Lời giới thiệu của người dịch:
Trong một quyển sách nhỏ mang tựa đề "Phật Giáo nhập môn" (ABC du Bouddhisme, nhà xuất bản
Grancher, 2008), tác giả Fabrice Midal đã dành một chương để trình bày về đề
tài Giáo Huấn của Đức Phật. Dưới đây là phần chuyển ngữ toàn bộ của chương này
(chương V, tr. 77-97). Xin lưu ý những chữ nghiêng đặt trong hai dấu ngoặc là các ghi chú
của người dịch nhằm giúp người đọc dễ theo dõi hơn phần nào một số ý tưởng trình
bày trong nguyên bản.
Các kinh sách Phật Giáo nào quan trọng nhất?
Vào mùa mưa đầu
tiên sau ngày Đức Phật tịch diệt thì một đại hội được triệu tập gồm năm trăm đệ
tử của Ngài.
A-nan-đà,
người em họ và cũng là đệ tử của Đức Phật đã đứng lên để thuật lại toàn bộ giáo
huấn của vị Thầy gọi là Sutra (Kinh hay Khế kinh).
Khởi đầu từ đấy một dòng truyền thừa được hình thành dựa vào cách học thuộc
lòng. Đức Phật không hề tự tay viết ra một câu nào cả, vì thế nên tất cả các bài
kinh đều bắt đầu bằng câu sau đây: "Tôi từng được nghe như vầy", và tiếp
theo đó thì kể lại trong trường hợp nào Đức Phật đã giảng bài kinh ấy. Nhằm mục
đích giúp cho việc học thuộc lòng được dễ dàng nên một số câu mang tính cách
công thức (stéréotypé
- lập đi lập lại và mang một vài "sáo ngữ") và hoa mỹ đã
được ghép thêm vào.
Sau
phần trình bày của A-nan-đà thì đến lượt Ưu-ba-li (Upali, một đệ tử uyên bác khác của Đức Phật)
nêu lên tất cả các quy luật về cách hành xử trong cuộc sống tập thể nơi tu viện,
được gọi chung là Vinaya (Luật Tạng)
- chữ vinaya có nghĩa là "những gì giúp vượt thoát khỏi khổ
đau". Các quy luật này không phải là một tổng hợp đúc kết từ một hệ thống
suy nghĩ lôgic (hợp
lý) nào cả, mà đúng hơn thì đấy chỉ là các quy luật mà Đức Phật đã
tuần tự đưa ra suốt nhiều năm liền trong thời gian Ngài lãnh đạo Tăng Đoàn. Tóm
lại là những quy luật ấy đã được đặt ra dựa vào các kinh nghiệm trực tiếp của
chính Đức Phật.
Sau
đó thì một bộ kinh gọi là A-tì-đạt-ma Luận (Abhidharma - còn gọi là Luận Tạng)
được soạn thảo với mục đích tổng hợp toàn bộ giáo huấn của Đức Phật, và việc soạn
thảo này đã kéo dài suốt trong một thời gian dài qua nhiều thế kỷ. Tạng kinh
này phân tích tâm thức con người một cách vô cùng chính xác và sâu sắc, bằng
cách miêu tả các thể dạng tâm thần và các sự lầm lẫn đã khiến cho tâm thức bị
biến thể và phân hóa như thế nào.
Ba bộ
kinh sách trên đây - Sutra, Vinaya và
Abhidharma - biểu trưng cho toàn bộ giáo huấn căn bản của Đức Phật.
Vậy sutra (kinh)
là gì?
Nguyên
nghĩa của chữ sutra là "sợi chỉ"
và nếu hiểu rộng ra thì có nghĩa là "may" - từ chữ này đã phát sinh
ra chữ sew (may) trong tiếng Anh. Các lời giảng
của Đức Phật đan kết vào nhau để tạo ra các văn bản - và đấy là các sutra.
Cách nay đã
hai mươi thế kỷ tức là vào thế kỷ thứ I sau kỷ nguyên, khi Sri Lanka (Tích Lan)
lâm vào một thời kỳ nhiễu nhương, thì các nhà sư của xứ này quyết định sử dụng tiếng
Pa-li, một loại chữ viết địa phương thuộc cổ ngữ Ấn Độ và khá gần với Phạn ngữ,
để chép lại toàn bộ các lời giảng của Đức Phật. Các bản chép tay này đã trở thành một trong số các kinh điển chính
thống xưa nhất của Phật Giáo. Việc ghi chép trên đây được thực hiện vào khoảng
năm 80.
Về sau thì bộ
kinh này cũng đã được dịch sang tiếng Trung Quốc và Tây Tạng và vẫn còn lưu giữ được đến
nay.
Các kinh này
dù chỉ được soạn thảo nhiều thế kỷ sau khi Đức Phật đã tịch diệt, thế nhưng được
xem chính thực là ghi chép lại những lời giảng của Đức Phật. Đối với người Phật
Giáo thì sự thật tâm linh mang một tầm quan trọng lớn lao và thiết yếu hơn nhiều
so với sự thật lịch sử. Một bản kinh chỉ cần phản ảnh được tinh thần giáo lý của
Đức Phật là cũng đủ để được xem bản kinh ấy là của Ngài.
Các kinh điển nào của Phật Giáo được xem như tương
đương với Thánh Kinh?
Đức Phật
cũng như Chúa Giê-su không hề viết gì cả. Giáo huấn của các vị ấy đều mang tính
cách truyền khẩu. Thế nhưng những gì đến với Phật Giáo thì lại hoàn toàn khác hẳn
với Ki-tô Giáo ở điểm là kinh điển trong Phật Giáo không hoàn toàn thống nhất.
Mỗi học phái tự chọn lựa và gom góp các lời giảng truyền khẩu của Đức Phật theo
cách của mình, do đó đôi khi cũng cho thấy ít nhiều khác biệt. Tóm lại là không
có một kinh điển chính thống nào đại diện cho Phật giáo được toàn thể tất cả
các học phái nhất trí chấp nhận một cách tuyệt đối cả.
Ngoài ra lại
còn một điểm khác nữa cũng thật đáng ngạc nhiên là tại nhiều quốc gia Phật Giáo
thì việc tu học của các học phái không nhất thiết ưu tiên dựa vào các lời thuyết
giảng trực tiếp của Đức Phật, mà chỉ dựa vào các tập sách riêng của các tông
phái lớn mà các học phái này trực thuộc. Chẳng hạn như các người tu tập thiền
Zen thì nghiên cứu các trước tác của Đạo Nguyên (Dogen) tức là vị thầy đã đưa thiền
học Zen vào Nhật Bản (câu này không được chính xác lắm, vì thiền học Tchan của Trung Quốc đã được đưa vào Nhật
từ thế kỷ thứ VIII, còn Đạo Nguyên thì sinh vào năm 1200 và là người đưa học phái
Tào Động từ Trung Quốc
vào Nhật vào năm 1227, và do đó có thể xem ông là người đầu tiên thiết lập
và triển khai học phái này tại Nhật Bản.
Thiền học Nhật bản cũng như toàn thể Thiền học nói chung có nhiều học
phái, trong số này có hai học phái lớn nhất là Lâm Tế và Tào Động. Học phái Lâm Tế chú trọng nhiều vào việc học
hỏi các công án, và học phái Tào Động thì lại quan tâm hơn đến việc ngồi thiền.
Các trước tác trong bộ Chính Pháp Nhãn Tạng - Shobogenzo - của Đạo
Nguyên được xem là các tác phẩm thâm thúy
nhất của thiền học Nhật Bản nói chung và ông thì cũng được xem là nhà tư tưởng
lớn nhất trong lịch sử văn hóa Nhật Bản. Các học phái và chi phái khác của thiền
học Nhật Bản thường nghiên cứu các trước tác của ông để tu tập. Ngoài ra thì chữ
Zen cũng mang ý nghĩa rất tổng quát và là chữ viết tắt của chữ Zenna, và chữ
Zenna là một chữ dịch âm từ chữ Hán Chan-na - tiếng Việt dịch âm chữ này là Thiền-na.
Chữ Chan-na của Trung Quốc
cũng lại là một chữ dịch âm từ chữ Phạn Dhyana, và chữ Phạn Dhyana trong trường
hợp này thì có nghĩa là phép thiền định kết hợp giữa dhyana - có nghĩa là sự tập
trung -, và prajna - có nghĩa là trí tuệ), và các đệ tử của Tan-tra thừa Tây Tạng thì nghiên cứu các
bài hát của Mật-lặc Nhật-ba, một vị "anh hùng" (tức là một người Bồ-tát) và cũng
là một vị thánh nhân của Phật Giáo Tây Tạng. Tóm lại là các tác phẩm của các vị
trên đây đều được xem như tương đương với các kinh điển sutra chính thống (xin chú ý trên đây chỉ là hai trong số hàng trăm thí dụ khác,
và cũng chỉ mang tính cách tiêu biểu nhằm nêu lên một chút ý niệm tổng quát về số
kinh sách vô cùng đa dạng và phong phú của Phật Giáo).
Không có một
tập kinh sách nào của Phật Giáo giữ vị thế và vai trò của một quyển Thánh Kinh,
chẳng hạn như đối với trường hợp của Do Thái Giáo. Do đó kinh sách Phật Giáo hiển
nhiên không phải là các văn bản "cuối cùng", không thể nào còn có thể
diễn giải khác hơn được. Kinh điển Phật Giáo cũng không phải là cội nguồn làm
phát sinh ra tất cả luật pháp mà người tu hành phải học tập trong suốt cuộc đời
mình. Hơn nữa tín ngưỡng Đông Phương đó (tức là Phật Giáo) cũng không hề cần đến một thứ
ngôn ngữ mang tính cách thiêng liêng nào cả, chẳng hạn như trường hợp tiếng Hebrew
(đối với Do Thái
Giáo). Dù kinh sách được ghi chép bằng tiếng Phạn, tiếng Pa-li hay tiếng
Trung Quốc thì tất
cả đều chính thống và tự chúng đều mang tính cách thiêng liêng.
Đức Phật luôn khuyên các đệ tử
của Ngài nên thuyết giảng lại những gì mình đã được nghe bằng chính thổ ngữ (tiếng mẹ đẻ) của
họ. Đấy
cũng là cách mà Ngài cố tình chủ trương làm ngược lại với những gì mà người
Bà-la-môn đã làm, vì họ tuyệt đối chỉ giảng dạy bằng Phạn ngữ - tức là một thứ
tiếng mà chỉ có ba giai cấp cao nhất trong xã hội là có thể hiểu được nhờ có học
hành, còn lại thì các người khác hoàn toàn mù tịt. Đối với Phật Giáo thì các
người đảm trách việc dịch thuật luôn giữ một vai trò rất quan trọng và những ai
có năng khiếu khiến cho những lời giảng của Đức Phật có thể hát lên được bằng
ngôn ngữ mẹ đẻ của họ đều rất được kính nể.
Phật Giáo chẳng
những không hề đưa ra một khái niệm giáo lý nào mang tính cách tuyệt đối không
sai lầm mà hơn thế nữa là còn chủ trương sự tự do bình giải. Quả thật đấy là những
gì độc nhất vô nhị trong lịch sử tín ngưỡng nói chung.
Tại sao người ta lại ít đọc kinh sách sutra - dù đấy là các lời giảng được xem
của chính Đức Phật?
Ở Tây
Phương con số kinh sách sutra đã được
dịch đến nay vẫn còn quá ít, do đó việc nghiên cứu đã phải gặp nhiều khó khăn. Việc
dịch thuật thì gần như chỉ sử dụng một thể văn nhằm giúp người đọc dễ hiểu, tuy
đôi khi cũng thấy được một vài nét bóng bẩy. Do đó các đặc tính thật đặc thù trong
thuật ngữ Phật Giáo đã bị mất đi hoặc không được làm cho nổi bật lên, đấy chẳng
qua cũng là vì các cấu trúc lý luận của ngôn ngữ Tây Phương được hình thành từ thời
Platon và Aristote (Aristoteles) (các triết gia thuộc thời cổ đại Hy Lạp) với cách
diễn đạt quá khác biệt so với các ngôn ngữ đã được sử dụng trong Phật Giáo. Có
nhiều tác phẩm dịch thuật sử dụng các thuật ngữ (Tây Phương) thiếu chính xác nên rất
dễ gây ra hiểu lầm, lý do là vì ý nghĩa của các thuật ngữ này chịu ảnh hưởng của
các truyền thống triết học lâu đời và gò bó (triết học Hy Lạp) đã thấm sâu vào ngôn ngữ của
chúng ta (tức
các ngôn ngữ Tây Phương) mà chúng ta không hề hay biết.
Xin nêu lên
một thí dụ trong số hàng trăm thí dụ khác, chữ "essence" (bản chất, bản thể,
sự tinh túy / nature, spirit) được sử dụng trong nhiều bản dịch (từ tiếng Phạn hay
Pa-li sang các ngôn ngữ Tây Phương) là một chữ phát xuất từ tư tưởng
triết học Platon (triết
gia Hy Lạp), và ý nghĩa của chữ này đã tạo ra cho toàn bộ thế giới
Tây Phương một sắc thái cá biệt. Ý nghĩa của chữ này nêu lên một khái niệm thật
then chốt cho toàn thể nền triết học siêu hình của cả thế giới Tây Phương, đấy
là ý niệm về một nền tảng vững chắc nhằm nêu lên sự trường tồn và bất biến của
một thứ gì đó. Thí dụ như khi nêu lên bản
chất (essence) của một con chó thì đấy là một
thứ gì đó giúp cho chúng ta nhận biết được là một con chó dù là nó thuộc vào giống chó labrador hay là giống chó bichon
(hai giống chó rất
khác biệt nhau). Trong khi đó thì triết học Phật Giáo lại cách xa
hàng nghìn dặm với cách hình dung ấy về thế giới, bởi vì Phật giáo đặt lên hàng
đầu khái niệm về sự phù du (vô thường, biến động) và tính cách không nắm bắt
được của hiện thực (các đặc tính chung giúp nhận biết "đấy là một con chó"
đối với Phật Giáo không phản ảnh một bản chất hay một bản thể trường tồn và cố
định nào cả mà đấy chỉ là một số quy ước giúp hiểu ngầm với nhau "đấy là một
con chó". Ngay cả danh xưng "con chó" cũng là một quy ước vì cũng
có thể gọi nó bằng những danh xưng khác, thí dụ như con cầy, con cẩu, a dog, un
chien..., các danh xưng ấy không hàm chứa một "bản chất" nào cả.
Trong khi đó theo Phật Giáo thì tất cả mọi hiện tượng đều tương tác với nhau và
biến động không ngừng. Tóm lại vì chịu ảnh hưởng của giáo dục, tín ngưỡng, văn
hoá, ngôn ngữ nên phần lớn người Tây Phương thường mang trong đầu một ý niệm
nào đó về sự trường tồn và theo Fabrice Midal thì cái ý niệm đó cũng phản ảnh
kín đáo qua một vài thuật ngữ trong các bản dịch kinh sách Phật Giáo sang ngôn
ngữ Tây Phương).
Tóm lại
chúng ta chỉ biết hy vọng rồi đây sẽ đón nhận được những công trình dịch thuật
hoàn hảo hơn trong tương lai.
(Việc viết lách đôi khi chỉ cần sử dụng
tiếng mẹ đẻ để diễn đạt sự suy nghĩ của mình, trong khi đó thì việc dịch thuật
phức tạp hơn nhiều vì đòi hỏi phải chủ động được cách diễn đạt của ít nhất hai
ngôn ngữ khác nhau và nhất là phải nắm bắt được các ý nghĩ và chủ đích của tác
giả. Ngoài ra còn phải tìm hiểu bối cảnh của một truyền thống văn hóa và lịch sử
khác lồng phía sau những dòng chữ mà mình đang dịch, đấy là chưa nói đến là phải
thấu triệt chủ đề trình bày trong bản gốc. Một thí dụ cụ thể là kinh sách tiếng
Việt thường được dịch từ tiếng Hán và do đó đã chịu ảnh hưởng nặng nề về văn
hóa, lịch sử cũng như tư tưởng (Lão Giáo, Khổng Giáo...) của Trung Quốc.
Phạn ngữ và Hán ngữ là hai hệ thống
ngôn ngữ với các cấu trúc lý luận hoàn toàn khác biệt nhau. Người Trung Quốc đã phải mất nhiều thế
kỷ để dịch kinh sách gốc tiếng Phạn. Ngoài các ảnh hưởng về văn hóa và tư tưởng
Lão Giáo cũng như Khổng Giáo có thể nhận thấy dễ dàng trong một số kinh sách dịch
thuật tiếng Hán thì các học giả Tây Phương còn khám phá ra nhiều thứ thêm thắt không
có trong các bản gốc tiếng Phạn. Ngoài ra cũng có một số công trình "tự nhận"
là dịch thuật từ tiếng Phạn, thế nhưng thật ra thì đấy chỉ là những sản phẩm mạo
nhận.
Tóm lại việc dịch thuật cẩu thả, thiếu
trung thực có thể làm lệch lạc đi giáo lý của Đức Phật. Các học giả và các chuyên
gia dịch thuật Tây Phương về Phật Giáo thường thông hiểu rất tường tận các tiếng
Phạn, Pa-li, Trung Quốc,
Nhật Bản..., và việc dịch thuật của họ từ lâu nay cũng đã rất "khoa học"
và cẩn thận, thế nhưng Fabrice Midal lại vẫn hy vọng trong tương lai sẽ được đón
nhận các công trình dịch thuật khá hơn ! ).
Hầu hết các
người Phật Giáo mà tôi quen biết thì chỉ quan tâm đến việc nghiên cứu các kinh
sách do các vị thầy thuộc học phái hay tông phái của họ (thí dụ như các người tu tập theo thiền học
Zen Nhật Bản thì quan tâm nhiều hơn đến các công trình trước tác của Đạo Nguyên
như đã được nêu lên trong thí dụ trên đây). Do đó sự hiểu biết của họ
đối với những lời thuyết giảng của Đức Phật còn được lồng thêm một cách diễn đạt
mới vừa sinh động lại vừa gần gũi hơn với họ, và có thể nói là điều đó còn có
thể tác động thật sâu xa đến cả tâm hồn họ nữa (một người Nhật tu thiền hiểu được những lời
giảng của Phật thế nhưng lại còn được thừa hưởng thêm về văn hoá, ngôn ngữ, tập
quán... của quê hương họ là nước Nhật, và cả cách suy nghĩ cũng như một sức sống
mới xuyên qua con người của một vị thầy là Đạo Nguyên. Tất cả những hình thức
"màu mè" và "trang trí" đó đã được lồng thêm vào giáo huấn
của Đức Phật và nhờ đó đã mang lại một nguồn sinh lực mới đi thẳng vào tâm hồn
của người tu tập). Đối với nhiều người Phật Giáo thì mối dây tương kết
với vị thầy của mình giữ một vai trò quan trọng hơn nhiều so với kinh sách - người
thầy là một biểu trưng cụ thể và sinh động cho những lời giảng huấn do chính họ
đưa ra.
Bài thuyết giảng đầu tiên của Đức Phật là gì, tại
sao đấy lại là những điều chủ yếu nhất?
Sau khi Đức
Phật đạt được giác ngộ thì ngay lúc ấy Ngài chưa có ý định gì cả. Ngài đã phân
vân suốt trong bảy ngày liền. Ta phải làm gì đây? Có nên thuyết giảng và truyền
lại những gì mà Ta đã khám phá được hay không?
"Một sự
an bình thật sâu xa và mênh mông, đấy là khám phá của Ta, là Giáo Huấn của Ta.
Thế nhưng nào biết ai hiểu được, vì thế nên Ta chỉ biết giữ yên lặng và lưu lại
trong khu rừng này".
Thế nhưng
cái giây phút quyết định đã xảy đến. Một giây phút vô cùng trọng đại.
Tuy quyết định
không nói ra bằng lời thế nhưng đã bùng lên trong con người của Ngài một lòng từ
bi tuyệt diệu và một sức mạnh vô song nhằm mang lại những hoàn cảnh lợi lạc hơn
cho con người. Tuy đã không nghĩ đến việc cứu giúp chúng sinh và chỉ muốn lưu lại
trong khu rừng, thế nhưng trong lòng Ngài lại đã vang lên tiếng réo gọi của cảm
tính từ bi hoàn toàn vô ngã.
Ngài không còn
đắn đo như trước đây như là một vị thầy có một cái gì đó có thể mang ra giảng dạy,
mà Ngài chỉ biết một cách thật giản dị
và tự nhiên trong cái bối cảnh đang hiển hiện ra như thế rằng mình sẵn sàng phục
vụ (không biết là mình có một cái gì đó để hiến dâng, cũng
không cần biết đến đối tượng của hành động hiến dâng tức là chúng sinh, mà chỉ
biết rằng mình hiến dâng cho những gì đang hiển hiện ra trước mặt mình).
Ngài gặp lại
các vị đồng tu với Ngài trước đây. Các vị này đã bỏ rơi Ngài khi thấy Ngài từ bỏ
lối tu khổ hạnh để chọn con đường tu tập bằng sự chú tâm, ít nghiệt ngã hơn.
Khi trông thấy Ngài bắt đầu ăn uống trở lại và không còn ra sức đè nén những sự
thèm khát của mình như trước đây nữa thì họ đã đánh giá Ngài như một con người hèn
yếu, một con người bỏ đạo.
Thế nhưng vào
cái hôm mà họ trông thấy Ngài tiến về phía họ, bừng sáng và rạng ngời, thì họ
hiểu ngay rằng phải có một cái gì đó đã xảy ra, và họ đã tiếp đón Ngài thật nồng
hậu.
Bài giảng mà
Đức Phật đã ban cho họ trong dịp này đối với Phật Giáo cũng thật chủ yếu tương
tự như Bài Thuyết Giáo trên Núi đối với
Ki-tô Giáo. Đấy là một trong số các bài giảng huấn thật hiếm hoi bởi vì dù đã hằng
bao nhiêu thế kỷ trôi qua thế nhưng cái bài giảng ấy vẫn cứ giống như một bài
giảng mà Ngài vừa mới truyền cho chúng ta hôm nay.
Dầu sao thì
Đức Phật cũng hoàn toàn khác hẳn với những vị sáng lập ra các tôn giáo khác, nhất
là đối với Chúa Giê-su, bởi vì Đức Phật nói thẳng ra sự thật, một sự thật không
một chút màu mè và cũng chẳng kèm thêm một lời hứa hẹn nào cả. Ngài chỉ nhìn
vào mọi thứ đúng như thế. Vậy cái sự thật ấy là gì?
Chúng ta
đang đau khổ đây này. Tất cả mọi con người đều đau khổ. Chúng ta phải biết nhìn
vào niềm khổ đau ấy trong lòng của tất cả mọi con người. Niềm khổ đau ấy có thể
chỉ là một sự bất toại nguyện, một chút lo âu câm nín trong lòng, một vết
thương nào đó hay cũng có thể là cả một khối đau buồn mênh mông.
Tìm kiếm lạc
thú nhằm để mong che đậy sự thật đó thì quả là một cách xử thế thật hời hợt và
ngu ngốc. Thế nhưng ngược lại nếu cố tình hành xác và chịu cảnh thiếu thốn thì cũng
chẳng phải là cách có thể mang lại một giải pháp.
Chúng ta
không thể tránh khỏi được sự thật đó. Chúng ta đang khổ đau.
Chúng ta
nghĩ là có thể ngoảnh mặt làm ngơ trước sự thật đó hầu tìm cách khác nhằm biến cải
cuộc sống của mình và để đạt được những gì mà mình mong muốn. Quả thật là hoài
công. Đức Phật bảo rằng: "Không có gì lại có thể sai lầm hơn thế được!".
Quả thật là chúng ta sẽ chẳng bao giờ thành công bằng cách ấy.
Trước sự thật
đó chúng ta phải đối đầu một cách ngay thật hơn: tức là phải thừa nhận rằng có
một cái gì đó không được suôn sẻ trong cuộc sống của chính mình. Ngay cả những
người được đầy đủ, từ tiền bạc cho đến sức khoẻ, từ hạnh phúc gia đình cho đến cả
sự hiểu biết - thế nhưng họ vẫn luôn cảm thấy một sự bất an nào đó ray rứt trong
lòng mình bởi vì hình như vẫn có một thứ gì đó khiến cho mình không được toại
nguyện hoặc vẫn còn có một thứ gì đó mà mình chưa thực hiện được.
Thói thường
thì chúng ta luôn mong muốn tìm cách đạt được ngày càng nhiều kinh nghiệm hơn nhằm
giúp mình tránh né mọi nỗi sợ hãi và bất toại nguyện, cũng như các mối lo lắng
trong lòng. Thế nhưng sự cố gắng đó chỉ vô ích mà thôi. Nếu không chấp nhận cái
sự thật của khổ đau thì quả khó cho chúng ta có thể cải biến được cuộc sống của
chính mình.
Bài giáo huấn
đầu tiên của Đức Phật gọi là "Bốn Sự Thật Cao Quý" (Tứ Diệu Đế).
Sự thật thứ
nhất cho thấy tất cả đều là khổ đau. Sự thật thứ hai nói đến nguồn gốc của khổ
đau. Sự thật thứ ba cho biết là có thể tự giải thoát khỏi khổ đau và sự thật thứ
tư đưa ra con đường mang lại sự giải thoát.
Tại sao Bốn Sự Thật Cao Quý lại được trình bày
theo thứ tự đó?
Bởi vì Đức
Phật đã suy luận theo phương pháp của một vị lương y hơn là của một vị hiền
nhân hay một đấng tiên tri (mang một sứ mạng thiêng liêng - a prophet). Ngài
chẩn bệnh (1). Căn cứ vào kết quả của việc chẩn bệnh Ngài suy ra nguyên nhân của
căn bệnh (2). Biết được nguyên nhân gây ra căn bệnh Ngài hiểu được phải làm thế
nào để chữa khỏi (3). Nhờ vào đó Ngài đã tìm ra phương thuốc để điều trị (4).
Cũng thế,
trước hết chúng ta phải nhận ra được là sự khổ đau đang hành hạ mình. Sự khổ đau đó có thể chỉ mang một hình thức thô
thiển (bệnh tật, tai nạn...) hay có thể tinh tế hơn thế. Người ta thường nói đối
với một người thường tình thì sự cảm nhận khổ đau đôi khi chỉ như một hạt bụi vướng
trong tay, thế nhưng đối với một người tu tập, thì hạt bụi đó lại nằm trong mắt
họ (một con người
thường tình sống nhởn nhơ và không ý thức được khổ đau dưới đủ mọi hình thức
đang ngấm ngầm hành hạ mình, đang chờ đợi mình. Vì vô minh che khuất nên họ
không trông thấy được những khổ đau đó, nếu có thoáng thấy được một chút nào đi
nữa thì đấy cũng chỉ là một hạt bụi vướng trên tay. Họ cũng không đủ sức để hiểu
được rằng cái thể dạng vô minh đang giúp họ sống nhỡn nhơ cũng đã là một niềm khổ
đau mênh mông. Thế nhưng đối với một người
tu tập thì tất cả những thứ khổ đau đó không phải là một hạt bụi làm bẩn tay mình
mà làm xốn đau trong mắt họ. Khi nào chúng ta cảm thấy cái hạt bụi ấy làm cho
chúng ta xót cay trong mắt và xốn xang trong lòng thì đấy cũng sẽ là bước đầu của
sự giác ngộ).
Chỉ khi nào
chúng ta ý thức được những khổ đau của mình (1), hiểu được rằng chính mình đã gây
ra chúng (2), và nhận thấy rằng có thể loại bỏ được chúng (3), thì khi đó chúng
ta mới có thể cảm thấy phải quyết tâm bước theo Con Đường hầu giúp mình đạt được
mục đích ấy (4).
Lời giảng của Đức Phật rằng "Tất cả đều là khổ
đau" có nghĩa là gì, và làm thế nào để có thể chấp được điều ấy trong khi đó
thì nhiều lúc chúng ta vẫn cảm thấy mình đang hạnh phúc?
Khổ đau là
một sự bực bội ghép thêm vào những gì đang là như thế (tức là hiện thực). Đấy là một sự bất
toại nguyện dày vò chúng ta, một trò níu kéo giữa hy vọng và sợ hãi, tạo ra một
mạng lưới quấn chặt lấy chúng ta.
Tìm cách đối
đầu với những gì không suôn sẻ là phản ứng trước nhất của chúng ta, và đấy cũng
là một thứ phản ứng thiết yếu nhất giúp chúng ta bước vào Con Đường. Tại sao mỗi
khi vừa về đến nhà thì tức khắc chúng ta lại mở ngay máy truyền hình, có phải đấy
là một cách nhằm đánh tan cái yên lặng đang tìm cách bóp ngạt chúng ta, một thứ
yên lặng phản ảnh một sự lo âu thật tinh tế nào đó ? (đôi khi đấy chỉ là những động tác máy móc mà
chúng ta không hề nghĩ đến các nguyên nhân sâu xa tàng ẩn phía sau những hành động ấy. Chúng ta mở máy truyền hình không
phải để xem hay để nghe mà chỉ để làm cho vẩn đục cái bầu không gian của hiện
thực trong gian phòng, nhằm giúp mình lẩn tránh chính mình. Tuổi trẻ ngày nay
thường nghe nhạc liên miên, dù đang đi ngoài đường hay ngồi trên xe công cộng
thì lúc nào cũng có máy nghe nhạc trong túi, ở nhà thì chơi các trò chơi điện tử
liên miên ngày đêm. Phải chăng đấy là chúng tìm cách tránh né những lo âu và sợ
hãi tàng ẩn thật sâu kín trong lòng của chúng trước cuộc sống đầy khó khăn - mà
Phật Giáo gọi thẳng là khổ đau - đang chờ đợi chúng trước mặt. Thật thế chỉ có
những người hành thiền mới ý thức được từng cử chỉ thật nhỏ nhặt của mình mà
đôi khi có vẻ như là vô nghĩa, thế nhưng đấy lại là cách giúp họ trở về với chính họ, với sự tự tin nơi họ
và Phật Tính trong lòng họ).
Đấy có
nghĩa là chúng ta đang tìm cách trốn chạy sự thật của khổ đau. Con Đường là
cách giúp chúng ta tiếp cận được với nó. Biết thừa nhận mình đang khổ đau là một
sự thật cao quý, là cửa ngõ giúp mình bước vào Con Đường. Quả thật đấy là cả một
quyết tâm thật vĩ đại.
Thật vậy
ngay cả đối với những người Phật Giáo, đôi khi họ cũng không hề chú ý đến sự kiện
khổ đau là một sự thật, và hơn thế nữa đối với Phật Giáo nói chung thì đấy lại
là một Sự Thật vô cùng Cao Quý. Phải luôn ý thức được
điều ấy.
Khổ đau là
một kinh nghiệm cảm nhận về sự giác ngộ, bởi vì khi mà chúng ta đau khổ thì đấy
chính là dịp giúp chúng ta tự vấn lấy mình. Nhờ đó chúng ta sẽ biết quán xét kỹ
lưỡng hơn một thứ gì đó, suy nghĩ về nó và cố gắng tìm hiểu nó (tại sao đau khổ lại
cứ hành hạ mình như thế này (1), nguyên nhân nào làm phát sinh ra nó (2), ồ thế
ra là cái khổ đau ấy cũng có thể loại bỏ đi được, và cũng chẳng có gì là khó cả
vì chỉ cần loại bỏ được nguyên nhân của nó (3), trông kìa Đức Phật đang cầm cái
bát thuốc ấy trên tay để sẵn sàng đưa cho chúng ta (4)).
Nếu nghĩ rằng
một con người giác ngộ sẽ được sống trong một thể dạng đại phúc hạnh thì đấy sẽ
là một sự lầm lẫn. Đấy chỉ là một con người luôn biết mở rộng lòng mình để đón
nhận tất cả khổ đau trong thế gian này. Trong khi đó, ngược lại thì hầu hết những
người khác lúc nào cũng cố tìm đủ mọi cách để lẩn trốn khổ đau. Con tim của một
con người giác ngộ luôn rộng mở để hứng chịu và không hề tìm cách để ẩn náu dưới
sự che chở của một thái độ hành xử khôn ngoan, tương tự như chui vào một pháo
đài kiên cố (chữ
khôn ngoan trên đây được tạm dịch từ chữ sagesse - hay wisdom - trong nguyên bản,
chữ này thường được người Tây Phương dùng để dịch chữ trí tuệ bởi vì trong các
ngôn ngữ Tây Phương không có chữ nào tương đương với chữ trí tuệ).
Nên hiểu rằng khôn ngoan mang hậu ý của một sự gánh chịu hơn là một phương tiện
giúp tự che chở lấy mình (nên nhìn thẳng vào khổ đau đang hành hạ mình hơn là tìm cách
để lẩn tránh nó, bởi vì khổ đau cũng rất khôn ngoan và quỷ quyệt, nó luôn có
cách làm cho mình phải chạm trán với nó một lúc nào đó).
Lúc thiếu
thời Đức Phật sống trong một lâu đài cách biệt với những cảnh khổ đau, già nua,
bệnh tật và cái chết. Một nhà tiên tri cho cha của Ngài biết là sau này đứa bé hoặc
sẽ trở thành một vị quốc vương vĩ đại hoặc một người tu hành khác thường. Vua
cha vì không muốn con mình bước theo con
đường từ bỏ thế tục nên đã cho xây dựng cả một thế giới lạc thú để giam giữ con
mình. Ông giam con mình vào một đại siêu thị hay là một thứ Disneyland (khu tổ chức các trò
chơi cho trẻ con và người lớn). Nơi đó tất cả mọi thứ ham muốn của Ngài
đều được thỏa mãn.
Đấy cũng là
một thứ giấc mơ luôn hiển hiện trong lòng tất cả nhân loại nhằm giúp cho mỗi
người trong chúng ta không còn biết lo nghĩ đến bất cứ gì nữa cả, thế nhưng cái
giấc mơ ấy thật hão huyền. Thế rồi, dù cho cha mình có cố tình che dấu, một hôm
Đức Phật cũng đã nhận ra được điều ấy. Ngài khám phá ra rằng bệnh tật là những chuyện
có thật, già nua và cái chết là những gì sẽ xảy đến - cố tình không thừa nhận
chúng quả thật là hoài công.
Thản nhiên
sống và xem như không có gì xảy ra thì đấy không phải là sống một cách thực sự
và đúng nghĩa của nó.
Thật vậy
chúng ta có thể sống suốt đời mình bằng cách khăng khăng tin rằng sẽ không hề
có gì bất định có thể xảy ra được với mình và đồng thời lại còn thuyết phục người
khác cũng nên tin như mình. Thế nhưng đấy nào có phải là cách giúp mình tránh
né được thực tế đâu.
Rất có thể là
tác động của những niềm bất hạnh và những mối thất vọng xảy ra không hội đủ sức
mạnh khiến cho chúng ta thức tỉnh. Chúng ta cứ tiếp tục cho rằng mọi thứ buồn
phiền mà mình đang phải gánh chịu chẳng qua là do người khác hay là do hoàn cảnh
gây ra.
Đấy là cách
xử thế thường tình. Thế nhưng Đức Phật thì lại vạch ra cho chúng ta một con đường
khác hẳn.
Sự Thật Cao Quý thứ hai nêu lên nguyên nhân của khổ
đau, thì đấy có nghĩa là gì?
Tùy theo học
phái và kinh điển, nguyên nhân của khổ đau có thể hiểu được bằng hai cách khác nhau:
a) hoặc đấy là sự ham muốn hay thèm khát - cũng có thể hiểu như là một sự bám
víu hay chiếm giữ, b) hoặc là vô minh - tức là một hình thức cố tình để cho bị
mù quáng.
Tại sao sự
thèm khát lại là nguyên nhân của khổ đau?
Bởi vì nó thường
xuyên tạo ra cho chúng ta một cảm tính bất toại nguyện. Chúng ta luôn cứ muốn
được một thứ gì đó khác hơn. Đấy là một quá trình chuyển động không ngưng nghỉ,
không bao giờ để cho chúng ta yên.
Tại sao vô
minh lại là nguồn gốc của khổ đau?
Chẳng qua bởi
vì chúng ta tự tách rời mình ra khỏi bầu không gian nguyên thủy và mở rộng của chính
mình (tức là thể
dạng vô ngã tiên khởi hay nguyên thủy của chính mình) bằng cách dựng
lên mọi thứ biên giới ngăn cách cái này với cái kia, tương tự như chúng ta tự thiết
lập riêng cho mình một lãnh vực (một không gian, một thế giới riêng), chúng ta tự
xem mình là một cá thể riêng biệt, hoàn toàn độc lập với người khác và thế giới
(cảm tính về cái
ngã khiến cho mình tự tách rời khỏi hiện thực, tự cô lập hoá mình với thế giới,
và đấy là nguồn gốc của khổ đau).
Học phái mà
tôi theo học trước đây chủ trương sự thèm khát phát sinh từ vô minh, và đấy là
nguyên nhân tiên khởi nhất của khổ đau (Phật Giáo Nguyên Thủy - Theravada - cho rằng nguyên nhân
sâu xa nhất của khổ đau là sự thèm khát, thế nhưng Phật Giáo Đại Thừa nói chung
thì cho rằng sở dĩ có sự thèm khát hay ham muốn là do vô minh mà ra).
Thèm khát sẽ đưa đến sự bám víu, và sự bám víu sở dĩ tạo ra một tình trạng căng
thẳng chẳng qua cũng là vì chúng ta đã đánh mất bầu không gian nguyên thủy luôn
mở rộng của chính mình (tức một bầu không gian không vướng mắc trong cái ngã - tác
giả có ý muốn nói là cái bầu không gian ấy cũng chính là Hiện Thực, là Phật
Tính hay là sự Giác Ngộ).
Có đúng là Phật Giáo thật sự chống lại tất cả mọi
thứ ham muốn hay không?
Quả là một
điều đáng ngạc nhiên khi nhận thấy một số vị tự nhận mình là những người nghiêm túc, hoặc được mọi người xem họ là như
thế (ý của tác
giả là muốn nói đến các học giả uyên bác, các triết gia lỗi lạc, hay các người
có học thức cao tại Tây Phương) lại có thể thắc mắc về những điều
phi lý đến thế? Thật vậy đã có không biết bao nhiêu học giả, các nhà thần học
đã từng xác nhận và vẫn còn xác nhận là Phật Giáo chống lại mọi sự ham muốn và
đối với họ thì đấy là một cách chống lại sự sống, một cách tự thu hẹp chính
mình, một hình thức phủ nhận tính khác biệt (altérité / otherness.., một khái niệm triết học nêu lên tính
khác biệt nơi người khác. Ý của câu trên đây là chủ trương không được ham muốn
của Phật Giáo là một hình thức vô hiệu hóa tính cá biệt của một cá thể - bởi vì
theo họ thì sự thèm muốn biểu trưng cho chính "sức sống" và một hình
thức đa dạng nào đó của con người).
Nếu quả đúng
như thế thì chúng ta sẽ không thể hiểu nổi tại sao lại có hàng triệu và hàng
triệu người từ bao nhiêu thế kỷ nay đã đi theo một tín ngưỡng vô lý đến thế! Cứ
nhìn vào Đức Đạt-lai Lạt-ma hay bất cứ một vị thầy chân chính nào khác cũng sẽ nhận
thấy ngay tính cách phi lý của sự khẳng định ấy. Họ (Đức Đạt-lai Lạt-ma và các vị thầy Phật Giáo
khác) luôn phát lộ một sức sống tràn đầy vui tươi và một lòng nhiệt
tâm thật đáng kính phục.
Nhất định
là không, Phật Giáo không hề chống lại sự ham muốn chính đáng được thể hiện dưới
hình thức một động cơ thúc đẩy trong cuộc sống. Chẳng hạn như ham muốn thực hiện
được một điều gì đó tốt hơn, được giúp đỡ người khác, tự vượt lên trên con người
của chính mình..., thì tất cả những ham muốn ấy đều thật là tuyệt vời.
Thế nhưng trên
một khía cạnh khác thì Phật Giáo luôn lên án sự ham muốn nguy hại dưới hình thức dục vọng, bám víu, tham lam và
thèm khát, đấy là những chướng ngại ngăn chận không cho phép chúng ta trông thấy
được bầu không gian mênh mông của thực tại.
Nếu sự ham
muốn là một cách ngoảnh mặt đi với chính mình, một thể dạng luôn bị thúc đẩy bởi
xung năng tìm kiếm các phương tiện nhằm làm thỏa mãn cái tôi một cách mù quáng,
thì sự ham muốn ấy sẽ chỉ là một thứ chướng ngại. Trái lại sự ham muốn thúc đẩy
chúng ta biết mở rộng lòng mình và biết hiến dâng nhiều hơn nữa, thì luôn biểu
trưng cho một sự phong phú và đấy là những gì thật cần thiết.
Có phải chúng
ta lúc nào cũng muốn mọi sự phải xảy ra đúng như chúng ta mong muốn hay chăng,
và có bao giờ chúng ta cảm thấy mình đã sẵn sàng hòa nhập với hiện thực đúng với
sự hiển hiện của nó hay không?
Chính trong
cái thể dạng hòa nhập đó chúng ta sẽ tự buông thả và cứ mặc cho sự sống khơi động
mình. Quả đấy là một sự nghịch lý vô cùng kỳ thú (một người tu tập buông mình vào hiện thực có
vẻ như là một sự buông lơi không "ham muốn" hay "thèm
khát", "thiếu nghị lực", thế nhưng thật ra là một cách cùng chuyển
động với thực tại bằng cách mượn sức mạnh
yên lặng của chính hiện thực). Suốt thế kỷ XIX, khi nhận thấy Phật
Giáo chủ trương tánh không thì chúng ta (những người Tây Phương) cứ nhất quyết cho rằng
đấy là một thứ tín ngưỡng tôn thờ chủ nghĩa hư vô (nihilism - còn gọi là đoạn diệt).
Chúng ta (những
người Tây Phương) đã phản ứng bằng hai thái độ khác nhau: ca ngợi hoặc
là lên án Phật Giáo qua khía cạnh đó - thế nhưng chúng ta chẳng bao giờ chịu
tìm hiểu ý nghĩa thực sự của khái niệm ấy là gì. Trái lại người Tây Phương mới lại
là những người mang khuynh hướng hư vô một cách thật sâu đậm. Họ chỉ biết say
mê tìm cách đạt được tất cả những gì mình ham muốn, do đó họ đã thu hẹp hiện thực
để biến nó trở thành một khối vật chất có thể cân đo được, nhằm mục đích giúp họ
có thể khống chế thế giới một cách toàn diện nhất. Thế nhưng thật ra đấy lại là
cách mà họ đã hủy diệt tất cả tình thương (cao trào đánh chiếm thuộc địa phát sinh vào thế kỷ XIX và đấy
cũng là thời kỳ mà người Âu Châu sử dụng sức mạnh kỹ thuật và khí giới, và kể cả
tín ngưỡng, nhằm khống chế thế giới, thế nhưng cũng thật oái oăm là chính vào
thế kỷ này mà Phật Giáo cũng đã đặt chân vào thế giới Tây Phương).
Phật Giáo luôn
nhất thiết chủ trương phải vượt lên trên chủ nghĩa hư vô hầu có thể đón nhận bầu
không gian bao la của hiện thực với tất cả các khía cạnh tinh tế nhất của nó.
Phật Giáo luôn khích động sự ham muốn chính đáng của chúng ta nhằm mang lại cho
chúng ta một luồng sinh khí mới, bằng cách nêu lên cho chúng ta thấy sự khác biệt
giữa sự ham muốn chính đáng và những thứ xung năng bất định và hời hợt luôn tìm
cách nhận chìm chúng ta. Và đấy cũng là cách kêu gọi sự quyết tâm của chúng ta (hãy mạnh dạn bước
lên Con Đường).
Sự Thật Cao Quý thứ ba và thứ tư là gì?
Đức Phật đã
chứng minh cho chúng ta thấy rằng Giác Ngộ là một sự thật, một thể dạng biểu
trưng cho một sức khoẻ tốt nhất và hoàn toàn nằm trong tầm tay con người. Ngài
khuyên chúng ta hãy ứng xử như một vị lương y để chữa chạy cho chính mình. Thật
thế chúng ta có thể làm cho khổ đau chấm dứt được! Sự giác ngộ tàng ẩn phía sau
cái nút thắt của sự bám víu. Không cần phải tìm cách sáng chế ra giác ngộ, cũng
không nên tìm kiếm nó ở một nơi nào cả, bởi vì nó đang ở ngay đấy, phía sau cái
nút thắt ấy.
Này các tỳ kheo, Sự Thật Cao Quý của sự chấm
dứt khổ đau là gì? Đấy chính là sự chấm dứt hoàn toàn, không một chút bám víu,
sự thèm khát đó, chối bỏ nó, từ bỏ nó, giải thoát ra khỏi nó.
Thế nhưng
phải làm thế nào? Đấy chính là vai trò của Sự Thật Thứ Tư. Cái Sự Thật đó chỉ cho chúng ta trông thấy một Con Đường.
Đạo Phật vì
thế có thể hiểu như là một con đường giúp chúng ta đối đầu một cách trực tiếp
nhất với khổ đau hầu tự giải thoát ra khỏi nó. Chính vì thế mà con đường ấy đã từng
khiến cho biết bao nhiêu con người, cả nam lẫn nữ, đã phải xúc động và cảm phục.
Quả thật là có một phương pháp giúp chữa trị được những nỗi khổ đau dai dẳng và
trầm kha của con người. Đấy là các phương cách mà Sự Thật Cao Quý Thứ Tư đưa ra nhằm loại
bỏ mọi sự bám víu và mở ra cho chúng ta một cánh ruộng để gieo trồng. Các phương
cách đó được trình bày dưới hình thức một Con Đường Gồm Tám Điều Chính Đáng (Bát Chính Đạo),
tức là một tổng hợp gồm tám thái độ hành xử mang lại lợi ích:
1- Sự hiểu biết đúng về khổ đau và những phương cách
mà nó đã thể hiện để trói buộc tất cả chúng ta.
2- Tư duy
đúng, tức là các tư duy giúp cho chúng ta biết mở rộng lòng mình, biết buông xả,
luôn phát lộ được tình nhân ái và lòng từ bi.
3- Ngôn từ
đúng, có nghĩa là tránh những lời nói gây ô uế và mang lại chán chường, mà ngược
lại thì nên tìm những lời phù hợp với sự rộng mở (của con tim mình), và luôn cố gắng
giữ được phong cách ấy.
4- Hành động
đúng, đấy là những gì mà chúng ta gọi là đạo đức, có nghĩa là chúng ta phải biết
cảnh giác trong từng cử chỉ của mình sao cho thật phù hợp với ước vọng của
chúng ta là mong cầu đạt được giác ngộ.
5- Các
phương tiện sinh sống đúng, có nghĩa là nên chọn những nghề nghiệp nào không đi
ngược lại với sự tu tập của mình (thí dụ như làm đồ tể, nuôi gia súc để giết thịt, chứa chấp
cờ bạc, chặt cây phá rừng, buôn gian, bán lận, lừa đảo, áp bức những kẻ yếu đuối,
lợi dụng những kẻ thật thà, dựa vào vị thế "nghề nghiệp" của mình để
ép buộc người khác phải hối lộ, v.v. và v.v...).
6- Cố gắng
đúng, có nghĩa là biết giữ một sự thăng bằng giữa hai thái cực là sự thờ ơ và cách
luyện tập khổ hạnh mang tính cách bệnh hoạn.
7- Sự chú
tâm đúng, đấy là nền tảng của tất cả các phép tu tập nhằm giúp thực hiện:
8- Sự thiền
định đúng.
Giáo huấn quan trọng thứ hai mà Đức Phật đã thuyết
giảng là gì?
Theo truyền
thuyết thì Đức Phật đã giảng về sự quán thấy tánh không trên đỉnh núi Linh Thứu
với một cử tọa thật đông đảo - quán thấy tánh không là một cấp bậc giáo huấn thâm
sâu hơn nhiều so với lần giảng huấn thứ nhất, tức là vòng quay đầu tiên của
bánh xe Đạo Pháp (giảng
về Bốn Sự Thật Cao Quý).
Thật vậy đấy là một khái niệm mà ngay cả ngày nay chỉ có những ai đã từng quan
tâm học hỏi may ra mới có thể thấu triệt được - ngoài ra thì quả là khó cho những
người khác hiểu được đấy là gì.
Thế nhưng
trước khi giải thích ngắn gọn về tánh không là gì thì thiết nghĩ cũng nên trình
bày sơ lược về khái niệm của Phật Giáo về hiện thực. A-tì-đạt-ma Luận (Abhidharma)
là một bộ kinh được thực hiện vài thế kỷ sau khi Đức Phật đã tịch diệt, đấy là một
công trình thu góp và sắp xếp lại các lời giảng huấn của Ngài theo một hệ thống
mạch lạc và thứ tự. Nội dung chính yếu nhất của bộ kinh này là nhằm nêu lên bản
chất đa dạng và biến động (của hiện thực) - đối nghịch hẳn lại với các giáo
điều của Ấn Giáo. Phật Giáo phủ nhận khái niệm về một thực thể trường tồn và sự
hiện hữu của một cái Ngã - tức là atman
(linh hồn)
của đạo Bà-la-môn. Sự trường tồn của một sự vật thật ra cũng chỉ như một ảo
giác, chẳng khác gì như một ngọn lửa hay một dòng suối. Tất cả những gì hiện hữu
đều là những cấu hợp (tổng hợp gồm nhiều thành phần). Một cái bàn được
ráp lại từ nhiều bộ phận, các bộ phận cũng được tạo thành từ các hạt vi thể. Một
cá thể là một sự kết hợp tạm thời và luôn biến động của các cấu hợp, và tự nó một
cá thể không hề hàm chứa bất cứ một sự hiện hữu độc lập nào.
Chẳng những
sự quán thấy đó không những có thể thực hiện được bằng cách suy tư mà còn được
kiểm chứng bằng phép luyện tập thiền định, vì chính thiền định mới có thể giúp cho
chúng ta hội nhập trực tiếp được với sự quán thấy đó. Nhờ đó chúng ta có thể nhận
thấy được qua từng giây phút một là không có bất cứ một thứ gì có thể giữ được
nguyên vẹn. Tất cả những gì chúng ta nhận thấy được, nghiệm thấy được, suy nghĩ
được, đều chỉ hiện ra, tồn tại được một lúc rồi biến mất trong bầu không gian mở
rộng của tâm thức chúng ta.
Quá trình cố
gắng giúp ghi nhận sự kiện biến động trên đây dù có thể duy trì lâu bền xuyên
qua tất cả các cảnh huống xảy ra trong sự hiện hữu đi nữa thì nó cũng luôn đi
đôi với một sự biến thể thật sâu xa ngay trong các cấu trúc cảm nhận của người
hành thiền (ý
nghĩa của câu này khá khúc triết : thí dụ ta vẫn còn nhớ được một kỷ niệm
nào đó lúc tuổi nhỏ, thế nhưng kỷ niệm đó cũng đã biến đổi qua thời gian, nó sẽ
không còn gợi lên những hình ảnh và tạo ra những xúc động đúng như vào lúc ta
còn trẻ. Một vết hằn của nghiệp trên dòng tiếp nối liên tục của tri thức không
bao giờ "ngủ yên" mà luôn "biến động", nó tương tác với các
vết hằn có sẵn từ trước và cả các vết hằn sẽ xảy ra sau đó để biến đổi khác đi.
Khi một vết hằn tạo ra bởi một
"hành động" (nghiệp) được ghi khắc vào một "đơn vị" mang
tính cách thời gian của dòng chuyển động liên tục của tri thức thì ngay tức khắc
nó tương tác với những gì lưu lại từ "đơn vị" trước nó, tất cả lại
tương tác với nhau để tạo ra những vết hằn mới (hậu quả) nhằm tác động vào
"đơn vị" tri thức xảy ra tiếp theo đó. Sự chú tâm của người hành thiền
giúp nhận ra được bản chất tương kết và biến động của mọi hiện tượng - vật chất
cũng như phi vật chất - và cả những sự biến thể và chuyển động thật tinh tế của
chúng trong tâm thức, tất cả đều không thể nào giữ được sự nguyên vẹn khi một
"đơn vị" thời gian – hay tri thức - này chuyển sang một "đơn vị"
thời gian khác. Sự biến thể đó của mọi hiện tượng có thể nhận biết được bằng sự
suy luận, thế nhưng đối với một người hành thiền thì người này còn có thể cảm
nhận trực tiếp được nó, hòa nhập với nó và để "sống" với nó. Tóm lại
không có bất cứ gì có thể giữ được sự nguyên vẹn, dù đấy là vật-chất hay phi-vật- vật-chất, dù là thuộc
bên trong hay bên ngoài tâm thức. Đấy là bản chất tánh không của mọi hiện tượng).
Các lời
giáo huấn của Đức Phật về tánh không đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử
Phật Giáo.
Trong khi
đó thì các lời giáo huấn trong A-tì-đạt-ma
Luận lại không đạt được một chiều sâu đúng như thế đối với mọi sự vật. Thật
vậy những lời giáo huấn ấy (trong A-ti-đạt-ma Luận) đã thành công trong việc
chia cắt hiện thực (phân tán các thành phần của hiện thực nhằm chứng minh tánh
không của nó) thế nhưng thật ra thì đấy lại là một cách duy trì sự
hiện hữu của các thành phần cấu tạo ra hiện thực (có nghĩa là chưa đi hết được con đường suy luận
hay quán nhận. Thí dụ phân tách con người thành ngũ uẩn là để chứng minh tánh
không của một cá thể, tiếp theo đó thì phân tách ngũ uẩn thành tứ đại để cho thấy
tánh không của ngũ uẩn, thế nhưng tứ đại thì vẫn còn đấy để chờ cho chúng ta
phân tách thêm nữa. Trong khi đó thì Fabrice Midal còn nêu lên cho thấy là cái
tánh không ấy còn nằm trong cả tâm thức và sự cảm nhận luôn biến thể của người
hành thiền. Tóm lại là chúng ta cũng có thể xem đấy là cách chứng minh cái tánh
không của khái niệm về tánh không, hay là nói một cách trực tiếp hơn thì đấy là
tánh không của tánh không).
Tánh không hỗ
trợ cho sự suy tư đạt đến chỗ tối hậu của nó. Hiện thực không hề có một cơ sở (nền tảng)
nào cả (hiện thực
tự nó chẳng có một cơ sở nào để hỗ trợ cho sự suy luận hay là để đạt được nó).
Giáo huấn
trong A-tì-đạt-ma Luận còn tìm cách
giúp cho người tu tập đạt được Niết Bàn, nói một cách khác là đạt được một cái
gì đó mà chúng ta sẽ không có (hiện thực hay niết bàn cũng chỉ là tánh không).
Tánh không
thì lại cho chúng ta biết không có gì để mà đạt được, cũng chẳng có gì để mà tìm
kiếm. Tất cả sự mong cầu đều khiến cho chúng ta bị lạc hướng (người tu tập muốn
đi xa nên suy nghiệm về điểm này).
Câu phát biểu
đó của Đức Phật (nêu
lên tánh không của tất cả mọi hiện tượng) đã nhổ bỏ tận gốc rễ tất cả
mọi chủ đích nhằm cố gắng phân tích giáo huấn của Ngài bằng phương tiện trí thức.
Chính vì thế mà ngay cả khái niệm "Phật Giáo" ("Bouddhism") cũng trở
nên phi lý và là một sự lạc hướng. Không có bất cứ thứ gì để có thể gọi đấy là
"Phật Giáo". Không có gì có thể gọi là giáo lý Phật Giáo cả.
Chúng ta chỉ
là những người con, nam và nữ, sinh ra từ một sự Mở Rộng (tức là Hiện Thực).
(Những gì mà tác giả
Fabrice Midal vừa phát biểu trên đây khiến cho người dịch liên tưởng đến một vị
thiền sư Zen và cũng là một học giả thật lỗi lạc về Phật Giáo là Eric
Rommeluère, ông vừa cho xuất bản một quyển sách mang tựa đề khá "khiêu
khích" là "Không hề có Phật Giáo" (Le Bouddhisme n'existe pas,
nhà xuất bản Sueil, tháng 10, năm 2011). Tuy Phật giáo đối với ông không hề có,
thế nhưng ông đã ngồi thiền hơn 30 năm nay và rất hăng say trong việc Hoằng
Pháp cũng như giảng dạy và hướng dẫn về cách luyện tập thiền định! Theo ông khi
càng đi sâu vào Phật Giáo thì người ta sẽ càng khám phá ra Phật Giáo thật ra chỉ
là một bầu không gian mở rộng và cái bầu không gian ấy lại cứ ngày càng mở rộng
thêm ra và không thể nào nắm bắt được nó. Do đó theo ông thì Phật Giáo theo cách
mà người ta thường hiểu như một giáo thuyết, một triết học siêu hình hay là một
tín ngưỡng mang những lời hứa hẹn, thì hoàn toàn không có. Người ta bước vào
cái không gian Phật Giáo như là một người lữ hành đạt đến cái trạm cuối cùng
trên con đường mà mình đang đi, một nơi thật huyền bí và tinh tế nhất của hiện
thực, tương tự như một bầu không
gian mở rộng biểu hiện cho một sự tự do tuyệt đối. Eric Rommeluère ngồi thiền hơn
ba mươi năm để chẳng thấy Phật Giáo đâu cả mà chỉ cảm thấy trong lòng mình một
sự tự do tuyệt đối – không biết lo âu, sợ sệt cũng không mong cầu hay chờ đợi bất
cứ thứ gì - và hiện thực thì mở ra cho ông một bầu không gian rộng lớn giúp cho
sự hiện hữu của ông có thể tỏa rộng ra tám hướng mười phương).
Xin mạn phép trích
ra đây một đoạn trong Duy-ma-cật Sở Thuyết Kinh mà chính Eric Rommeluère đã
trích dẫn trong quyển sách của ông (trang 134):
"Ai mong cầu dharma
(Đạo Pháp) sẽ không mong cầu [đạt được] một hình tướng nào, một giác cảm nào, một
sự nhận thức nào, một sự tạo tác tâm thần nào, một tri thức nào cả. Người ấy
cũng không mong cầu một cảnh giới nào hay cội nguồn của một sự nhận thức
nào Người ấy cũng không mong cầu [đạt được]
một cõi tham dục, một cõi hình tướng hay vô hình tướng nào. Này Xá-lợi-phất, ai
mong cầu [đạt được] dharma (Đạo Pháp) thì không mong cầu bằng cách bám víu vào
Đức Phật, vào Đạo Pháp và vào Tăng
Đoàn. Ai mong cầu dharma [thì cứ] mong cầu [thế nhưng] không
cần phải nhận biết được khổ đau, cũng không cần hủy diệt được nguyên nhân của
khổ đau. Người ấy mong cầu [thế nhưng] không cần hoàn tất sự thực hiện cuối
cùng, không cần luyện tập về con đường. Tại sao lại như thế? [Bởi vì] bên trong
Đạo Pháp không hề có sự sinh khởi nào mang tính cách khái niệm. Nếu có bất cứ
ai bảo rằng: "Tôi phải hiểu được khổ đau là gì, phải hủy diệt được nguyên
nhân của khổ đau, phải thực hiện được sự đình chỉ và phải trau dồi về Con Đường",
thì đấy sẽ chỉ là cách làm phát động thêm sự sinh khởi của khái niệm và đấy
không phải là cách mong cầu dharma (Đạo Pháp"). (trên đây là phần thoát
dịch từ đoạn kinh Kinh Duy-ma-cật do Eric Rommeluère trích dẫn trong quyển sách
của ông (tr.134) - Vimalakirti Sutra, T,
XVIII, N° 475, trang 546a).
Làm thế nào để có thể hiểu được tánh không là gì?
Đến đây chúng
ta lại tiếp tục thử suy tư trở lại về những gì đã được trình bày trong phân đoạn
trên đây (tức là
tánh không). Hiện thực thì hoàn toàn trống không về bất cứ một đặc
tính nhất định nào. Con người bao giờ cũng tìm cách xác định các vật thể và mọi
chúng sinh khác đúng như là đang hiện hữu trước mặt mình, thế nhưng đấy chỉ là một
cách nhìn lạc hướng. Thật vậy đấy chỉ là một cách thu hẹp những gì trông thấy (cái nhìn của mình
chỉ phát hiện được một phần rất nhỏ đối tượng mà mình trông thấy, nói một cách
khác thì đấy là một cách nhằm giới hạn hay thu hẹp thực chất của một đối tượng).
Chồng hay vợ tôi mà tôi đã từng sống chung năm mươi năm nay, thế nhưng thật ra
thì tôi không hoàn toàn biết hết được người ấy. Những gì mà tôi biết vẫn còn
thuộc vào bên này (en deçà / in below / còn thiếu sót, không đầy đủ) những gì mà
vợ tôi hay chồng tôi đang hiện hữu. Người ấy hoàn toàn trống không về tất cả mọi
thứ khái niệm mà tôi cố tình áp đặt cho người ấy (vợ tôi hay chồng tôi, giỏi giang, đẹp, xấu,
khéo léo, vụng về, biển lận, đạo đức, béo lùn, to lớn, là người đàn bà khôn
ngoan, người đàn ông tháo vác, v.v...và v.v..., tất cả các thứ ấy đều là những khái
niệm. Khi nhìn vào người chồng hay người vợ mình thì xung năng bám víu trong
tâm thức mình - tức là sự phán đoán hay diễn đạt trong trí mình chi phối bởi
các vết hằn trên dòng tiếp nối liên tục của tri thức, tức là nghiệp - nhằm áp đặt
cho người ấy, thường là rất mạnh, dù đấy là tích cực hay tiêu cực. Trái lại khi
trông thấy một người đàn ông hay một người đàn bà ngoài đường chẳng hạn thì các
khái niệm mà mình áp đặt lên người ấy cũng sẽ hời hợt hơn. Tóm lại là tất cả những
thứ ấy hoàn toàn không biểu trưng cho thực chất của đối tượng mà mình đánh giá).
Chính nhờ thế mà người ấy (vợ tôi hay chồng tôi) luôn khiến cho tôi phải
thán phục và ngạc nhiên (hoặc cũng có thể là ngược lại, hoặc nói cách khác thì những
gì mà mình đánh giá người ấy thường bị lầm lẫn hay không hoàn toàn đúng).
Đấy cũng chính là một cách thật đơn giản giúp tìm hiểu tánh không là gì (những gì mà mình
áp đặt cho người chồng hay người vợ mình là những khái niệm do mình tạo dựng ra
trong đầu mình và trên thực tế thì người phối ngẫu của mình hoàn toàn trống
không về những khái niệm ấy).
Điều đó cho
thấy là mọi sự vật không hiện hữu (đúng với chúng). Phật Giáo không phải là một chủ
nghĩa hư vô - mà trái lại là đằng khác. Mọi sự vật đều hoàn toàn độc lập với bất
cứ một sự phóng tưởng, tính toán hay tạo dựng nào mà mình muốn áp đặt cho
chúng.
Chẳng phải là sự hiểu biết đó thật hết sức tuyệt
vời hay sao?
Khi đã nhìn
thấy được tánh không thì đấy cũng có nghĩa là bầu không gian nguyên thủy được khai
mở giúp con người hòa nhập với cội nguồn của những cảm nhận thật minh bạch và đơn
sơ (tức cảm nhận được sự giác
ngộ, sự giải thoát, sự tự do tuyệt đối, sự đình chỉ, sự tắt nghỉ hay niết bàn v.v... tùy theo cách diễn đạt bằng các ngôn
từ hay các thuật ngữ khác nhau).
Sở dĩ chúng
ta gặp phải khó khăn khi tìm hiểu tánh không, ấy chẳng qua là vì lý do tánh
không hoàn toàn không phải là một khái niệm có thể áp đặt thêm cho hiện thực (tánh không chính nó
cũng là một khái niệm như tất cả các khái niệm khác. Thí dụ theo tôi thì vợ tôi
có thể là đẹp, trung bình hay xấu. Đẹp, xấu, trung bình là một khái niệm nêu
lên một đặc tính nào đó - cái đẹp chẳng hạn - để áp đặt cho vợ tôi. Thế nhưng nếu
như tôi không có một khái niệm nào về chuyện này và tôi không hề hay biết là vợ
tôi đẹp hay xấu, hay là nhìn cũng tạm được..., bởi vì trong đầu tôi hoàn toàn
không có một khái niệm nào về chuyện đó để căn cứ vào đấy mà đánh giá vợ tôi - thì
nhất định tôi sẽ không thể nào biết được là vợ tôi đẹp, xấu hay trung bình. Do đó
tánh không rất khó thấu triệt vì nó không có một cơ sở cụ thể nào để dựa vào đấy
để mà nắm bắt được nó). Đấy là một bằng chứng cho thấy rằng tất cả
các khái niệm triết học dù là thuộc vào lãnh vực nào đi nữa cũng không hề hàm
chứa bất cứ một thực thể vững chắc nào cả (một khái niệm triết học cũng là một sự tạo dựng trong tâm thức
của một triết gia dùng để áp đặt cho một thể dạng hay một thực trạng nào đó của
hiện thực). Sự cố gắng tìm hiểu tánh không như trên đây cũng có thể
xem như là một liều thuốc nhằm hóa giải bất cứ một học thuyết triết học nào về
hiện thực.
Chính vì lý
do đó mà việc học hỏi trong kinh sách về chủ đề tánh không thường là một chuyện
vừa khổ nhọc lại vừa chán ngắt. Kinh sách thật ra chỉ nhắm vào mục đích vật
chúng ta ngã lăn xuống đất bằng một thứ kỹ thuật nhu đạo (judo) về lý luận.
Kinh sách bắt mạch từng niềm tin của chúng ta - và kể cả những niềm tin mà chúng
ta không ngờ đến - nhằm vào mục đích chứng minh cho chúng ta thấy rằng tất cả (các sự tin tưởng ấy)
đều là vô ích (inanité / inanity)
Theo cách
nhìn đó thì có thể nói là không có một vị thầy nào có thể sánh kịp với Long thụ
(Nagarjuna). Ông sống ở Ấn độ vào khoảng thế kỷ thứ II sau Tây lịch. Nhiều tác
phẩm mà người ta xem là do chính ông đã trước tác vẫn còn lưu giữ được đến nay,
tuy nhiên một phần lớn trong số này là các bản đã được dịch sang các tiếng Tây Tạng
hay Trung Quốc (một số các bản gốc
bằng tiếng Phạn đã bị thất truyền). Tác phẩm quan trọng nhất của ông
là tập Trung Quán Luận
(Madhyamakakarika), gồm 449 tiết thơ (karika) viết
bằng một thể văn thật ngắn gọn giúp người đọc có thể học thuộc lòng một cách dễ
dàng (thế nhưng
nếu muốn thấu triệt thì hoàn toàn không dễ dàng như thế).
Long Thụ đã tạo ra cả một cấu trúc tư tưởng thật vững chắc
nhằm đả phá bất cứ một sự tạo dựng mang tính cách khái niệm nào. Các cách diễn
đạt nghịch biện, các chủ trương quái lạ (về triết học), cũng như các cách giảng dạy vượt
khỏi ngôn từ phát sinh ra sau này đều phải dựa theo cách lập luận đó của Long
Thụ (xin đơn cử
một thí dụ ngắn gọn về phép suy luận lôgic gọi là tứ đoạn luận do Long Thụ triển
khai như sau: 1) người ta không thể xác nhận được rằng: "có một cái gì
đó"; 2) người ta không thể xác nhận được rằng: "không có cái gì cả";
3) người ta không thể xác nhận được rằng: "có một cái gì đó và [đồng thời
cũng] không có một cái gì cả; 4) người ta không thể xác nhận được rằng: "vừa không có một
cái gì cả và [đồng thời cũng] không phải là không có một cái gì cả"; sau
khi suy luận theo phép tứ đoạn luận như trên đây thì chúng ta cũng có thể hình
dung ra "bản chất" của tánh không là gì). Mọi vật thể hoàn
toàn trống không về bất cứ một phóng tưởng nào mà tôi ghép thêm vào cho chúng,
và đấy cũng cho thấy là thật ra luôn luôn chúng ta cởi mở hơn là chúng ta tưởng
(bản chất nguyên
thủy của chúng ta khá đơn giản tức là cởi mở, chỉ vì chúng ta liên tục tạo dựng
ra thêm đủ mọi thứ khái niệm vì thế mà chúng ta đã trở nên ngày càng phức tạp
và gò bó hơn. Một thí dụ cụ thể là một đứa trẻ dễ thích ứng với những gì xảy ra
chung quanh nó, trong khi đó thì một người lớn tuổi lại mang đầy các khái niệm
trong đầu, và vì thế đã trở nên cứng nhắc, hay nói cách khác là trở nên thật bướng
bỉnh và khó chịu khiến cho con cháu phải vô cùng khổ sở. Những người mang trách
vụ quản lý con người - nhất là những người « làm » chính trị - thường
hay tìm cách nhồi sọ những người khờ khạo và thật thà hoặc là trẻ con các khái niệm
nhằm vào các chủ đích muốn áp đặt cho họ, bởi vì trẻ con và các người khờ khạo
hay thật thà chưa hoặc không đủ khả năng để tạo dựng ra trong đầu mình những
khái niệm phức tạp và lắc léo). Nếu muốn hòa đồng được dễ dàng với
thế giới chung quanh thì tánh không sẽ là một phương tiện vô cùng sắc bén (và thật « giản
dị » : cứ hãy xóa bỏ hết những khái niệm trong đầu mình đi).
Chính
đấy là điểm cao nhất của tư tưởng Phật Giáo. Chúng ta không sao tránh khỏi bối
rối khi phải đối mặt với một thứ tư duy
lôgic thật vô cùng bất ngờ ấy của Phật Giáo.
Ở
Tây Phương thì thần học hình thành từ sự kết hợp giữa các lời giảng của Chúa
Ki-tô và căn bản triết học Hy Lạp - dưới hình thức của một sự pha trộn thật lạ lùng
và thực sự đấy cũng là một điều đáng buồn.
Đối với Phật
Giáo, suy tư về "thần học" không phát sinh từ một mảnh đất nào khác
hơn là mảnh đất Phật Giáo (do đó không phải là kết quả của một sự pha trộn).
Đấy quả là một điều may mắn.
Tại sao giáo huấn về tánh không lại không phải là một
thứ chủ nghĩa hư vô?
Tánh không
là một phương tiện nhằm vạch ra con đường trung đạo của Phật Giáo. Chủ đích của
nó là tìm cách tránh khỏi hai thái cực là chủ nghĩa trường tồn (eternalism / vĩnh hằng,
bất biến) và chủ nghĩa hư vô (nihilism / còn gọi là đoạn diệt).
Đối với chủ
nghĩa trường tồn thì chúng ta sẽ tin rằng có một cái tôi thường hằng, bất biến,
không gánh chịu một sự biến thể nào, cái tôi đó làm hậu thuẫn cho mọi hành động,
cảm tính, tư duy và các kỷ niệm của chúng ta; cái tôi đó làm cơ sở chống đỡ cho
con người chúng ta và cá thể của chúng ta, nó biểu trưng cho "bản chất"
(essence /
essence, base) trường tồn của những thứ ấy.
Đối với chủ
nghĩa hư vô thì ngược lại chúng ta tin rằng chẳng có gì hiện hữu cả, tâm thức của
chúng ta chỉ là sự vận hành của một bộ máy. Đứng trên quan điểm đó thì cái tôi
sẽ bị thu hẹp lại như là một sự vận hành của não bộ hay các chức năng sinh học.
Không có gì thật sự có thể gọi là một con người. Các hành động của chúng ta không
thật sự dính dáng gì với chúng ta bởi vì chúng chỉ là sản phẩm của định mệnh (determinism)
mà chúng ta không có quyền hạn gì để nhúng tay vào: "Các lỗi lẫm ấy là do
kích thích tố (hormon,
các chất nội tiết) mà ra", "Đấy là hậu quả di truyền",
"Tôi chẳng dính dáng gì vào đấy", "Đấy là do giáo dục, do cha mẹ
tôi..."
Quả thật hết
sức lạ lùng, hầu hết mọi người lúc thì ngả sang thái độ này lúc lại nghiêng
sang thái độ khác (trước một tình huống xảy ra, người ta thường thốt lên: "Đấy là nhờ
Trời thương, Trời cho, nhờ ơn Trời..." hoặc là: "Số mạng xui khiến
như thế, đấy là vận rủi của tôi, phần số của tôi..." và họ không hề ý thức
được rằng nếu ghép chung hai quan điểm ấy lại với nhau thì sẽ là một thứ nghịch
lý không thể hiểu được"). Mục đích của Phật Giáo là nhằm giải
thoát chúng ta ra khỏi cả hai quan điểm sai lầm ấy.
Giáo huấn quan trọng thứ ba của Phật Giáo là gì?
Đấy là sự hiện
hữu của bản-thể-của-Phật hay Phật-Tính nơi tất cả chúng sinh. Giác ngộ đã sẵn có
trong mỗi con người chúng ta. Chúng ta chỉ cần phát hiện được nó để có thể khởi động nó.
Nhiều người
tu tập dựa vào giáo huấn của lần chuyển Pháp Luân thứ hai (tức chủ trương tánh không tuyệt đối của hiện
thực) có thể sẽ cho rằng những lời giáo huấn mới trên đây (vòng quay thứ ba của
bánh xe Đạo Pháp chủ trương Phật
Tính hiện hữu nơi mỗi chúng sinh) là một hình thức cụ thể hóa của thể
dạng mở rộng, và họ cũng rất lo ngại vì nghĩ rằng đấy có thể là một cách biến Phật
Tính trở thành một hình thức mới của "atman"
(cái ngã hay linh hồn) - một điều hoàn toàn
đi ngược lại với Đạo Pháp (Dharma).
Thế nhưng đối
với chính những người tu tập theo giáo huấn của lần chuyển Pháp Luân thứ ba thì
lại quan niệm khác hơn và cho rằng nếu cứ nhất quyết tôn trọng tính cách tiêu cực
của tánh không tuyệt đối thì đấy sẽ là một hình thức giới hạn hiện thực. Chẳng
những họ không hề phủ nhận tính cách vững chắc của khái niệm về tánh không dù
là dưới bất cứ một hình thức nào, mà còn phát hiện ra nơi tánh không một chiều
sâu thật lớn, tránh cho người tu tập không bị lạc hướng một cách nguy hiểm (dễ rơi vào quan điểm
hư vô nếu không thấu triệt được tánh không là gì).
Tất cả
chúng sinh đều hàm chứa hạt giống hay là khả năng giúp đạt được giác ngộ. Bản
thể của Phật luôn tròn đầy và hoàn hảo một cách tự nhiên và đều hiện hữu nơi mỗi
cá thể. Chỉ có một trở ngại duy nhất là nó bị vô minh che lấp và do đó đã khiến
cho chúng ta không nhận biết được nó.
Mục đích
duy nhất trong việc tu tập là nhằm xóa bỏ bóng tối và sự hoang mang che khuất Phật
Tính, tương tự như những đám mây phủ kín bầu trời. Thế nhưng dù cho những đám
mây ấy có dầy đặc cách mấy đi nữa thì một ngày nào đó chúng cũng sẽ phải tan biến
và không thể nào ngăn chận được mãi mãi sự rộng mở của bầu trời cao. Cái bản-thể-của-Phật
ấy hoàn toàn trống không - và không hề phản biện lại giáo huấn về tánh không.
Không thể nào nắm bắt được cái bản-thể ấy mà chỉ có thể thực hiện được nó (tức là đạt được
nó) mà thôi.
Niềm tin của
tôi là những lời giáo huấn trên đây (về Phật Tính) chính là những lời giáo huấn hữu
ích nhất cho tất cả chúng ta hôm nay. Chúng ta cần phải rút tỉa từ những lời
giáo huấn ấy những gì có thể giúp ích cho chúng ta trong cuộc sống hiện tại.
Nhân loại chưa từng sống trong một bối cảnh xã hội nào lại chất chứa đầy thất vọng
như xã hội của chúng ta ngày nay. Đúng như những gì mà Nietzsche (1844-1900, là một
triết gia người Đức) đã từng nêu lên: đấy là cái khía cạnh nổi bật
nhất trong thời đại chúng ta biểu trưng cho một thái độ cư xử thiếu hẳn sự tôn
trọng nhân phẩm giữa con người với nhau. Đối với chúng ta không có gì mang một
phẩm giá khả dĩ đáng để cho chúng ta kính trọng nữa, kể cả con người của chúng
ta.
Quốc xã (nazism) là một chủ nghĩa khiếp đảm
nhất, là một tình trạng "trật đường rầy" (déraillement / derailment / trật bánh xe hay
là sự sai lầm) của thế giới Tây Phương (thật ra thì đấy không phải là lần đầu tiên thế
giới Tây Phương đi "trật đường rầy" mà trước đó các phong trào lùa bắt
nô lệ, áp đặt tín ngưỡng, đánh chiếm thuộc địa và chủ nghĩa thực dân, cũng như
các chủ nghĩa không tưởng khác do người Tây Phương chủ xướng cũng đã mang lại
những tác hại và đau thương không kém cho nhân loại. Sở dĩ người ta chỉ nói nhiều
đến chế độ quốc xã là vì hơn mười triệu người Âu Châu bị giết trong các lò hơi
ngạt đấy thôi). Theo một góc nhìn nào đó thì chủ nghĩa quốc xã cũng
như các chế độ độc tài (totalitarisme / totalitarianism) mang các hình
thức cực đoan nhất cũng chưa hẳn là đã biến mất. Thí dụ như trường hợp của một
nhà tâm lý học làm việc trong ban quản lý nhân viên của một công ty đa quốc gia
được ban giám đốc yêu cầu phải nghiên cứu "các tiêu chuẩn nhằm gạn lọc
nhân viên" khi công ty này phát động một kế hoạch bí mật sa thải bớt số công
nhân viên trong công ty, (François Emmanuel, La question humaine, nhà xuất bản Stock, 2000).
"Tôi (tác giả của quyển
sách trích dẫn trên đây) đã từng tìm thấy một tài liệu chính thức, đấy
là một bản thông tri do chính các người quốc xã soạn thảo ghi ngày 5 tháng 6
năm 1942, trong đó có nêu lên bảy điều khoản nhằm cải thiện việc điều hành các
xe vận tải hiệu Saurer dùng vào việc chuyên chở hơi ngạt để giết người Do Thái.
Cách giết người bằng khí độc vừa hiệu quả lại "sạch sẽ " hơn so với cách
đem họ ra bắn từng loạt. Trong thông tri đó, các chữ như "hàng hóa",
"hàng vận tải"..., được đồng loạt sử dụng để tránh né không cần phải
trực tiếp nêu lên chữ "con người". Con người đã được vật thể hóa để trở
thành những con số kế toán. Đấy cũng là một cách giúp cho những người mới đọc bản
thông tri lần đầu không cảm thấy quá ghê tởm. Thật thế lần đầu tiên khi đọc bản
thông tri này tôi cảm thấy lạnh cả xương sống và tôi đã liên tưởng ngay đến những
gì xảy ra trong công ty mà tôi đang làm việc. Đấy là cách sử dụng các bản thông
tri hành chánh thật lạnh người với các chữ dùng làm bình phong như "cải tổ",
"kế hoạch bảo vệ công ăn việc làm"..., nhằm bào chữa cho việc sa thải
nhân viên. Điều đó đã làm cho tôi rợn cả người. Đấy là loại ngôn từ lôgic của chủ
nghĩa tôn thờ hiệu quả mà ngày nay người ta thấy sử dụng nhan nhãn trong lãnh vực
công ăn việc làm và kể cả trong sự sinh hoạt chung của toàn thể xã hội nữa".
Đề cập đến
tánh không trong một bối cảnh xã hội như thế cũng có thể sẽ mang lại một mối hiểm nguy lớn lao, đấy là cách xúi dục chúng
ta mượn chữ "trống không" để bào chữa cho các hành động thiếu lương
thiện của mình. Chúng ta nào có phải là trống không đâu, mà thật ra là đầy ắp mọi
thứ khả năng. Giáo huấn về bản-thể-của-Phật có thể giúp chúng ta chống lại
khuynh hướng chà đạp nhân bản con người đang lan tràn khắp nơi - và biết đâu còn
có thể giúp chúng ta hiểu được một cách sâu sắc hơn tầm quan trọng thực sự về lời
giáo huấn về tánh không của Đức Phật (phía sau của tánh không còn tàng ẩn cả một bầu không gian rộng
lớn của Phật Tính, vì thế chúng ta không nên sử dụng bản án tử hình để giết một
con người và cả Phật Tính trong lòng họ).
Phật Giáo
không phải là một tín ngưỡng dựa vào giáo điều. Đức Phật ngỏ lời với con người
bằng cách nhìn vào tâm điểm của sự đau khổ đang hành hạ họ để vạch ra cho họ một
con đường giúp họ tự giải thoát cho mình khỏi tình trạng khổ đau đó. Vậy trong
bối cảnh ngày nay thì những gì đã làm cho chúng ta phải khổ đau khủng khiếp đến
thế?
Chúng ta khổ
đau vì bị mất gốc, bị tách rời ra khỏi bầu không gian sâu rộng của thân xác
mình. Cái thân xác đó là nhằm giúp chúng ta kết nối với cỏ cây, với chim chóc
và suối rừng, với những con bò đang gặm cỏ. Thế nhưng nào chúng ta có biết hoà
mình với muông thú đâu - mỗi khi có một con vật nào đến gần và chạm vào quyền lợi
của chúng ta thì chúng ta sẵn sàng giết chúng một cách không gớm tay (khi có một con côn
trùng bay đến và bám vào người chúng ta thì chúng ta hãy nhìn nó với tất cả sự
tò mò, niềm vui thích và tình thương dâng lên trong lòng. Nếu ta không đủ khả
năng để làm được việc ấy thì cứ tìm cách hất cho nó văng đi, không nên đập bẹp
nó. Là một con côn trùng thì nó nào có đủ sức để phân biệt đâu là một người
hung dữ để mà lánh xa).
Làm thế nào
chúng ta có thể tồn tại được trong một thế giới mà tất cả đã bị công cụ hóa và
khiến nó biến thành một thứ đại siêu thị?
Vào năm
1989, một cuộc hội kiến được tổ chức giữa các vị đại sư Phật Giáo Tây Phương và
Đức Đạt-lai Lạt-ma. Trong buổi hội kiến đó mọi người đều nhận thấy ngay là phải
ưu tiên trao đổi với nhau về các khó khăn mà họ đang gặp phải trong việc quảng
bá giáo huấn của Đức Phật. Họ trình với Đức Đạt-lai Lạt-ma rằng trở ngại lớn nhất
của họ là người Tây Phương thiếu hẳn tình thương đối với chính mình. Ngài rất đỗi
ngạc nhiên và phải nhờ các người thông dịch giải thích thêm cho Ngài về ý nghĩa
của sự nhận xét đó. Thế rồi Ngài đã phải thốt lên : "Thật là khủng khiếp, đã
là một con người thì bất cứ ai cũng đều xứng đáng để được yêu thương".
Sự kinh ngạc
đó của Đức Đạt-lai Lạt-ma cho thấy là có hai thế giới khác nhau. Chúng ta những
con người Phương Tây, chúng ta không hề tự động thiết lập được một mối tương
giao hiển nhiên với con tim của chính mình như những con người Phương Đông. Đối
với họ mối tương giao đó là một điều thật hiển nhiên.
Giáo huấn của
Đức Phật về bản-thể-của-Phật đã chứng minh cho thấy rằng chúng ta không phải là
những con người có thể hoán chuyển lẫn nhau một cách dễ dàng theo ý muốn của kẻ
khác. Có một cái gì đó thật tự hào tàng ẩn nơi mỗi con người chúng ta mà chúng
ta cần phải nhìn thấy nó hầu để bảo toàn và trau dồi nó.
Thiền định
là cách giúp chúng ta tìm về với từng hơi thở của mình, giúp chúng ta đạt được một
sự cảm nhận tròn đầy, mở rộng và thanh thoát. Có một cái gì đó thật tốt lành đang
hiện hữu. Cái tốt (bonté / goodness / lòng nhân từ, sự tốt bụng) ấy không mang tính
cách đối nghịch lại với cái xấu, mà đúng hơn là một cái gì đó rất chủ yếu và rất
thật.
Tôi tin rằng
giáo huấn của Đức Phật mang một chủ đích thật rõ rệt nhằm trỏ cho chúng ta
trông thấy cái tốt ấy, tập cho chúng ta nhận biết được nó để mà hòa nhập với
nó.
Phật Giáo đề cập đến cái tốt như thế nào?
Đối với
chúng ta (những
người Tây Phương) cái tốt là một cảm tính đối nghịch với lý trí là một
thứ duy nhất mang tính cách khách quan. Chúng ta phải phát động tất cả nghị lực
của mình để vượt từ thể dạng này sang thể dạng kia, có nghĩa là từ lòng từ thiện
- mang tính cách tình cảm và chủ quan - sang công lý - mang tích cách duy lý và
khách quan. Chúng ta thường do dự hoặc có xu hướng nghiêng hẳn về một thứ lòng
tốt nào đó điều khiển bởi lý trí. Chúng ta cứ nghĩ rằng các đam mê trong con
tim mình phải lệ thuộc vào sự chi phối của tâm thức mình (tức lý trí) hoặc ngược lại (thì tâm thức bị lấn át bởi các niềm đam mê, tức
lý trí bị tình cảm lấn át) đúng như Pascal (triết gia và khoa học gia người Pháp, 1623-1663) đã
từng tuyên bố: con tim có cái lý của nó mà lý trí không thể hiểu được.
Thế nhưng đối
với Phật Giáo thì lại khác, sự phân biệt đó không mang một ý nghĩa nào cả. Không
thể hình dung con người như là một con thú có lý trí, có nghĩa là không phải là
một sự kết hợp giữa bản năng (sự đam mê) và tri thức mang khả năng lý luận (lý trí).
Lòng tốt tự
nó là một bầu không gian giúp cho ánh sáng rạng rỡ của sự hiện hữu của chúng ta
có chỗ để tỏa rộng. Cái lòng tốt đó lúc nào cũng thật thông minh (có nghĩa là tự nó
cũng đã là lý trí hay là trí tuệ).
(Xin lưu ý người đọc
là tác giả trình bày giáo huấn của Đức Phật xuyên qua ba vòng quay của bánh xe
Đạo Pháp : Tứ Diệu Đế (1), Tánh Không và Tánh Không của Tánh Không biểu trưng cho sự Tự Do Tuyệt Đối hay là
sự Giải Thoát (2), Phật Tính hay là một Bầu Không Gian rộng mở và rạng ngời
giúp cho sự hiện hữu của chúng ta hòa nhập với nó (3). Thế nhưng trong phần kết
luận thì tác giả lại mang chúng ta trở về với lòng từ bi mà lương tri của chúng
ta đang réo gọi, đấy là động lực và sức mạnh giúp chúng ta quay hết cả ba vòng
bánh xe).
Bures-Sur-Yvette,
06.05.12
Hoang Phong chuyển ngữ