Lịch sử Phật Giáo ở thế
giới phương Tây trở về giai đoạn trước kỷ nguyên Thiên Chúa. Đầu
tiên, có những sự giao lưu và ảnh hưởng tác động, điều này đã giúp
Phật Giáo môt sự quan tâm đối với thế giới nơi mà đạo Cơ Đốc đã sinh
và phát triển. Thứ hai, có những nhà Học giả nổi bật ở thế kỷ 19 và
20 đại diện cho Phật Giáo phương Tây xuyên qua các tác phẩm và dịch
phẩm về kinh văn Phật Giáo cùng với sự nghiên cứu của họ. Cuối cùng,
những sự trình bày xuyên tạc nào đó đối với Phật Giáo đã đeo đẳng trong
đầu óc của những người phương Tây cần nên tháo gỡ và có một sự giải
thích tích cực về những gì mà Phât Giáo đã cống hiến về việc trình bày
thế giới hiện đại của chúng ta.
Đức Phật đã sống ở Ấn Độ vào thế
kỷ thứ 6 B.C. Lịch sử buổi đầu và sự chạm trán giữa Đông và Tây đã
xảy ra ở thế kỷ thứ tư B.C khi Alexander xâm lược nước Ấn. Ông ta
không phải là một người lính bình thường. Như một môn đồ của
Aristotle, ông ta thấu hiểu sâu sắc về những giá trị văn hóa, và
trong cuộc viễn chinh đi cùng với một số lớn học giả và nghệ sĩ dành
cho những trao đổi văn hóa. Nó là nguyên nhân đòi hỏi chính đáng,
rằng sự hiểu biết văn hóa Ấn Độ mà giới trí thức và nghệ sĩ Hy Lạp này
đã đem về cho quốc gia của họ bao gồm một số hiểu biết về Phật Giáo.
Kết quả sự gặp gỡ giữa Đông và Tây, sự giao thiệp ngoại giao này đã
được thiết lập và duy trì giữa những nhà cầm quyền Hy Lạp với cung
điện Pataliputra, thủ đô Maurya Eprise.
Vào thế kỷ thứ 3 B.C, Đại đế
Phật Tử Asoka của Ấn Độ có ba sắc lệnh của ông ( bia đá 2, 5 và 13)
khắc vào đá và tiếp tục hiện còn, đã ghi lại sắc lệnh mà vua thành
lập một nội các cho lãnh vực Tôn giáo ( gọi là Dharma-mahamatra) để
truyền bá Phật Pháp đồng thời đẩy mạnh đời sống đạo đức và tôn giáo
cho mọi người, và thế là ông ta đã gởi những “Sứ Giả Trung Thành” đến
một vài lãnh thổ của Hy Lạp một cách thành công bao gồm nhiều quyền
lực hiện có của ông. Ông ta tuyên dương những sứ giả mà ông ta gửi đi
bằng tên Five Greek Kings ( Năm vị vua Hy Lạp). Họ đã được đồng nhất
hóa như Antiochus 2 của nước Syria (261-246 B.C), Ptolemy 2 của nước
Ai Cập (285-247 B.C), Antigonas Gonatas của nước Macedonia (276-246
B.C), Magas của nước Cyrene (300-258 B.C) và Alexander của nước
Epirus (272-258 B.C). Ở đó có thể là không có sự nghi ngờ chính đáng nào
về việc những sứ giả hoặc những nhà tryền giáo (duta) truyền bá sự
hiểu biết về Đạo Phật vào lãnh thổ Hy Lạp, nơi mà đạo Do Thái thực sự
đã có mặt.
Cách đây vài năm, một sắc lệnh
của Asoka với hai ngôn ngữ: Greek và Aramaic đã được khám phá tại
Afghanistan (điều hứng thú với dấu tích này là, Aramaic là ngôn ngữ
Cơ Đốc). Sắc lệnh khác gần đây chỉ là ngôn ngữ Greek, hầu như chưa
được công bố, đã được khám phá trong một vài quốc gia giống như trên.
Chủ đề của những sắc lệnh này nhiều hay ít cũng giống như các sắc
lệnh của Asoka về Dharma (Pháp- Dharmalipi) đã được phát hiện tại
India. Bây giờ điều này được hiểu rằng hầu hết tất cả sắc lệnh Ấn Độ
của Asoka đã được công bố trong tiếng Hy Lạp vì ưu tiên quyền lợi
của người nói tiếng Hy Lạp.
Những câu hỏi của vua Milinda,
bản kinh Phật Giáo nổi tiếng với ngôn ngữ Pali được viết khoảng chừng
thế kỷ đầu tiên (A.C), ghi lại một cuộc đối thoại đối với những vấn
đề học thuyết Phật Giáo quan trọng giữa một vị vua có tên là Milinda
và vị Thánh Tăng Phật Giáo Nagasena. Vị vua này được xem như vua
Manandros của Hy Lạp, người thống trị bao quát phía Bắc và Tây Ấn vào
thế kỷ đầu tiên trước Công nguyên.
Bộ Great Chronicle ( Biên niên
sử) của Sri Lanka ( Mahavamsa), đã được viết vào khoảng thế kỷ thứ 5
A.C, nhưng dựa trên những văn bản sớm hơn, cho rằng vào thế kỷ đầu
tiên B.C một phái đoàn Tăng sĩ từ thành phồ Hy Lạp của Alexanderia (
Yona-nagara-Alasanda) được hướng dẫn bởi Vua Trưởng Lão Tăng Thống
Dhamnarakhita, tham dự lễ nhậm chức của vua Stupa (Ruvanvali-saya)
tại Anurdhapura ở Sri Lanka. Mặc dù việc này đề cập đến Alexandra tại
Ai Cập hoặc Alexandria khác thì nó vẫn là một thành phố Ai Cập, nơi
mà một đoàn thể Phật Giáo quan trọng đã tồn tại. “Sự khoan dung của
Alexanderia ,(một trong số “ linh mục đầu tiên” nói) trong thập niên
cuối thế kỷ thứ 2 A.C, trong số người barbarians mà triết học bắt nguồn
từ Hy Lạp lại là những người tin tưởng giáo lý Đức Phật”.
Nhiều sự tham khảo rải rác giống
như sự trình bày này về việc tồn tại của Phật Giáo ở phương Tây
trong giai đoạn đầu tiên ấy. Ở đây không cần nghi ngờ gì nữa về sự
ảnh hưởng của Phật Giáo vào thế giới Hy Lạp vào buổi đầu Thiên Chúa.
Chính những tu viện Cơ Đốc dường như đã chịu ảnh hưởng bởi những tu
viện Phật Giáo. Những tu viện nổi tiếng là do những Phât Tử đầu tiên
xây dựng và tổ chức tu viện Tăng Sĩ. Nhưng, điều kỳ lạ, không có tài
liệu nào bàn đến Phật Giáo ở phương Tây vào những ngày đầu tiên đó
được tìm thấy hôm nay. Môt trong những ngạc nhiên là chúng nó bị tiêu
diệt bởi tự nhiên hay bị diệt vong bởi bàn tay nhỏ nhoi? Hay sự
cuồng tín Tôn giáo? Sự ảnh hưởng của Phật Giáo và Ấn Độ xuyên qua văn
hóa phương Tây đặc biệt trong giai đoạn những thế kỷ hình thành Cơ Đốc
giáo đã cung cấp cho những nghiên cứu sinh nghiêm chỉnh với nhiều chủ
đề về sự khảo sát.
Sau sự yên lặng của nhiều thế
kỷ, phương Tây bắt đầu nghe về Phật Giáo lần nữa, khoảng chừng thế kỷ
16. Những người truyền giáo Cơ Đốc đến từ châu Âu và hướng Đông gởi
về những bản báo cáo, điều mà có thể hiểu được đã là sự thành kiến và
lừa dối, đầy ắp những dự đoán và thiếu hiểu biết. Nhưng những đóng
góp thiết thực đã làm bởi một số người truyền đạo Cơ Đốc vào thế kỷ
19 và đầu thế kỷ 20 thì không thể quên được.
Việc nghiên cứu đúng đắn về Phật
Giáo ở Phương Tây vào buổi đầu thế kỷ 19. Nếu như cho rằng những gì
sau đó dường như không hơn một giọt nước, dồn tất cả những giá trị đó
lại, thế giới phương Tây hôm nay mắc nợ tuệ giác mà nó có đối với
Đức Phật và giáo lý của Ngài.
Sự đúc kết của thế kỷ thứ 19 đề
xuất trong học thuyết phương tây về Phật Giáo phải bắt đầu với Triết
gia Đức Schopenhauer (1788-1860), Người đã đánh thức sự hứng thú giữa
những Triết gia phương Tây và những học giả xuyên qua việc tham khảo
của ông ta về Phật Giáo, điều mà ông ta vô cùng say mê. Nhưng niềm
tin với sự khởi đầu cho việc nghiên cứu có hệ thống và khoa học về
Phật Giáo đáng kể là nhà Đông Phương học người Pháp Eugene Burnouf
(1801-1852) với tác phẩm xuất bản năm 1826, cho ra công trình đầu
tiên Essai Sur le Pali, kết hợp sự cọng tác với học giả người Đức
Lassen.Trong số những công trình khác đáng được tuyên dương L’
Introduction d I’ Histoire du Bouddhisme Indien (1844). Và những tác
phẩm dịch thuật nổi tiếng về kinh điển Đại Thừa bằng tiếng Sanskrit gọi
là Saddharma-Pundarika (1852). Trong số học trò xuất chúng của
Burnouf là nhà nghiên cứu người Đức Max Miller. Ông ta đã xem Burnouf
như người cha của ngành Phật Học phương Tây.
Công trình ban đầu bởi Bournouf
đã được tiếp tục tại Paris qua những nghiên cứu và xuất bản về những
kinh văn nguyên gốc và giải thích. Người làm việc cao nhất trong lãnh
vực này là Sylvain Levi (1863-1935), ông ta khám phá xuất bản những
bản kinh văn hiếm hoi của Phật Giáo Đại Thừa bằng tiếng Sanskrit với
sự chuyển ngữ của ông ta. Cũng như những lãnh vực mới về việc khảo
sát Triết học và lịch sử Phật giáo. Truyền thống Pháp đã được thiết
lập từ Burnouf và Levi hầu hết là thành công và tiếp tục cho đến hôm
nay bởi sự kế thừa của những môn đệ siêu xuất: Paul Demieville, Louis
Rebou, Jean Fillozat, Olivier Lacombe, Armand Minard, Andre Bareau
và đến những người khác, dù một vài người không phải là nhà chuyên
môn Phật Học.
Trong số học trò của Sylvain có
một người Bỉ, nhân vật nổi tiếng Louis de La Vallee Poussin, bao gồm
nhiều tác phẩm, sự chuyển dịch đánh dấu kỷ nguyên (1923-1931) về A Tỳ
Đạt Ma Câu Xá Luận của Thế Thân Bồ Tát, đã được chọn lựa như bộ sách
bách khoa, không chỉ thuộc về Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivada), mà
còn là môn Triết học tổng hợp Phật Giáo. Truyền thống La Vallee
Poussin tại Bỉ, tựu thể được xem xét như một phần học đường của Pháp,
đã tiếp tục một cách siêu xuất đến hôm nay bằng người học trò kế
thừa xứng đáng Etieme Lamotte với những đóng góp vĩ đại có giá trị và
đã được trân quí một cách phổ biến.
Sự quan tâm đối với ngành Phật
Học này bắt đầu ở Paris, dần dần truyền sang châu Âu. Tại Đan Mạch,
Victor Fausboll phát hành một tác phẩm về kinh Pháp Cú, bản kinh Phật
nổi tiếng vào năm 1855, kết hợp với một bản dịch và ghi chú bằng
tiếng Latin. Đây là kinh PaLi đầu tiên được xuất bản, đầy đủ các ngôn
ngữ châu Âu tại La Mã. Một Học giả người Đan Mạch khác là V.
Trenchner, ông ta bắt đầu công trình với The Critical Pali Dictionary
với một sự quyết tâm kinh khủng, vẫn trong công việc tái sản xuất.
Cơ quan chủ yếu của nó là Thủ đô Đan Mạch. Helmer Smith, nhà nghiên
cứu Pali trứ danh người Thụy Điển cũng đã dùng đến quyển Tự Điển này.
Tại Hòa Lan, H.Kern đã tái xuất
bản và dịch nhiều kinh văn Phật bằng tiếng Sanskrit và sách khảo sát
về Tôn Giáo Ấn của ông ta đã được xuất bản năm 1896, vẫn là sách
nghiên cứu có ích cho những nghiên cứu sinh Phật Giáo. Truyền thống
kế thừa của Hà Lan vẫn còn tiếp tục đến bây giờ bởi J.W.de Jong và
những người khác.
Tại Đức, ngoài những đóng góp vĩ
đại của Max Miffler, Hermann Oldenbergn, cả hai hoạt động tại Đức và
Anh, đã phát hành toàn bộ Luật Tạng thành năm tập (1879-1883), cộng
thêm sự xuất bản và chuyển ngữ tác phẩm Dipavamsa (1879). Newmann đã
dịch nhiều tác phẩm kinh điển sang tiếng Đức. Sự phát hành và dịch
thuật của Giger về Mahavamsa thì nổi tiếng, và cũng là công việc của
H.Von Glasenapp. Sự truyền thừa của người Đức vẫn tiếp nối đến hôm
nay bởi Waldschmidt, Bechert và nhiều người khác. Không biết Paul
Dahlke có phải là nngười kế thừa tích cực với sự truyền thừa Phật
Giáo tại đức và đã bị quên hay không? Nhà ông ta bây giờ là Buddhist
Temple ( chùa Phật Giáo) tại Berlin. Tác phẩm của Wintermitz tại Tiệp
Khắc đã có thể bao gồm taị các giảng đường Pháp.
Tại Ý, G. Tucci, với nhiều thập
niên, vẫn chứng tỏ sự đóng góp quan trọng bằng việc xuất bản những
kinh văn Sanskrit và Tibetan với sự dịch thuật và bên cạnh những
nghiên cứu chính của ông ta.
Tại Nga, Vasilieff, Minayeff,
Oldenburg và Stcherbatsky đã làm một sự phối hợp vĩ đại để đề xướng
việc nghiên cứu có khoa học đối với Phật Giáo.Cuốn The Bibliotheca
Buddhica Deries đã được tìm thấy bởi Oldenburgn vào năm 1897 đến bây
giờ đã phát hành hơn ba mươi bộ. Buddhist Logic-tác phẩm vô giá của
Stcherbatsky được phát hành nhiều đợt giống như thế. Vào năm 1960 một
bản dịch tiếng Nga về Kinh Pháp Cú đã được xuất bản.
Tại Hoa Kỳ, tác phẩm Harvard
Orientas Series đã được kế hoạch nhằm tạo nên sự hiểu biết hỗ tương
và thiện chí giữa Đông và Tây, vẫn còn phát hành một số lượng lớn từ
sau thế kỷ 19. Trong những năm đó, tác phẩm Buddhism In Translation
(1896) của Warren, Buddhist Legends (1921) của Burlingame và Buddha’s
Teaching của Chalmers đã được quan tâm như những công trình với mục
đích đóng góp cho việc phổ biến Phật Giáo tại phương Tây đáng được
tuyên dương. Việc phát hành cuốn Thanh Tịnh Đạo, tác phẩm nổi tiếng
của ngài Buddhaghosa (Phật Âm) đã được xuất bản nhiều lần về năm
1950. Ngoài ra, một sự đóng góp có giá trị với những nghiên cứu Phật
Học bằng tiếng Sanskrit đã được soạn sau đó với Prof. Edgerton thuộc
trường Đại học Yale cùng với những tác phẩm khác của ông: Buddhist
Hybrid Sanskrit Dictionary, Reader and Grammar, phát hành năm 1953.
Ngoài ra, England đã thể hiện
lại sự quan tâm cao nhất đối với Phật Giáo ở phương Tây vào năm 1964.
Hai biến cố xảy ra đã có một sự ứng dụng và ảnh hưởng sâu sắc sau
cùng đối với ngành nghiên cứu Phật học Pali tại châu Âu. Vào năm đó,
Robert Childer rời Sri Lanka cùng với bạn ông ta T.W. Rhys Davids
(1843-1922) về phương Tây, họ là thành phần công chức tại Sri Lanka
và học tiếng Pali tại đó. Họ có ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp và tính
siêu thoát của giáo pháp Đức Phật được cất giữ trong kinh văn Pali.
Khi trở về Anh quốc Childers sửa chữa và xuất bản tác phẩm nổi tiếng
của ông Dictionary of the Pali Language (1872-1875), nó vẫn là bản
nghiên cứu có giá trị đến bây giờ.
Sau tám năm ở Sri Lanka, Rhys
quay trở về England vào năm 1872, và bắt đầu làm việc với những nhà
Đông phương học khác tại châu Âu. Sự đóng lớn lao của ông ta thì
phong phú và đa dạng đối với những nghiên cứu Phật Giáo Pali, đã là
nền móng cho cơ sở Pali Text Society vào năm 1884. Mục đích của
Society là thể hiện sự ứng dụng đối với những nghiên cứu sinh mà có
sự dồi dào về kinh văn sớm nhất của Phật học. Với sự giúp đỡ và sự
cộng tác của vợ ông ta, một phụ nữ thông minh nổi bật và tài năng vô
cùng, sự đóng góp của bà ta chỉ là lần thứ hai với những gì mà chồng bà
ta làm. Rhys Davids đã kế thừa trực tiếp với những đóng góp cho công
trình Society này, với tài biết khai thác và kết hợp nhiều tài năng
rải tác trong các quốc gia tại Đông và Tây.
Nó không thể trong một vài từ để
làm hợp thức đối với công trình đồ sộ với kiệt tác Pali Text Society
trong khoảng thời gian gần trên một trăm năm. Công trình vĩ đại này
hầu hết đã tiếp tục đến ngày nay một cách thành công nhờ sinh lực của
chính nó và sự tận tâm của vị chủ nhiệm hiện thời, cô I.B. Homer.
Cám ơn society, bây giờ chúng ta có tất cả văn bản Pali tiêu biểu về
kinh điển Phật Giáo tại La Mã-tipitaka (Tam tạng Kinh điển). Tuy
nhiên vài kinh văn về A Tỳ Đạt Ma cần được điều chỉnh đầy đủ hơn.
Thêm nữa, nó cũng được tái bản chừng 60 tập, những chú giải Pali về
Tam tạng, bên cạnh một số khâu phù hợp với chủ đề khác, ngôn ngữ Anh có
chừng 58 tập thể hiện toàn bộ Tam tạng, và được kèm thêm Từ điển
Pali-English, English-Pali, và mục lục Tam tạng Pali.
Điều thú vị khi quan sát ở đây
là, trong khi các quốc gia ở lục địa châu Âu giống như Pháp và Bỉ
chuyên môn hóa về Đại Thừa thì Anh quốc lại chuyên môn hóa về Nguyên
Thủy. Do đó chỉ nhìn vào Bibiographie Bouddhique với 31 bộ, được xuất
bản tại Paris với khả năng của người Trưởng ban biên tập
Mademoiselle marcelle Lalou, mới biết được thành tích vĩ đại của công
việc phát hành trên cánh đồng nghiên cứu Phật Giáo tại phương Tây
trong vòng thế kỷ 19 và 20.
Sự hứng thú đối với hầu hết
những Học giả thuộc ngành Phật học là, đối với họ nó là một lãnh vực
mới về sự khảo cứu giống như lịch sử hoặc khảo cổ học, và không phải
là một Tôn giáo sống hay một cách sống. Với Rhys Davids, đặc biệt nó
không chỉ đơn giản là một phân khoa, mà còn là sự tác dụng sinh động.
Ông ta nói: “Phật Giáo hay không Phật Giáo, tôi đã từng nghiên cứu
từng hệ thống Tôn giáo lớn trên thế giới, và chẳng có một Tôn giáo
nào mà tôi tìm được bất cứ điều gì nổi bật, tốt đẹp và toàn diện hơn
Bát Chánh Đạo của Đức Phật. Tôi thỏa mãn định hướng của mình với con
đường đó.”
Và con đường này đã không được
biết đến một cách phổ biến ở phương Tây như hôm nay nếu không có sự
nỗ lực vị tha của những nhà nghiên cứu ( duy một vài người mà tôi có
thời gian tán dương tại đây). Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một
hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành
lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống. Vài người Cơ Đốc cho
rằng Triết học Phật Giáo nếu phối hợp với niềm tin Thiên Chúa thì tốt
hơn Triết học cổ điển của Plato và Aristotle, và tốt hơn thuyết hư
vô yếm thế nào đó. Sự hứng thú bao quát về Phật Giáo thì đang tăng
lên và nhiều hơn. Hàng trăm sách về Phật Học dành cho mọi tầng lớp được
viết bởi những người có khả năng chuyên môn và không chuyên môn đã
xuất hiện. Nhiều trung tâm và tổ chức quần chúng Phật Giáo, ngay cả
những Tịnh Xá và những ngôi Chùa đã có mặt trong nhiều quốc gia châu
Âu và Mỹ quốc. Những hoạt động Phật Giáo quần chúng tại Phương Tây đã
tăng lên một cách đáng kể vào năm 1956 khi Buddha-Jayanti, hơn 2500
năm kỷ niệm Phật Giáo, đã được diễn ra trong phương diện quốc tế.
Dẫu rằng sau gần một thế kỷ rưỡi
nghiên cứu Phật Giáo, nhưng phương Tây vẫn còn thịnh hành vài nhận
thức sai lầm cơ bản đã bị ảnh hưởng bởi những người cầm bút đầu tiên
với sự thiếu hiểu biết hay vì ác cảm nào đó. Chẳng hạn như có sự nhận
thức sai lệch rằng Phật Giáo là một Tôn giáo bi quan. Phật giáo
không bi quan mà cũng không lạc quan. Thay vào, nó là duy thực, vì
Phật Giáo chủ trương một quan niệm hiện thực đối với đời sống và thế
giới. Nó không ngụy tạo và ru ngủ chúng ta đi vào đời sống với một
thiên đường khờ khạo, hoặc khủng bố và hành hạ chúng ta với nỗi sợ
hãi ảo tưởng và những cảm giác tội lỗi. Phật Giáo chỉ cho chúng ta
một cách chính xác và khách quan những gì mà chúng ta là, và những gì
mà thế giới hiện tượng xung quanh chúng ta là, và chỉ cho chúng ta con
đường tự do, hòa bình, yên tĩnh và hạnh phúc hoàn hảo.
Đức Phật dạy Bốn chân lý cơ bản
gắn liền với đời sống chúng ta, sự hiện hữu của chúng ta. Đó là chân
lý được hiểu bằng Tứ Diệu Đế. Chân lý đầu tiên là cuộc sống của chúng
ta là vô thường và bị lệ thuộc với những xung đột, khổ đau và bất
như ý đối với thân và tâm. Chân lý thứ hai trình bày về nguyên nhân
của tất cả khổ đau, xung khắc và bất như ý là do tham ái cố hữu của
chúng ta, do tư tưởng sai lầm của chúng ta về bản ngã. Chân lý thứ ba
ngài tuyên bố rằng bằng cách từ bỏ những sự đối đãi, đau khổ thì có
thể đạt tới sự tự do, hài hòa và an ổn, đồng thời có thể nhập được
chân lý tuyệt đối (Niết bàn-Nirvana) ngay tại đây và bây giờ, trong
đời sống này. Cuối cùng, Chân lý thứ tư Ngài trình bày về phương
pháp, con đường để đạt tới trạng thái yên tĩnh xuyên qua những nỗ lực
của chính mình, xuyên qua đạo đức tâm linh và sự tôi luyện trí tuệ hoàn
hảo.
Điều này không có tính bi quan,
những con người trong các quốc gia Phật Giáo thì không bi quan yếm
thế, họ là những người lạc quan. Nghệ thuật và kiến trúc Phật Giáo
như những ngôi chùa chẳng bao giờ gây ấn tượng tối tăm và sầu não,
nhưng lại phát ra một sinh khí yên bình và thanh thoát. Thực vậy, căn
cứ vào Phật học, niềm vui (piti-hỷ) là một trong bảy phẩm chất cần
thiết cho sự giác ngộ. Nghệ thuât Phật Giáo như hội họa và điêu khắc,
Đức Phật luôn luôn được biểu thị cho sự thanh tịnh, hòa bình, trầm
tĩnh và từ bi. Không bao giờ nhuốm chút sầu khổ, trắc ẩn hoặc hình
phạt nào đó được thấy trên vẻ mặt của Ngài. Triết gia Đức Hermann
Keyserling nói rằng: “Phương Đông thành công với những gì phương Tây
chưa với tới được. Sự thể hiện có thể nhận ra sự nhiệm mầu ấy. Tôi
biết không có gì vĩ đại đối với thế giới này hơn hình ảnh của Đức Phật.”
Sự sáng tạo đối với nghệ thuật vô cùng quan trọng này, hình ảnh Phật
Đà, không thể được phát xuất từ một tôn giáo bi quan.
Lại có những quan niệm sai lầm
khác, giống như hầm mộ, rằng Phật Giáo là môt Tôn giáo Tự viện, một
tôn giáo dành cho những Thầy tu sống trong những tu viện cách biệt,
và không có ai hướng dẫn đời sống thế tục. Giáo lý của Đức Phật không
phải chủ đích duy nhất dành cho các Tăng sĩ.Thực vậy, nó dành cho
hết thảy mọi người. Ngài Vacchagotta một hôm hỏi Đức Phật một cách
thành thật rằng, có thiện nam thiện nữ nào có thể hướng dẫn người thế
tục hay không khi họ tuân theo lời dạy của Đức Phật một cách thành
công và đạt tới trạng thái tâm linh cao. Đức Phật tuyên bố một cách
xác thực rằng, không chỉ có một hay hai, không chỉ có một trăm hay
hai trăm hoặc năm trăm, nhưng nhiều hơn thế nữa. Đúng như hôm nay, nó
chỉ là một câu hỏi về sự nỗ lực chân thực.
Điều này lại có thể được hỏi
rằng, nếu một người bình thường tu tập giáo pháp và hướng dẫn đời
sống của người tại gia, tại sao Đức Phật lại thành lập Tăng Bảo? Tăng
Già là tạo cơ hội cho những ai tình nguyện hiến dâng đời sống của họ
không chỉ đối với tinh thần và sự phát triển trí tuệ của chính họ,
mà còn vì sự phục vụ cho tha nhân. Một người bình thường với một gia
đình không thể tận tụy toàn bộ đời sống của họ để phục vụ cho người
khác như một Tăng sĩ. Nó chứng tỏ rằng, sự từ bỏ đúng với nghĩa Phật
Giáo không phải là sự trốn tránh hèn nhát, nhưng là sự từ bỏ tất cả
đời sống ái dục và đam mê cá nhân, đối đầu với đời sống dũng cảm và con
đường cao quí hơn để có thể phục vụ nhân loại. Một vị Bồ Tát từ bỏ
mọi thứ, ngay cả Niết bàn của chính mình, với mục đích phục vụ chúng
sinh, không trốn tránh đời, vị ấy dành hết đời sống chính mình cho
tất cả chúng sinh.
Một số khác cho rằng, Phật Giáo
thì tuyệt vời, thế nhưng những tư tưởng cao siêu, quan điểm triết học
và luân lý tối thượng, vì thế đã lờ đi và quên lãng xã hội và phúc
lợi của con người. Đấy, laị là một nhận thức sai lầm tai haị! Đức
Phật đã quan hệ đối với hạnh phúc của con người. Với Ngài, hạnh phúc
thực sự không thể đạt được nếu không chủ đạo được một đời sống thuần
túy, nếu không dựa vào những nguyên lý đạo đức và tinh thần. Nhưng
ngài cũng hiểu rằng sự khó khăn về việc hướng dẫn đối với đời sống
trong vấn đề thiếu thiện chí và những hoàn cảnh xã hội. Dĩ nhiên Phật
Giáo không quan tâm đến chủ đề phúc lợi như một sự kết thúc đối với
chính nó. Nó là cách duy nhất để kết thúc, một sự kết thúc cao quí và
tối diệu hơn, nhưng nó có nghĩa vô cùng thiết yếu.
Đức Phật không chối bỏ đời sống
với bối cảnh xã hội và mô hình phúc lợi của chính nó. Ngài nhìn nó
một cách có qui tắc như là một tổng thể trong tất cả khía cạnh xã
hội, kinh tế và chính trị của chính nó. Giáo lý về đạo đức, tôn giáo
và triết học của Ngài thì rất rõ ràng ai cũng thấy. Nhưng có những
thời pháp phối hợp với ba câu hỏi, ví dụ, môt trong những thời pháp
mà Ngài nói rằng một người bình thường hướng dẫn đời sống thế tục bao
gồm bốn điều: Một là hạnh phúc, là người chủ quyền thu nhập, bảo đảm
kinh tế (atthi-sukha); hai là, thụ hưởng về sự giàu sang của chính
mình (bhoga-sukha); ba là, không có mắc nợ (anana-sukha) và bốn là vô
tội, thanh khiết, đạo đức và có đời sống tâm linh (anavajja-sukha). Ở
đây cần phải nhận ra rằng ba câu đầu thuộc về kinh tế và và vật chất. Ở
chỗ khác Đức Phật nói rằng một trong những nguyên nhân đồi bại và
tội lỗi là nghèo khó (daliddiya),và rằng thay vì cố gắng chặn đứng
chúng nó bằng những hình phạt, điều này là một phương pháp vô ích và
không thành công, những nhà cầm quyền nên tìm mọi cách tăng trưởng
tiêu chuẩn kinh tế cho mọi người. Dấu hiệu này rất là hiện đại, thực
tế. Đạo Phật, mặc dù đã hai mươi lăm thế kỷ xưa, nhưng rất mới mẻ. Nó
xuất hiện với những tư tưởng hợp lý, có khoa học. Phật giáo xuất
hiện tại Ấn Độ như một sức mạnh tinh thần đấu tranh với những bất
công xã hội, những giáo điều cuồng tín thoái hóa với những lễ nghi và
sự cúng tế thần linh. Nó bãi bỏ sự chuyên chế của hệ thống giai cấp
và lấy lại sự bình đẳng cho tất cả mọi người, giải phóng phụ nữ và
cho họ đầy đủ sự tự do tình thần.
Trong Phật Giáo không có những
giáo điều độc đoán hoặc những niềm tin chấp nhận sự mù quáng mà không
có câu hỏi. Nó đem đến cho mọi người những trách nhiệm và chân giá
trị đầy đủ. Đức Phật khuyên con người tự làm chủ chính mình. Theo
Phật Giáo, không ai cao hơn ai trong việc xét xử những vấn đề và số
kiếp của người khác. Điều này có nghĩa là, cuộc sống của chúng ta, xã
hội của chúng ta, thế giới của chúng ta, là những gì các bạn và tôi
tạo ra nó và không phải là ý muốn của ai đó mà chúng ta không biết
đến. Đức Phật dạy, con người tự nương tựa chính mình, không ai khác
có thể nương tựa.
Dựa trên những nguyên tắc về
trách nhiệm cá nhân, sự tự do về tư tưởng được hướng dẫn bởi Đức Phât
là chưa từng có ở bất kỳ nơi nào trong lịch sử Tôn giáo. Ngài khuyên
chúng ta ( Kalama-sutra) đừng chấp nhận bất cứ điều gì chỉ vì nó đã
trở thành truyền thống, hoặc được sắp đặp trong kinh điển Tôn giáo,
hoặc được truyền thừa từ các bậc thầy,hoặc bởi người khác chấp nhận.
Điều duy nhất khi chúng ta rõ thấu với chính mình rằng những điều nào
đó là tốt và có ích, rồi chúng ta nên chấp nhận chúng. Khi chúng ta
biết về chính mình rằng những điều nào đó và không có ích, chúng ta
nên từ bỏ nó.
Không chỉ đơn thuần tự do tư
tưởng, những lời dạy cởi mở của Đức Phật đang làm ngạc nhiên với
những nghiên cứu sinh khoa lịch sử Tôn giáo. Một lần Upali, một tín
đồ quan trọng của Ấn giáo, cầu xin Đức Phật chấp nhận ông ta như một
tín đồ của Ngài, Đức Phật khuyên ông ta nên tôn trọng và ủng hộ những
Đạo sư tôn giáo cũ của ông ta như Upali đã làm trước kia.
Vào thế kỷ thứ 3 B.C, Đại đế
Phật tử Asoka là những điển hình cao quí về tính khoan dung và sự
hiểu biết. Ông ta quý trọng và ủng hộ tất cả Tôn giáo trong Đế quốc
mênh mông của ông. Một trong những bia đá Sắc lệnh, Đại đế tuyên bố
rằng: Những kẻ không đáng tôn quí là kẻ có Tôn giáo và chê bai những
Tôn giáo của người khác. Cho nên ngoài việc hỗ trợ cho Tôn giáo của
chính mình phát triển ông ta còn phục vụ đối với các Tôn giáo khác…
Hãy lắng nghe và sẵn sàng lắng nghe những ai tự xưng mình có học
thuyết.
Tinh thần cởi mở tư tưởng, phóng
khoáng và sự thông cảm hiểu biết này là được bắt nguồn từ sự khởi
đầu của một trong nhiều lý tưởng mong ước của văn hóa và văn minh
Phật Giáo, và có thể được quan tâm như bài học quan trọng nhất mà thế
giới hôm nay có thể học từ Đức Phật. Mặc dù những quốc gia Phật Giáo
đã có thể đi đến chiến tranh vì chính trị hay những lý do khác,
nhưng không có sự điển hình về sự khủng bố hay đổ máu đối với mục
đích truyền bá Đạo Phật. Với thời gian lịch sử lâu dài trên hai nghìn
năm trăm năm, Phật Giáo truyền bá một cách hòa bình trên tất cả lục địa
Á Đông và có hơn sáu trăm triệu người theo Phật Giáo.
Nếu con người hiện đại không tin
vào một thượng đế cá nhân, nếu người ta không chấp nhận một vài giáo
điều về việc thành lập Tôn giáo không phù hợp với tinh thần khoáng
đạt của khoa học tân tiến, nó không đòi hỏi cần thiết một sự quan tâm
đến, hoặc tóm lại, những giá trị đạo đức và tinh thần cái tạo thành
tính chất Tôn giáo tự nó đã lạc đường. Thực tế của con người thời nay
là sự khát khao đời sống tâm linh Tôn giáo và gạt bỏ đi những giáo
điều tín ngưỡng và thần thoại độc đoán lỗi thời.
Có một sự tin tưởng thông thường
rằng sự phát triển vật chất và kỹ thuật sẽ không có triển vọng đối
với đời sống Tôn giáo và tinh thần. Điều này khó khăn để hiểu về sự
hữu ích như thế nào với cây đèn dầu hơn bóng đèn điện trong đời sống
Tôn giáo, hoặc xe bò, xe ngựa cần sản phẩm tinh thần nhiều hơn xe tự
động? Nếu Tôn giáo không thể sống trong một xã hội phát triển vật
chất và khoa học, trong môt xã hội thịnh vượng, nếu nó có thể phát
triển trong một xã hội nghèo khổ khốn cùng và ngu dốt, và rồi nhanh
chóng biến mất từ bề mặt trái đất này là việc tốt nhất cho nhân loại?
Những quan niệm cực kỳ hủ lậu và lỗi thời về sự bày tỏ đối với Tôn
giáo cần phải thay đổi. Với sự thay đổi thời gian, nhưng tinh thần
Tôn giáo, niềm tin và hiểu biết đúng, sẽ tồn tại và tiếp tục làm mới
con người.
Phật giáo là một tín ngưỡng và
cũng không phải là tín ngưỡng, nó là phương pháp sống. Rất ngắn gọn,
phương pháp nầy gọi là Tám Điều Chân Chánh, nó kết hợp tám loại hay
tám lĩnh vực, nghĩa là Hiểu Biết Đúng, Tư Duy Đúng, Nói Năng
Đúng,Hành Động Đúng, Đời Sống Đúng, Nỗ Lực Đúng, Suy Nghĩ Đúng, Thiền
Định Đúng. Nhằm mục đích phát triển ba phẩm chất cơ bản cần thiết về
sự hạnh phúc đích thực của con người, sự bình an hài hòa của tự
thân, và đối với việc nhận thức về Sự Thật Cuối Cùng.
Việc đầu tiên là có hạnh kiểm
đạo đức và tinh thần khiết. Nếu không có điều này thì không thề phát
triển được thiện tâm. Thứ hai, đầu óc trong sáng và tiến triển về
thiền định, điều này rất cần thiết cho nội tại, trong sự yên tĩnh,
hài hòa và cân bằng. Thứ ba, là sự phát triển về trí tuệ, cái này
không chỉ là khả năng nhìn thấy vạn vật khách quan như chúng nó đang
là, không chỉ là sự cảm nhận chân lý, nhưng chúng ta cũng đạt tới sự
giải thoát hoàn toàn từ những ham muốn căm thù và bạo lực của bản ngã
và sự dung nhiếp vô hạn tình yêu thương tất cả hiện hữu mà không còn
phân biệt. Sự đạt được trí tuệ và từ bi hoàn hảo này là mục đích đối
với phương pháp sống của Phật Giáo.
Điều này có thể được hỏi: Phật
Giáo trả lời như thế nào về sự xáo trộn của xã hội, sự xung đột của
xã hội? Câu trả lời của nó rất rõ ràng, như câu kinh Pháp Cú dạy, tất
cả sự bất an, tất cả sự xung đột và tất cả lo âu đều phát xuất từ
tâm. Sự xung đột hoặc chiến tranh không có gì ngoài sự biểu lộ cực
mạnh của tính tham lam, căm thù, ác ý, bạo lực, dốt nát và phát khởi
từ những người đàn ông. Sự xung đột xã hội không có gì ngoài sự xung
đôt cá nhân trên một bình diện lớn. Xã hội không tách rời cá nhân, và
sự đối lập của xã hội không tách khỏi sự đối lập cá nhân. Nếu có hòa
bình giữa những cá nhân, thì xã hội mới hòa bình. Cho nên để có được
nền hòa bình trên thế giới chúng ta cần phải sản xuất hòa bình giữa
những cá nhân, cung ứng cho họ sự an ninh xã hội, kinh tế đạo đức và
tinh thần. đây là câu trả lời của Phật Giáo. Nó rất rõ ràng, nhưng
rất khó khăn khi thực hiện. Trừ phi nó được hoàn thành, nếu không thì
chẳng có giá trị gì về sự thương lượng và thỏa hiệp ở trên trang giấy
để có thể sản xuất ra hòa bình thực sự trên thế giới.