Đức Phật, và một lá
thư ca ngợi Phật Pháp. Ngưỡng mộ phomg cách tự tại các vị Tăng thuộc sứ
bộ triều tiên, giai cấp cầm quyền Nhật Bản bắt đầu tìm hiểu về đạo phật.
Tuy nhiên, phải đến thời của Nữ hoàng Suiko, dưới ảnh hưởng của vị
Nhiếp chính vương Shotoku thánh đức thái từ, 592 đến 628, đạo Phật mới
chính thức được công nhận là quốc giáo. Triều đại của nữ hoàng Suiko
khuyến khích thể hiện giáo pháp của đức phật, dưới các hình thức nghệ
thuật, các công cuộc từ thiện và những hoạt động giáo dục.
Từ đó cho đến nửa đầu thế kỉ 12., các tông phái Phật giáp du nhập như
Du – già tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Chân Ngôn tông lần
lượt đóng những vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền văn hóa Nhật.
mặc dù trước đó, người Nhật đã có Thần đạo với cả hệ thống thần thánh
được thờ trong các ngôi đền, nhưng vì thiếu một lý thuyết chặt chẽ và
không đủ nền tảng tư tưởng đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người, Thần
đạo đã phải nhường bước cho sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo cả từ
trong triều đình cho đến ngoài dân chúng. Trong quá trình phát triển của
các tông phái Phật giáo, mặc dù mọi lý thuyết căn bản đều được du nhập
từ Trung Hoa, Phật giáo Nhật Bản dù thuộc tông giáo nào cũng mang đậm
phong cách Nhât Bản. Phật Giáo Nhật Bản có khuynh hướng thần bí và trông
chờ tha lực cụ thể là dựa vào sự cứu độ của Đức Phật A- di-đà.
Nửa sau thế kỷ thứ 12 ,một khuynh hướng phật giáo mới, mạnh mẽ kêu
gọi chứng ngộ bằng nỗ lực của bản thân hành giả , được du nhập vào đất
Nhật Bản. Đó là tư tưởng của Thiền Lâm Tế và Thiền Tào Động. Mặc dù được
ủng bởi các tướng quân và giai cấp võ sĩ đạo, thưc ra, Thiền Tông Nhật
Bản không thu hút nhiều Phật tử. Tuy vậy,Thiền lại có ảnh hưởng rất
lớn nối sóng của người Nhật cả về sau này. Không những thế, những tông
phái Phật giáo khác cũng ảnh hưởng của Phật giáo về nhiều mặt. Giữa thế
kỷ thứ 13 lại xuất hiện Nhật liên tông khởi xướng bởi ngài nhạt Liên,
một vị tăng có tư tưởng cực đoan, trước đó tu theo Thiên Thai tông, cho
rằng hành giả chỉ cần niệm Nam mô điệm Pháp Liên Hoa kinh cũng đủ chứng
ngộ. Mặc dù bị lưu đầy nhiều lần cho đến cuối đời, Nhật liên thu hút
được nhiều đệ tử và Nhật Liên trở nên rất có thế lực, và sau này, tổ
chức Soka gakkai ( Sáng tạo Giá trị) vẫn tiếp tục dòng tư tưởng đó.
Trong nhiều thế kỷ tiếp theo, Phật giáo bị cạnh tranh ráo riết bởi Nho
giáo và Thần đạo, có lúc Phật giáo bị đàn áp; tuy vậy về phương diện
tín ngưỡng, Phật giáo luôn giành được vị trí quan trọng hơn, trong khi
Nho giáo nổi bật về vấn đề đạo đức và Thần đạo có ưu thế với những
hoạt động nghi lễ nhà nước. Cuối thế kỷ 16, người Tây phương đến buôn
bán với người Nhật Bản, mang theo súng ống và Ki-tô giáo. Ban đầu các
giáo sĩ ki-tô giáo được tự do truyền đạo, nhưng khi giới cầm quyền Nhật
Bản nghi ngờ các giáo sĩ có tham vọng đất đai,việc cấm đạo sĩ Ki-tô đã
được thi hành rất nghiêm ngặt. Vào thế kỷ thứ 17, quyền lực của hoàng
gia rơi vào tay các tướng quân gọi là Mặc phủ, kéo đài hơn 200 năm. Đến
giữa thế kỷ thứ 19, người Nhật tìm cách phục hưng quyền lực của hoàng
gia để có thể huy động toàn bộ dân chúng chống lại áp lực của người
Phương tây, thời Minh Trị ra đời (1868-1912) Đây là giai đoan Phật giáo
bị lơ là để đề cao Thần đạo ,vì trong Thần đạo , hoang đé Nhật Bản được
coi là đại diện cho thần linh. Tuy nhiên, đến lúc ấy, Phật giáo đã gắn
chặt với lịch sử Nhật; do đó, Phật giáo vẫn có ảnh hưởng đến mọi sinh
hoạt của ngươi Nhật. Tóm lại, Phật giáo đã cùng với Thần đạo xây dựng
nên tính cách của con người Nhật Bản. Từ sau thời Minh Trị, Nhật Bản
trở thành một xã hội hoàn toàn thế tục. Trong lĩnh vực giáo dục học
sinh không có điều kiên tìm hiểu về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói
riêng. Ngày nay, du khách đến với Nhật có cảm tưởng Nhật không quan
tâm đến vấn đề tín ngưỡng, trừ khi họ trực tiếp đối mặt với cái chết của
người thân. Nhật Bản là quốc gia duy nhất chậm chân trong cuộc cách
mạng kỹ nghệ nhưng đã có mặt trên vũ đài quốc tế ngay từ đầu thế kỷ 20.
Nhật bản cũng là quốc gia duy nhất hứng chịu 2 quả bom nguyên tử trước
khi kết thúc trận chiến tranh Thế giới thứ hai. Giữa hai trận Thế
chiến,trong lúc các dân tộc châu Á tìm cách phục hưng các giá trị văn
hóa truyền thống thì Nhật Bản vẫn giữ vững được giá trị ấy và bước đầu
xuất cảng tư tưởng Phật giáo sang phương Tây.
2. Vào lúc 14 giờ 46 phút giờ Nhật Bản ngày 11 tháng
Ba năm 2011, đã xảy ra một cơn địa chấn 9 độ Richter với tâm chấn ở độ
sâu 32km dưới đáy biển ngoài khơi vùng Đông bắc Nhật Bản cách bờ Đông
bán đảo Oshika khoảng 72km. cơn địa chấn ban đầu chỉ kéo dài 6 phút.
Không đầy nửa tiếng sau, sóng thần với những lượn sóng cao đến hơn 10m
đổ ập vào hàng loạt những thành phố và thị xã ven biển. Chỉ trong thoáng
chốc, những thành phố mỹ lệ, nhưng khhu thương mại sầm uất, những vùng
công nghiệp hiện đại và cả những trường học… Biến thành những đống gạch
vụn rồi bị nước tràn đến đẩy sâu vào đất liền và kéo hàng loạt xác chết
ra bờ biển. Chỉ thoáng chốc, cả vùng rộng lớn vùng Đông bắc Nhật Bản
chìm trong tang tóc. Những con người mới vài phút trước còn quen với
tiện nghi hiện đại nhất của loài người, nếu sống sót, đã phải đối diện
với hoàn cảnh tồi tệ nhất, không điện không nước không hơi đốt, không
phương tiện thông tin liên lạc vận chuyển, mắc kẹt giữa đống đổ nát mà
xung quanh la liệt xác chết. Động đất còn làm rung chuyển nhà máy điện
nguyên tử hạt nhân Fukushima, có khả năng gây nên một thảm họa hạt nhân.
Ngay lập tức, hệ thống khắc phục thảm họa của Nhật Bản khởi động. Ưu
tiên một là cứu những người mắc kẹt trong những đống đổ nát, đưa người
dân còn lại đến nơi an toàn và cố gắng ngăn chặn sự rò rỉ phóng xạ có
thể phát ra từ các lò phản ứng nguyên tử. Lực lượng cứu hộ lao vào tất
cả những nơi nghi ngờ có người sống sót lùng sục tìm kiếm. Đồng thời,
những đơn vị phụ trách việc di tản lập tức tìm mọi cách đưa gần triệu
người ở các vùng lân cận ra khỏi nơi nguy hiểm. Và những hình ảnh vửa
thương tâm, vừa đang kính phục đã được truyền đi khắp thế giới cho thấy,
ngay trong thảm họa, kể cả trẻ em Nhật Bản cũng bình tĩnh tuân theo sự
chỉ dẫn của người có trách nhiệm để tìm đến chỗ an toàn. Hàng cứu trợ
cũng lập tức được vận chuyển đến vì ngay cả nước uống cũng thiếu ở nhưng
nơi tập trung dân. Thế giới đã ngạc nhiên khi thấy người dân Nhât Bản
chịu đựng thảm họa một cách kiên cường. Không tranh giành, không nôn
nóng, không lợi dụng cơ hội để hôi của, kiếm chác… Hình ảnh một em bé 9
tuổi mất cha mẹ vì động đất đưng xếp hàng chờ phát thực phẩm, sau khi
được một viên cảnh sát người Nhật gốc Việt phát hiện thương tình dành
cho em suất ăn của mình, thay vì ngấu nghiến ngay suất ăn ấy, lại đem
phần ăn nộp lại vào nơi phân phát thức ăn để mọi người cùng hưởng, đã
làm cho người lớn ở nhiều nơi cảm thấy xấu hổ. Ngay sau thảm họa, giữa
lúc người dân Nhật Bản vật vã khắc phục hậu quả của thiên tai thì thời
tiết trở nên khắc nghiệt, mưa tuyết rơi ngay trên đầu những người dân
đứng xếp hàng chờ được phát hàng cứu trợ. Vậy mà hình như không có ai có
động thái tranh giành . Nhìn lại lịch sử cận đại của Nhật Bản, người ta
thấy, từ một đất nước tam hoang vì chiến tranh, bị thua trận, lại bị
ảnh hưởng nặng nề về mọi mặt sau khi hứng chịu hai quả bom nguyên tử,
chỉ trong vòng 15 năm từ 1945 đến 1965, Nhật Bản đã vươn lên thành
cường quốc kinh tế thứ hai thế giới , thực sự đóng góp vào sự phát triển
và nền hòa bình ổn định của loài người. Nằm trên lửa vành đai Thái Bình
dương, trong lịch sử của mình, Nhật Bản vẫn hứng chịu vô số thiên tai
.trận động đất Đông bắc năm 2011 này tuy mang lại nhiều đổ vỡ hơn, nhưng
với tinh thần Nhật Bản những hậu quả của nó chắc chắn cũng sẽ được
Nhật khắc phục trong thời gian ngắn. Mặt khác, cả thế giới đã ngưỡng mộ
phong cách đương đầu thảm họa của người Nhật.
3. Tìm hiểu về văn hóa Nhật Bản, người ta nổi bật
phong cách Thiền trong lối sống Nhật.Thiền có mặt bàng bạc trong trà
đạo, hoa đạo, kiếm đạo, cung đạo; Thiền cũng hiện diện trong thi ca,
họa phẩm. Ngay cả trong tiểu thuyết đương đại, Nhật Bản có hơi hướng
Thiền. Không những thế, các nhà nghiên cứu còn tìm thấy phong vị Thiền
trong các hình thức giải trí như kịch Nô chẳng hạn. Phong vị thiền
trong nghệ thuật Nhật Bản nằm ở chỗ cái đẹp luôn được thể hiện như một
điều gì đó mong manh, phải thật giữ gìn chăm chút để có được, những
con người không sầu khổ khi cái đẹp đó tan biến. Phải chăng đó là ý
thức sâu sắc về tính vô thường của vạn pháp? cái đẹp cũng chỉ xuất
hiện khi có sự kết hợp hài hòa của mọi yếu tố cấu thành, nếu thiếu một
yếu tố hay có sự thiếu hài hòa của một yếu tố nào đó thì cũng không
tạo nên cái đẹp. Phải chăng đây là ý thức sâu sắc về tính vô ngã và
tính tương liên của vạn pháp? Người ta cũng để ý thấy rằng khi hai
người Nhật gặp nhau, họ luôn luôn cung kính chào nhau; người có địa vị
thấp cúi chào trước và cúi thấp hơn, nhưng người có địa vị cao không hề
nghênh ngang tiếp nhận sự cung kính của người dưới, mà cũng thể hiện
lòng tôn trọng của mình. Nghĩa là người Nhật luôn biết tôn trọng con
người vì họ hiểu mọi người đều bình đẳng, đều có Phật tính như nhau.
Những nhận xét đó cùng với điều minh họa sơ lược về lịch sử Phật giáo
Nhật Bản nêu ở trên có thể thuyết phục mọi người đồng tình với quan
điểm của một số nhà nghiên cứu, cho rằng tuy xã hội Nhật Bản mang
tính thế tục, nhưng thật ra tư tưởng Phật giáo đã ăn sâu bám rễ trong
tâm hồn người Nhật. Ngày nay, tuy Phật giáo không phải quốc giáo ở Nhật
Bản, nhưng trên 90% người Nhật tự nhận mình là người theo đạo Phật và
có tới hơn 150 tổ chức Phật giáo gây được thanh thế quốc tế như tổ
chức Soka Gakkai có hơn 12 triệu thành viên khắp thế giới; hoặc mới
đây; tổ chức Buddhist Summit conference so với Phật giáo Nhật Bản khởi
xướng đã quy tụ được hơn 33 tổ chức thành viên là những tổ chức Phật
giáo lớn của 33 quốc gia trên thế giới mà trong đó Phật giáo Việt Nam
là một trong những thành viên sáng lập. Điều quan trọng hơn, theo giáo
Brian Bocking, một chuyên gia về tôn giáo Nhật Bản tại College Cork
thuộc Irelan’s University thì người Nhật luôn tìm đến với Phật. Giáo mỗi
khi đối măt thảm họa, vì có nhiều cách giải thích của Phật giáo về thảm họa mà một trong những điều đó là cộng nghiệp.
Cho nên , khi đối diện thảm họa , người Nhật không quan tâm đến điều gì
cần được thực hiện. Vì đối với người Nhật, điều quan trọng là không
phải vì sao mà thảm họa lại xảy ra mà phải biết phản ứng với thảm họa bằng một đường lối tích cực, phải kiên trì và phải sẵn sàng đối đầu với mọi trở ngại. Người Nhật biết phát triển một thái độ mạnh mẽ, kể cả là vui trước trở ngại.
Những tổ chức Phật giáo chính của Nhật Bản luôn lưu ý người Nhật về
cách đối phó với thảm họa, trong đó, việc phản ứng bằng đường lối tích
cực được diễn dịch là giúp đỡ người thân và mọi người xung quanh.
4. Chắc chắn vẫn còn có nhiều yếu tố tâm lý khác góp phần tạo nên
tính cách kiên cường của người Nhật khi họ phải đương đầu với thảm họa.
Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể thấy rằng sự thấm nhuần tư tưởng Phật
giáo ở xã hội Nhật Bản là một trong những yếu tố quan trọng hình thành
tính cách ấy. Phật giáo vốn thấy sự vật luôn thay đổi nên người có học
Phật không bàng hoàng trước thay đổi. Phật giáo khẳng định mọi sự vật
không có tự tính nên người học Phật dễ dàng buông bỏ những nhu cầu của
mình. Phật giáo quan tâm đến sự hài hòa giữa con người với con người và
giữa con người với thiên nhiên nên người học Phật không có nhu cầu tranh
giành. Phật giáo có phân tích sâu về cộng nghiệp và biệt nghiệp nên khi
đứng trước thảm họa, người học Phật an tâm chấp nhận tác động của
nghiệp. Người Nhật chỉ biết đến Phật giáo vào thế kỷ thứ 6, nhưng Phật
giáo Nhật Bản đã uốn nắn cả nền văn hóa Nhật để hình thành những nhân
cách đáng quý của con người, luôn bình tĩnh trước thuận duyên cũng như
trong nghịch cảnh. Phải chăng cả dân tộc Nhật Bản đã đủ tỉnh táo trước
sức lay động của tám ngọn gió? Có lẽ người phật tử Việt Nam chúng ta nên
nhìn lại mình, trước nhất ở Châu Á, chỉ sau Ấn Độ, mà vẫn chưa đóng góp
được gì rõ rệt cho việc xây dựng một nhân cách Việt xứng đáng với thời
đại.
Tác Giả: NGUYỄN VĂN NHẬT | Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo 126