Với nhiều tín đồ, chấp
nhận tính chính đáng của những truyền thống tín ngưỡng khác đặt ra một thử
thách nghiêm trọng. Để chấp nhận những
tôn giáo khác là chính đáng có thể dường như làm tổn hại tính nguyên vẹn niềm
tin tôn giáo của chính mình, vì nó đòi hỏi sự thu nạp những con đường tâm linh
khác nhau nhưng hiệu quả. Một Phật tử
thuần thành có thể cảm thấy rằng chấp nhận những con đường tâm linh khác như những
khuyến nghị giá trị về sự hiện hữu của những phương pháp khác hơn Đạo Phật đối
với việc đạt đến giác ngộ. Một tín đồ Hồi
Giáo có thể cảm thấy rằng chấp nhận những truyền thống khác như hợp lý sẽ đòi hỏi
việc từ bỏ niềm tin với sự liên hệ của Thượng Đế (hay Thánh Allah) đến Đấng
Tiên Tri Muhammad, như được ghi lại trong kinh Koran, đại diện cho sự liên hệ tối
hậu đến chân lý tối thượng. Cùng trong ý
tưởng ấy, một người Ki Tô hữu có thể cảm thấy rằng việc chấp nhận tính chính
đáng của những tôn giáo khác sẽ đưa đến sự tổn thương đức tin then chốt mà đấy
là chỉ qua Giê-Su Ki-Tô mới có con đường tìm thấy Thượng Đế. Thế nên, việc chạm trán với một tín ngưỡng
hoàn toàn khác biệt, mà người ta có thể không né tránh cũng không giải thích
thoái thác, sẽ đưa ra một thử thách nghiêm trọng đến những tiền đề sâu xa.
Điều
này phát sinh những câu hỏi quan trọng:
Một ý chí niềm tin đơn độc của con người có thể cùng tồn tại với sự chấp
nhận những tôn giáo khác như chính đáng hay không? Có phải tính đa nguyên tôn giáo là không thể
có đối với một người thuần thành ngoan đạo, người hiến dâng một cách mạnh mẽ và
sâu thẩm đến truyền thống tín ngưỡng của họ?
Tuy
thế không có một sự nổi bật của một tinh thần chân thành đa nguyên tôn giáo,
thì sẽ không có hy vọng cho việc phát triển một sự hòa hiệp căn cứ trên sự thấu
hiểu liên tôn chân thật.
Về
mặt lịch sử, các tôn giáo đã trãi qua một chiều dài lâu xa, ngay cả tiến hành những
cuộc chiến tranh, để trãi rộng lập trường của họ về những gì mà họ nghĩ là một
phương thức đúng đắn. Ngay cả trong chính
trong phe phái của họ, các tôn giáo đã trừng trị một cách vô cảm những giọng
nói không chính thống hay dị giáo mà truyền thống xem như phá hoại tính nguyên
vẹn của những chân lý không thể xâm phạm mà niềm tin đặc trưng đại diện. Triết lý tổng thể của hành vi truyền giáo – đấy
là, sự tập trung trên việc đem đến sự hoán đổi hành động của con người từ những
tôn giáo khác nhau hay không tín ngưỡng – được đặt nền tảng trong ý tưởng của
việc mang đến “một phương pháp chân chính” đến những ai mà đôi mắt của họ tiếp
tục đóng kín. Trong một ý nghĩa, người
ta có thể ngay cả nói rằng có một động cơ vị tha bên dưới sự thúc đẩy này để
thay đổi những người thuộc tôn giáo khác thành tôn giáo của mình.
Trưng
ra lịch sử này và đưa ra nhận thức về sự xung đột mà nhiều người có tôn giáo cảm
thấy giữa việc duy trì tính toàn vẹn niềm tin của chính họ và việc chấp nhận đa
nguyên, là sự nổi bật của tinh thần hòa hợp liên tôn chân thành căn cứ trên sự
thấu hiểu hổ tương là hoàn toàn có thể chứ?
Những học giả tôn giáo nói về ba cung cách mà trong ấy một tín đồ của một
truyền thống tín ngưỡng có thể liên hệ đến sự hiện hữu của những truyền thống
tín ngưỡng khác.
-
Một
là sự độc tôn thẳng thắn, một vị trí mà tôn giáo của ta là tôn giáo chân chính
duy nhất và điều ấy phủ nhận tính chính đáng của những truyền thống tôn giáo
khác, như nó được mặc định. Đây là một
quan điểm thường được những môn đệ trung thành khắn khích của những truyền thống
tôn giáo khác nhau thực hiện.
-
Một
vị thế khác là bao hàm, bởi đó người ta tiếp nhận một phần giá trị của những tôn
giáo khác nhưng cho rằng những giáo huấn của tôn giáo khác là thế nào ấy có chứa
đựng trong truyền thống tín ngưỡng của chính họ - một vị trí lịch sử đặc trưng
bởi một số người Ki Tô đáp ứng đến mối liên hệ Do Thái Giáo và Hồi Giáo đến cả
Do Thái Giáo và Ki Tô Giáo [1]. Mặc dù
bao dung hơn vị thế thứ nhất,nhưng quan điểm thứ hai này một cách căn bản gợi ý
sự dư thừa của những truyền thống tôn giáo khác.
-
Cuối
cùng, có chủ nghĩa đa nguyên, mà đấy là chấp nhận giá trị tất cả những truyền
thống tôn giáo.
Do
vậy, với những sự quan tâm này như nền tảng, làm thế nào một tín đồ của một
truyền thống tôn giáo đối phó với những câu hỏi về tính chính đáng của những
tôn giáo khác? Trên mức độ lý thuyết,
đây là một câu hỏi của việc làm thế nào để điều hòa hai khái niệm dường như đối
kháng với nhau có liên quan đến những truyền thống tôn giáo của thế giới. Chúng tôi thường mô tả đặc điểm hai khái niệm
này như “một chân lý, một tôn giáo” đối ngược với “nhiều chân lý, nhiều tôn
giáo.” Làm thế nào một người thuần thành
ngoan đạo hòa hiệp nhận thức “một chân lý, một tôn giáo” trong sự hiện hữu giáo
lý của chính người ấy để công nhận khái niệm “nhiều chân lý, nhiều tôn
giáo” mà hiện thực thế giới con người
không thể phủ nhận đòi hỏi?
Như
nhiều tín hữu tôn giáo cảm thấy, tôi đồng ý rằng một phiên bản nào đấy
của chủ
trương bao hàm – nguyên tắc “một chân lý, một tôn giáo” – hiện diện
trong trung
tâm của hầu hết những tôn giáo quan trọng của thế giới. Xa hơn thế, một
ý chí độc tôn truyền thống
tin tưởng của một người đòi hỏi nhận thức rằng niềm tin chọn lựa của họ
đại diện
cho giáo lý tín ngưỡng tối thượng. Thí dụ,
đối với tôi Đạo Phật là đệ nhất, nhưng điều này không có nghĩa là Phật
Giáo là
tuyệt nhất cho tất cả mọi người. Chắc chắn
là không. Đối với hàng triệu con người đồng
loại của tôi, những hình thức giáo lý hữu thần đại biểu cho lộ trình
tuyệt hảo
nhất. Do thế, trong phạm vi của cá nhân
hành giả tôn giáo, khái niệm “một chân lý, một tôn giáo” tiếp tục thích
đáng nhất. Điều này ban cho năng lực và sự tập trung nhất
niệm trong con đường tu tập của hành giả.
Đồng thời, điều quan yếu là hành giả tôn giáo không nuôi dưỡng một sự
vướng
mắc vị kỷ, cho mình là trung tâm, trong
niềm tin của mình.
Originally
published in the September 2010 issue of the Shambhala Sun
Tenzin Gyatso, the Fourteenth Dalai Lama, is the spiritual and temporal leader
of the Tibetan people and a recipient of the Nobel Peace Prize and the U.S.
Congressional Gold Medal
The
Challenge of Other Religions , excerpted from Toward a True Kinship of
Faiths: How the World's Religions Can Come Together, by His Holiness the Dalai Lama. © 2010
by His Holiness the Dalai Lama. Reprinted with permission from Doubleday
Religion
Phụ chú:
[1] Abrahamic coalition (Christians, Jews and Muslims) - liên
minh của Do Thái Giáo, Ki Tô Giáo, và Hồi Giáo: Đối với Liên Minh Abraham, linh
hồn (soul) là điều gì đấy “được tạo ra” bởi Thượng Đế là điều được ‘ban cho’
con người. Thượng Đế và Sa Tăng cả hai đều “tranh giành” linh hồn. Người ta có
thể “bán” linh hồn cho Sa Tăng và người ta có thể “cứu rỗi hay chuộc lại” linh
hồn của người ta. Thú vật mặc dù hoàn toàn ý thức và chia sẻ nhiều thuộc tính với
con người nhưng không “sở hữu” linh hồn. Ba tín ngưỡng trên ngay cả tranh luận
cho đến thời kỳ trung đại về vấn đề phụ nữ có linh hồn hay không! Hindu concept
of Self and Abrahamic concept of soul - http://veda.wikidot.com/self
Ba tín ngưỡng trên tuy nhiên vẫn không thống nhất tín lý với nhau, “một tôn
giáo lớn nữa cũng tôn thờ Thiên Chúa mà họ gọi là Đấng Allah. Đó là Đạo Hồi
(Islam) do Muhammad sáng lập vào năm A.D 622.Từ ngữ Islam trong tiếng Ả Rập có
nghĩa là “Tuân phục ý muốn của Thiên Chúa= (Submission to the will of God)
nhưng Đạo này khác xa Đạo Do Thái và các Nhánh KitôGíao nói trên về nhiều mặt.”
Ẩn
Tâm Thất ngày 26/03/2011
http://shambhalasun.com/index.php?option=com_content&task=view&id=3565&Itemid=0