thì chú vội vàng báo ngay
cho chủ tướng của mình - không ai khác hơn là chính ta. Mà cái ta này chính là
cái tôi hay cái ngã do mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý kết hợp lại mà thành.
Khi
một “tin tức” tốt được “báo cáo” thì vị chủ nhân hân hoan nói, “Được,
chú tiếp tục nói đi”. Lúc đó vị “chủ tướng” tức cái ngã, lim rim tận hưởng
khoái cảm của những lời tán tụng, những lời du dương, những lời ngon ngọt gửi
tới. Thật sướng lỗ tai!
Thế
nhưng khi gặp những “tin tức” khó chịu, một lời nói bất ưng được báo vào thì
“chủ tướng” lập tức nổi giận, quát tháo ầm ĩ, “Cút đi! Ta không muốn nghe nữa!”.
Thật tội nghiệp cho chú lính. Chú chạy biến ra ngoài, ngồi xuống rầu rĩ bịt kín
lỗ tai lại. Trong khi đó thì “ông tướng” có thể vẫn tiếp tục nổi trận lôi đình,
chửi bới rân trời và chú lính (miệng) cũng bị vạ lây.
Nghe
lời nói ngon ngọt thì dễ, nhưng nghe, hoặc lắng nghe lời nói trái tai thì thật
khó khăn. Đối với chúng sinh bình thường, sự lắng nghe đã khó, còn đối với
những nhân vật gọi là quyền cao chức trọng, giàu có, tăm tiếng, thế lực, nổi
tiếng v.v… thì sự khó khăn đó còn tăng gấp bội, bởi vì cái tôi, cái ngã của
những vị này rất lớn.
Nhìn
vào lịch sử Trung Hoa, chúng ta thấy biết bao trung thần, nghĩa sĩ đã chết vì
những lời tâu trình nghịch ý vua. Khá hơn là những ông vua, tuy không ra lệnh
chém đầu nhưng lại bỏ tù, hoặc tước hết phẩm trật, đuổi về quê những ông quan
dại dột tâu lên những điều mà nhà vua không muốn nghe.
Còn
tại triều đình châu Âu, một số các ông vua có lối “bịt tai” rất “thông minh”.
Các ông vua này nuôi mấy anh hề, chạy lăng xăng trước ngai vàng. Khi có quan
đại thần nào tâu trình điều gì thì mấy anh hề làm trò khiến vua cười sặc sụa.
Và dĩ nhiên như thế vua có thể “đổ thừa” là “Trẫm có nghe gì đâu!”. Quan đại
thần lúc đó chỉ có nước lạy tạ mà lui ra.
Còn
tại Hoa Kỳ, một quốc gia được coi như triệt để bảo vệ quyền tự do ngôn luận và
mọi người thảo luận trong tình thần ôn hòa, tương kính. Tuy nhiên không phải
tất cả đều như vậy. Quý vị nào theo dõi các buổi hội luận, phát biểu ý kiến
trên các đài truyền hình lớn như Fox News, CNN… chắc đã thấy rất nhiều trường
hợp, các người tranh luận không thèm lắng nghe người đối diện. Cả hai người đều
tranh nhau nói, khiến khán giả chẳng biết ông nói gì, bà nói gì, và dĩ nhiên
chỉ có nước lắc đầu cười trừ.
Ở
đây sự xung đột ý kiến lên tới mức trầm trọng khiến người ta không thèm lắng
nghe nhau mà chỉ muốn phát biểu ý kiến của mình.
Thế
nhưng trong vô lượng chúng sinh đã và đang ngụp lặn, luân hồi trong thế giới Ta
bà này, có một nhân vật rất lạ lùng, đó là Ngài Bồ tát Quán Thế Âm đã phát hạnh nguyện lắng nghe; lắng
nghe sự khổ đau cũng như nỗi bất ưng của muôn loại chúng sinh mà đến cứu giúp.
Và Ngài đã thể hiện hạnh nguyện đó từ vô lượng kiếp trước. Do đâu mà chúng ta
biết được hạnh nguyện của vị đại Bồ tát hi hữu này?
Trong
pháp hội tại núi Kỳ Xà Quật của thành Vương Xá, Ngài Bồ tát Vô Tận Ý, từ trong
đại chúng đã đứng lên thưa hỏi Phật như sau: “Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm
Bồ-tát do nhân duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?”. Phật đã bảo Ngài Vô Tận Ý
Bồ-tát như sau: “Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng
sanh chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ-tát này một lòng xưng danh, Quán Thế
Âm Bồ-tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát” (Kinh Pháp
Hoa).
Bồ
tát Quán Thế Âm tương truyền đã và thường thị hiện thành hình tướng người nữ
với tướng mạo thật đoan nghiêm, hiền từ, được gọi một cách thân thương và giản
dị là Phật Bà Quan Âm
để cứu độ bất cứ ai lên tiếng kêu khổ và niệm danh hiệu Ngài. Câu niệm đầy đủ
nhất là “Nam Mô Tầm Thanh Cứu Khổ, Cứu Nạn Linh Cảm Quan
Thế Âm Bồ Tát”.
Do
đó mà hình tượng của Phật Bà Quan Âm đã được dựng lên khắp nơi, được kính
ngưỡng, thờ phượng. Tại sao vậy? Bởi vì khi chúng ta niệm danh hiệu Ngài, hoặc
trông lên tượng Phật Bà Quan Âm, chúng ta cảm thấy bình an, được cảm thông,
thấy tin tưởng và không còn sợ hãi.
Mới
đây nhất một pho tượng Phật Bà Quan Âm, cao 69,7m, được xem là tượng Phật
cao nhất Việt Nam đã được dựng và khánh thành tại chùa
Bãi Bụt hay chùa Linh Ứng nhìn xuống bãi biển Sơn Trà, Đà Nẵng, không ngoài mục
đích tôn kính biểu tượng Từ Bi,
Cứu Khổ, Hạnh Nguyện Lắng Nghe
và Khát Vọng Bình An
của mọi người.
Mẹ
hiền Quan Âm không tạo ra dông bão, lụt lội, động đất, cuồng phong, bệnh dịch,
chiến tranh, chết chóc để loài người sợ hãi mà van vái cầu xin. Hình ảnh đẹp
của Ngài Bồ tát Quán Thế Âm có thể tìm thấy ngay trong cuộc sống này ở nơi các
bà mẹ hiền thương con vô bờ bến, không bao giờ giận hờn con, không bao giờ làm
khổ con mà chỉ biết lo cho con.
Bạn
ơi!
-
Bạn không thể phát khởi tâm Đại bi, tức lòng xót thương người nếu bạn không
lắng nghe những lời than van, kêu khổ của người khác.
-
Bạn không thể sẻ chia nếu như bạn không nghe được nỗi lòng thầm kín, nỗi oan ức
của người khác.
-
Bạn không thể an ủi người khác nếu bạn bịt kín lỗ tai lại.
-
Hãy để cho người khác trút hết nỗi niềm tâm sự và bạn là người lắng nghe. Chỉ
cần lắng nghe, lắng nghe một cách cảm thông và hiểu biết, thì nỗi khổ của người
đối diện đã vơi đi rất nhiều.
-
Ngày nay các nhà tâm lý trị liệu, các nhà cố vấn tâm lý chỉ là những người biết lắng nghe bạn trút hết nỗi
lòng, những ý nghĩ thầm kín mà bạn không biết tâm sự cùng ai.
-
Thật vĩ đại và nhiệm mầu thay hình ảnh của Phật Bà Quan Âm chỉ vì Ngài là bậc biết
lắng nghe.
Để
tìm hiểu thêm về sự tuyệt vời của hạnh nguyện lắng nghe, chúng ta kiểm điểm lại
xem trong quá khứ đã bao lần chúng ta im lặng để lắng nghe lời kêu than của
người khác? Phải chăng lúc đó chúng ta thấy mình thật bao dung cởi mở? Phải
chăng lúc đó cử chỉ và ngôn ngữ của chúng ta thật dịu dàng? Phải chăng lúc đó
trái tim chúng ta không dung chứa gì, ngoài sự cảm thông? Chúng ta đã hiển lộ
Phật tánh lúc nào mà chúng ta không hay. Chính vì thế mà bạn ơi, hãy là một
người biết lắng nghe!
Trong
những đêm khuya thanh vắng, hãy im lặng để lắng nghe:
- Tiếng
con cú đang gọi bạn.
-
Tiếng vạc kêu sương,
-
Tiếng con cò lặn lội bờ sông,
-
Tiếng côn trùng rên rỉ,
-
Tiếng dế nỉ non,
-
Tiếng cóc, nhái, ễnh ương âm vang một hợp tấu tuy đơn điệu đối với chúng ta,
nhưng vô cùng quyến rũ đối với loài lưỡng cư để mời gọi con mái,
-
Tiếng mưa rơi trên mái ngói hay trên những mái nhà dột nát,
-
Tiếng bà mẹ ru con,
-
Tiếng than van của những người nghèo khó trong những khu lao động,
-
Tiếng nhạc khích động vọng ra từ những phòng trà ca vũ của những người nhiều
tiền lắm của tìm thú vui hoặc của những người cô đơn phải tìm một nơi giải trí
cho vơi sầu muộn,
- Tiếng
cô ca sĩ đang cố ru hồn người bằng những cung bậc nỉ non, da diết,
-
Tiếng nhạc Rock, nhạc Pop, nhạc Rap xập xình,
-
Tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng hiền từ của ai đó đang ngồi tụng Kinh Cứu Khổ
giữa canh khuya để cho thấy tình thương của nhân loại vẫn còn đây,
-
Tiếng đại bác từ chiến trường vọng về cho thấy nỗi gian nan của người chiến sĩ,
-
Tiếng lá cây xào xạc theo ngọn gió đong đưa,
-
Tiếng sóng vỗ rì rào như tiếng lòng của biển,
-
Rồi bất thần tiếng xe cứu thương rú lên như muốn xé tan màn đêm u tịch để cảnh
báo cho mọi người đừng quên con người từng giây từng phút bị chi phối bởi luật
Sinh, Lão, Bệnh, Tử,
-
Và cả nhịp đập của trái tim mình.
Trong
không gian bao la và tịch mịch đó, tất cả đều bình đẳng, tự do hiển lộ trong thế
giới trùng trùng duyên khởi của Hoa Nghiêm. Lúc đó mọi tư tưởng đều vắng bặt,
chỉ còn sự quán chiếu, cảm nhận và cảm thông. Phải chăng trong thế giới này
chúng ta không cần chân lý mà cần sự cảm thông? Ít ra là trong giây phút này
đây. Lắng nghe là một sự cảm thông
kỳ diệu nhất.
-
Chư Phật trong hằng hà sa số thế giới đều lắng nghe lời diễn nói của chư Phật ở
thế giới khác.
-
Trong nhiều pháp hội có khi Đức Phật chỉ lắng nghe những vị Bồ tát rồi ấn
chứng.
-
Trong nhiều pháp hội, thính chúng chỉ lắng nghe Phật nói không thôi mà cũng đắc
quả.
-
Trong khi các vị thần chỉ biết ra oai và trừng phạt thì các Bồ tát, A la hán,
Bích chi Phật và hàng Đại sĩ trong vô lượng kiếp lại biết lắng nghe.
Trong bối cảnh đầy bạo lực và có nguy cơ hủy diệt của
thế giới ngày hôm nay, đạo Phật đang trở thành ngọn đuốc lương tri cho nhân
loại. Mặc dù đạo Phật chưa ảnh hưởng tới những thế lực chỉ muốn dùng sức mạnh
để giải quyết những vấn đề của con người, nhưng đạo Phật đang từ từ thấm dần
vào hàng ngũ trí thức khắp mọi nơi. Là Phật tử chúng ta hiểu rằng sinh mệnh của
đạo Phật nằm ở hai chữ từ bi. Từ bi là xót thương, là cứu độ, là không làm
người khác khổ, là cảm thông và biết lắng nghe.
Khi
mọi người không còn muốn nghe người khác nói nữa thì đó là lúc mà sự ghét bỏ,
nghi kỵ, hận thù, xa cách lớn dần lên. Không biết lắng nghe, hoặc không thèm
lắng nghe người khác cũng là một hình thái xây đắp hoặc bảo vệ một ngục tù tư
tưởng hay một “Tử cấm thành” của cái tôi.
Sự
vĩ đại của đạo Phật hay của Đức Phật là sự giải phóng trí tuệ và “viễn ly mọi
điên đảo, mộng tưởng” (Bát Nhã Tâm Kinh). Chính những điên đảo mộng
tưởng này đã đưa tới vọng động làm khổ mình và làm khổ nhân loại.
Bạn
ơi, trong bao nhiêu điều có thể nói về đạo Phật, chỉ xin bạn nhớ cho “Đạo Phật là đạo của những người biết lắng
nghe.”
Đào Văn Bình