồn của sỏi đá, cỏ cây. Tình tri kỷ không chỉ sưởi ấm lòng
người mà còn phủ lên sỏi đá, cỏ cây những phần hồn linh động. Có khi tìm tri
âm, tri kỷ trong loài vật lại đem cho ta nhiều an ủi hơn so với loài người!
Những người có tài hoa và nhân cách, thuở bình sinh hoặc khi lâm vào những cảnh
ngộ khốn cùng, thường lấy loài vật làm tri kỷ. Loài vật, về mặt lý thuyết sinh
vật học, còn tiến hóa dưới loài người nhiều bậc, nhưng về mặt thủy chung như
nhất ắt hẳn vượt trên loài người rất xa.
Trương Trào trong U mộng ảnh từng viết một
câu tha thiết:
“Trong thiên hạ có được một người tri kỷ, thì có
thể không còn ân hận gì nữa. Đâu phải chỉ có con người mới thế, mà cả vật cũng
vậy. Như cúc lấy Uyên Minh làm tri kỷ, mai lấy Hòa Tĩnh làm tri kỷ, trúc lấy Tử
Do làm tri kỷ, sen lấy Liêm Khê làm tri kỷ, đào lấy những người trốn vua Tần
làm tri kỷ, hạnh lấy Đổng Phụng làm tri kỷ, đá lấy Mễ Điên làm tri kỷ, trái vải
lấy Thái Chân làm tri kỷ, trà lấy Lư Đồng, Lục Vũ làm tri kỷ, cỏ thơm lấy Linh
Quân làm tri kỷ, thuần lư lấy Quý Ưng làm tri kỷ, chuối lấy Hoài Tố làm tri kỷ,
dưa lấy Thiệu Bình làm tri kỷ, gà lấy Xử Tông làm tri kỷ, ngỗng lấy Hữu Quân
làm tri kỷ, trống lấy Nễ Hành làm tri kỷ, tỳ bà lấy Minh Phi làm tri kỷ… Một
khi đã gắn bó thì ngàn thu không đổi”.(1)
Tất cả những loài động vật lẫn thực vật trong câu
nói của Trương Trào quả đã không uổng phí một phen tồn tại giữa cõi trần gian.
Tôi xin ghi chú những điển tích lý thú và cảm động trong câu nói của Trương
Trào, để bạn đọc tham khảo và nghiền ngẫm.
Cúc lấy Uyên Minh làm tri kỷ. Uyên Minh tức Đào Tiềm, hiệu Uyên Minh, nhà thơ
lớn đời Đông Tấn, người đã trả áo từ quan về vui cảnh điền viên, có bài Quy
khứ lai từ rất nổi tiếng. Ông sống thanh cao, và rất yêu hoa cúc, làm nhiều
bài thơ về hoa cúc. Trong hai mươi bài thơ Ẩm tửu có câu “Thái cúc
Đông ly hạ, du nhiên kiến Nam
sơn” (dưới rào phía Đông hái cúc, xa xa nhìn thấy núi Nam). Trương Trào cho rằng cúc
khiến người ta quê mùa (cúc linh nhân dã). Nhưng đây là cái “quê mùa”
hồn nhiên, thuần phác rất đáng trân trọng của những người gần gũi với thiên
chân.
Mai lấy
Hòa Tĩnh làm tri kỷ. Lâm Hòa Tĩnh tức Lâm Bô, nhà thơ đời Bắc Tống, được
gọi là “Tây Hồ ẩn sĩ”. Ông một mình ở Tây Hồ, nuôi hạc trồng mai, và thường bảo
lấy mai làm vợ, lấy hạc làm con. Bài thơ Sơn viên tiểu mai với hai câu
được xem là thần cú đã gắn liền hình ảnh nhà thơ ẩn dật với cành mai:
Sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiển,
Ám hương phù động nguyệt hoàng hôn.
(Nước soi nghiêng bóng mai gầy
Dưới trăng, hương nhẹ thoảng bay trong chiều).
Trúc lấy Hữu Quân làm tri kỷ. Hữu Quân tức Vương Huy Chi, con trai nhà thư pháp
lỗi lạc Vương Hy Chi, tự Tử Do, người đời Đông Tấn. Theo Thế thuyết tân ngữ,
Vương Huy Chi có lần đến ở trọ nhà người, bảo trồng trúc. Có người hỏi: “Ở
tạm, sao phải phiền phức vậy?”. Vương chỉ cây trúc, bảo: “Hà khả nhất
nhật vô thử quân? (Làm sao có thể một ngày thiếu người này được?). Không
thể sống không có trúc, dù chỉ một ngày. Thử hỏi trong đời còn có mối tình tri
kỷ nào sâu đậm hơn chăng?
Sen lấy Liêm Khê làm tri kỷ. Liêm Khê tức Chu Đôn Di, nhà lý học lỗi lạc đời
Nam Tống, yêu hoa sen, có bài “Ái liên thuyết” nổi tiếng ở đời. Ông sống
thanh cao, suốt đời chỉ yêu hoa sen.
Đào lấy những người trốn vua Tần làm tri kỷ. Theo “Đào hoa viên ký” của Đào Tiềm, có
người nhặt cánh hoa đào trên suối, bèn lần theo con suối đi ngược về nguồn thì
gặp một làng trồng toàn đào sống thanh bình như cảnh thần tiên. Hỏi ra mới biết
tổ tiên họ là những người trốn chính sách tàn bạo của nhà Tần lánh đến đây
sống. Hoa đào đem lại thanh bình cho những kẻ trốn thời bạo loạn.
Hạnh lấy Đổng Phụng làm tri kỷ. Đổng Phụng là danh y thời Tam Quốc, tự Quân Dị. Mỗi
khi chữa bệnh cho người, ông không lấy thù lao mà chỉ yêu cầu trồng hạnh, được
hơn mười vạn gốc hạnh. Khi hạnh ra trái, ông đem đổi gạo để giúp người nghèo.
Chư Phật bảo: “Phụng sự chúng sinh là cúng dường Tam bảo”. Đổng Phụng là
người đã dùng cây hạnh để làm Phật sự.
Đá lấy Mễ
Phí làm tri kỷ. Mễ Phí là nhà thư
pháp lớn đời Nam Tống. Ông yêu đá đến độ si cuồng, có lần khăn áo chỉnh tề ra
lạy viên đá gọi là “ông nhạc” nên bị đời gọi là Mễ Điên.
Trái vải lấy
Lệ Chân làm tri kỷ. Lệ Chân tức
Dương quý phi, rất thích ăn trái vải (lệ chi) của đất Bắc Việt Nam.
Theo truyền thuyết, mỗi năm đến mùa vải, Đường Minh Hoàng phải cho ngựa trạm
mang trái vải từ miền Bắc Việt Nam (?) đến kinh đô Trường An cho Dương quý phi.
Trà lấy Lư
Đồng, Lục Vũ làm tri kỷ. Lư Đồng
là nhà thơ đời Đường, hiệu Ngọc Xuyên Tử, rất mê trà, có bài thơ Trà Ca
lưu truyền ở đời. Lục Vũ được đời xưng tụng là “Trà Thánh” (ông thánh về
trà), tác gia đời Đường có cuốn Trà kinh, được xem là cuốn kinh điển về
trà.
Cỏ thơm lấy Linh Quân làm tri kỷ. Linh Quân tức Khuất Nguyên, nhà thơ lớn đời Chiến
Quốc, có tập Sở Từ nổi tiếng. Trong thơ, ông nói đến cỏ thơm để ví với
lòng trung của người quân tử.
Thuần, lư
lấy Quý Ưng làm tri kỷ. Trương Hàn, tự Quý Ưng, đời Tấn làm quan ở Lạc
Dương, nghe gió thu nổi lên, bỗng nhớ món canh rau nhút cá rô (thuần lư) ở quê
nhà, bèn từ quan về quê; về sau từ “thuần lư” được dùng để chỉ lòng nhớ quê.
Chuối lấy
Hoài Tố làm tri kỷ. Hoài Tố là
tăng nhân đời Đường, đệ tử của Pháp sư Huyền Trang. Tục tính là Tiền, tự Tàng
Chân. Tương truyền, ông trồng hàng vạn gốc chuối, dùng lá chuối để viết thay
cho giấy.
Dưa lấy Thiệu Bình làm tri kỷ. Thiệu Bình làm đến tước Đông Lăng hầu đời Tần.
Nhà Tần mất, nhà lâm vào cảnh nghèo túng, phải trồng dưa ở phía Đông thành
Trường An để bán. Dưa lớn, trái thơm ngon, người đời gọi là Đông Lăng qua
(dưa của Đông Lăng hầu).
Gà lấy Xử Tông làm tri kỷ. Theo Văn nghệ loại tụ thì Tống Xử Tông là Thứ
sử đời Tấn, có lần mua được một con gà trống có tiếng gáy rất dài. Ông thương
yêu rất mực. Con gà học được tiếng người thường cùng Tông nói chuyện suốt ngày,
tỏ ra rất thông minh. Xử Tông nhờ đấy mà ăn nói giỏi giang thêm.
Sư Sảng, bạn nhà thơ Tô Đông Pha, có nuôi một con
gà trống màu trắng. Suốt mười hai năm, mỗi khi ông tụng kinh thì con gà lại đến
nằm một bên để nghe kinh. Tô Đông Pha có làm bài thơ “Tăng Sảng bạch kê”
(Con gà trắng của Tăng Sảng) tặng ông: “Đoạn vĩ hùng kê bản úy phanh, niên
lai thính pháp bạn tu hành (Chú gà trống cụt đuôi sợ bị mổ; nên quanh năm
nghe pháp, làm bạn với bậc tu hành). Như vậy, ta có thể nói thêm “Gà lấy
Tăng Sảng làm tri kỷ”.
Ngỗng lấy Hữu Quân làm tri kỷ. Hữu Quân tức Vương Hy Chi. Ông là nhà thư pháp lỗi
lạc của Trung Quốc, chữ của ông rất quý. Tính ông rất thích ngỗng, có lần viết
hai chương trong cuốn Đạo đức kinh để đem chữ đổi lấy một bầy ngỗng.
Trống lấy Nễ Hành làm tri kỷ. Nễ Hành là cuồng sĩ đời Hậu Hán, được tiến cử lên
vua Hán Hiến Đế. Tào Tháo, lúc đó là Thừa tướng, sai người triệu Nễ Hành tới.
Hành rất hận Tào Tháo lấn át quyền vua nên lúc đối đáp, Nễ Hành chê bai tất cả
các văn quan võ tướng của Tào Tháo. Tháo muốn làm nhục, cho Hành làm chức Cổ
lại để sớm tối đánh trống hầu những buổi thiết triều. Hành không từ chối. Hôm
sau, Tào Tháo mở yến tiệc để thết tân khách, rồi sai Nễ Hành ra đánh trống. Tên
đánh trống cũ bảo Hành phải mặc áo mới. Hành không thèm nghe, cứ mặc áo cũ mà
vào, xắn tay đánh ba hồi trống, âm tiết tuyệt diệu, nghe văng vẳng như có tiếng
đá, tiếng vàng ngân theo ai oán. Cử tọa ngồi nghe đều bùi ngùi sa lệ.
Tỳ bà lấy Minh Phi làm tri kỷ. Minh Phi tức Chiêu Quân, cung phi đời Hán Nguyên Đế
(49-33 TCN), một trong tứ đại mỹ nhân Trung Quốc. Bị triều đình nhà Hán đem
cống cho vua Hung Nô để cầu hòa, Chiêu Quân mang theo cây tỳ bà về phương Bắc
để dùng tiếng đàn thổ lộ hết nỗi niềm sầu hận. Sự tích”Chiêu Quân cống hồ”
với hình ảnh người con gái dung nhan tuyệt đại mặc áo choàng đỏ, ôm cây tỳ bà
cưỡi con ngựa trắng giữa vùng thảo dã mênh mông đã là đề tài cho thi nhân Trung
Quốc rất nhiều thế hệ.
Loài vật gắn bó với con người như thế ấy, cho nên
mỗi khi đọc bốn câu đầu của bài thơ “Chước tửu dữ Bùi Địch” (Cùng uống
rượu với Bùi Địch) của Vương Duy, tôi không khỏi giật mình, pha lẫn đôi chút
ngậm ngùi:
Chước tửu dữ quân, quân tự khoan
Nhân tình phiên phúc tự ba lan
Bạch thủ tương tri do án kiếm
Chu môn tảo đạt tiếu đàn quan.
(Rót rượu mời ngài, ngài cứ uống thong dong.
Tình người tráo trở như sóng nước. Bạn tương tri giao du với nhau từ thuở đầu
xanh cho đến khi tóc trắng, thế mà lúc gặp nhau vẫn còn để tay lên đốc kiếm đề
phòng! Bạch thủ tương tri do án kiếm. Bạn thuở hàn vi đã sớm thành đạt
thì cũng đừng nên tới thăm để khỏi bị cười vào mũi!).
“Đàn quan” tả cái cử chỉ phủi mũ vội vàng để
chuẩn bị lên đường. Theo Vương Cát truyện trong Hán Thư, thì đời Tây Hán
có Vương Cát là bạn chí thân với Cống Vũ. Vương Cát làm quan lớn, Cống Vũ cũng
vội vàng chuẩn bị khăn gói đến tìm bạn để xin một chức quan. Người đời gọi là “Vương
Cát tại vị, Cống Vũ đàn quan”. Nhiều tài liệu cho rằng câu đó biểu hiện sự
khắn khít của tình bạn, nhưng không nhận ra ý mỉa mai ngầm. Cho nên trong câu
thơ của Vương Duy mới thêm một chữ “tiếu” là cười. Đừng mơ mộng hão
huyền khi muốn nhờ vả những người bạn chí cốt thuở hàn vi, khi họ đã bước chân
vào thế giới của tiền tài và thế lực. Chữ “tri kỷ” tự cổ chí kim đã trở
thành một món hàng xa xỉ trước bệ cổng nhà quan.
Hán Quang Vũ nhà Hán khi còn nhỏ tuổi, có một người
bạn thân tên gọi Nghiêm Tử Lăng. Sau khi Hán Quang Vũ lên làm Hoàng đế, Nghiêm
Tử Lăng bèn lánh ra sông Phú Xuân làm người câu cá. Hán Quang Vũ đích
thân đến nhà mời ra làm quan, nhưng ông từ chối, không chịu “đàn quan”.
Những kẻ đời nay sẽ cho đó là thái độ gàn, thậm chí ngu ngốc của một kẻ “không
thức thời”, nhưng chính đó là một nhân cách lớn quá đổi hiếm hoi, nên người xưa
cho rằng dù không tham gia triều chính song ông đã cứu vãn được rất nhiều những
suy vi đổ nát cho đạo lý đương thời.
Mối tình tri kỷ “Một khi đã gắn bó thì ngàn thu
không đổi” chẳng lẽ chỉ có giữa người và loài vật thôi ư, để khi gặp nhau
không còn "án kiếm”? Vậy thì hạnh phúc vô cùng cho những ai có được
một người tri kỷ để cùng nhau "cạn một hồ trường” giữa cõi "thiên
hạ mang mang”!
Chú thích
(*) Bạn tương tri giao
du với nhau từ thuở đầu xanh cho đến khi tóc trắng, thế mà lúc gặp nhau vẫn còn
để tay lên đốc kiếm đề phòng!
(1)“Thiên hạ hữu nhất nhân tri kỷ, khả dĩ bất
hận. Bất độc nhân dã, vật diệc hữu chi. Như cúc dĩ Uyên Minh vi tri kỷ; mai dĩ
Hòa Tĩnh vi tri kỷ; trúc dĩ Tử Do vi tri kỷ; liên dĩ Liêm Khê vi tri kỷ; đào dĩ
tỵ Tần nhân vi tri kỷ; hạnh dĩ Đổng Phụng vi tri kỷ; thạch dĩ Mễ Điên vi tri
kỷ; lệ chi dĩ Thái Chân vi tri kỷ; trà dĩ Lô Đồng, Lục Vũ vi tri kỷ; hương thảo
dĩ Linh Quân vi tri kỷ; thuần lư dĩ Quý Ưng vi tri kỷ; tiêu dĩ Hoài Tố vi tri
kỷ; qua dĩ Thiệu Bình vi tri kỷ; kê dĩ Xử Tông vi tri kỷ; nga dĩ Hữu Quân vi
tri kỷ; cổ dĩ Nễ Hoành vi tri kỷ; tỳ bà dĩ Minh Phi vi tri kỷ … … nhất dữ chi
đính, thiên thu bất di”. (Trương Trào, U mộng ảnh (Bóng trăng gió
núi), Huỳnh Ngọc Chiến dịch, NXB. Văn hóa Thông tin, 2007, tr.6