Ông lão nghe nói về lợi ích của
sự xuất gia nên sinh tâm vui mừng. Công đức ấy là vô lượng, không thể ví
dụ, cao hơn núi Tu-di, sâu hơn bể cả, rộng như hư không. Vì sao? Do vì
xuất gia mới chứng đắc quả vị Phật. Chư Phật nơi ba đời chưa từng có vị
nào không xuất gia mà thành Phật bao giờ.
Trưởng giả nghe vậy, tuy tuổi già, lòng
rất hoan hỷ, tìm đến chỗ Phật cầu xin xuất gia, gặp lúc Đức Phật đi du
hoá, nên trưởng giả đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất xin được hoá độ. Tôn giả
Xá-lợi-phất thấy trưởng giả quá già nên không tiếp nhận. Ông già lại
cầu xin xuất gia nơi năm trăm vị La-hán nhưng đều không được tiếp nhận.
Bấy giờ, trưởng giả ra về, rời khỏi tinh xá cất tiếng khóc lớn. Lúc ấy,
Đức Thế Tôn từ phía sau bước đến, đem lời khuyên bảo an ủi, khiến ông
vui mừng. Đức Phật liền bảo Tôn giả Mục-kiền-liên thu nạp làm đệ tử xuất
gia, truyền giao giới pháp. Do vì đám Tỳ-kheo trẻ tuổi mới tu học
thường hay đùa giỡn, nhiễu loạn tâm ông, nên ông liền trầm mình, muốn
kết liễu cuộc đời. Tôn giả Mục-kiền-liên thiền quán, liền dùng thần lực
vớt để trên bờ, nhân đó mới hỏi:
-Nguyên do gì khiến ông ra nông nỗi này?
Tôn-giả Mục-kiền-liên thầm nghĩ: “Người
này ngu độn, sân hận đến thế, nếu chẳng đem sự báo ứng khiếp sợ trong ba
đường ác để giáo hoá, thì làm sao ông ta chứng được đạo quả?” Khi ấy,
Tôn-giả Mục-kiền-liên sắp bay lên hư không, mới bảo Phước Tăng chuyên ý
nắm vào chéo áo của Tôn giả, sau đó, từ từ bay đến chỗ biển lớn, thấy
một thi hài phụ nữ vừa mới chết, thân hình đoan chánh, lại thấy một con
giòi từ miệng xác chết bò ra, rồi lại chui vào mũi, từ mắt chui ra, rồi
lại bò vào lỗ tai. Tôn-giả Mục-kiền-liên thấy vậy rồi bỏ đi. Đệ tử Phước
Tăng liền thưa:
-Bạch thầy, người chết này là ai?
Tôn giả Mục-kiền-liên nói:
-Người đàn bà này là vợ của một đại
thương gia trong thành Xá-vệ, ỷ lại nơi nhan sắc của mình không tu phước
nghiệp, cậy vào chỗ yêu quý, nuông chiều của người chồng thường gây tổn
hại cho mọi người. Hai vợ chồng đi qua vùng này bị chìm thuyền, cả hai
đều bỏ mạng, biển không dung nạp tử thi nên sóng xô giạt vào bờ. Thần
thức của người chồng vẫn còn yêu xác thân người vợ đẹp nên biến làm con
giòi ấy. Về sau sẽ bị đọa vào địa ngục các quả báo đau khổ.
Rồi thầy trò từ từ tiến về phía trước.
Lại thấy một người đàn bà loanh quanh bên chảo lớn đầy nước đang đun
sôi, tự cởi y phục nhảy vào trong chảo ấy, da thịt đều tan rã, nước đum
sôi thổi vọt văng ra ngoài, bỗng chốc xương lại thành người, tự vớt thịt
trong chảo mà ăn.
Phước Tăng bạch thầy:
-Đây là người gì?
Tôn-giả Mục-kiền-liên đáp:
-Có một vị Ưu-bà-tắc ở trong thành
Xá-vệ, kính tín Tam bảo, thỉnh chư Tăng đến cúng dường, luôn sắm đủ các
thứ món ăn ngon, sai tỳ nữ bưng dọn, tỳ nữ bưng đồ ăn cúng dường, mỗi
khi đi qua chỗ khuất người bèn lựa lấy món ngon ăn trước. Mọi người
trong nhà thấy hỏi, tỳ nữ đều chối và nói:
-Khi nào các Tỳ-kheo ăn xong, còn thừa cho tôi, tôi mới dắm ăn, nếu tôi có ăn trước, nguyện vào đời sau tự ăn lấy thịt mình.
Do nhân duyên này, trước thọ quả báo như hiện tại, còn quả báo chính thức sẽ thọ nhận trong cõi địa ngục.
Thầy trờ lại tiến dần về phía trước,
thấy một núi xương cao rộng đến bảy trăm do-tuần, ngăn che ánh sáng mặt
trời khiến vùng biển này trở nên tối tăm. Lúc ấy Tôn-giả Mục-liên trèo
lên đỉnh núi, thấy một bộ xương lớn đang di chuyển qua lại. Phước Tăng
hỏi:
-Bạch thầy đây là núi xương gi?
Tôn-giả Mục-liên nói:
-Ông muốn biết núi này chăng? Đây là xương nơi thân cũ của ông.
Phước Tăng nghe qua, toàn thân dựng chân lông, hoảng sợ toát mồ hôi, liền bạch Tôn gỉả:
-Ngày nay con nghe qua tâm chưa được tỏ ngộ, kính mong thầy thương xót, vì con giảng nói rõ về nhân duyên của núi xương này.
Tôn-giả Mục-liên nói:
-Sinh tử luân hồi không có giới hạn,
nghiệp báo thiện ác như bóng theo hình, như âm vang theo tiếng không sai
khác. Về đời quá khứ xa xưa, tại cõi Diêm-phù-đề này, có một làng nọ,
dân chúng đều giàu có. Lúc ấy, trong lành có một trưởng giả tên là Pháp
Tăng, tộc họ từ trước đến giờ thuần tín Tam bảo, dốc làm việc thiện,
lòng nhân từ ưa bố thí, không gây tổn hại đến sinh mạng của chúng sinh,
nên dân làng tôn làm bậc Lệnh trưởng. Trong khoảng mười năm đầu, dân
chúng được hưởng an lạc, thái bình, đều nhờ ân đức của Lệnh trưởng, dân
làng coi vị ấy như cha mẹ.
Một hôm, Lệnh trưởng nhân khi nhần rỗi
tập chơi cờ bạc, bạn ác được cơ hội gần gũi xu phu, giảng nói tà thuyết
nên Lệnh trưởng lần lần phế bỏ việc nước, việc dân. Chẳng bao lâu, tình
hình trong vùng bị bọn xấu ác thao túng, xử kiện không công minh, hình
phạt thì chẳng đúng pháp. Vào ngày nọ, người hầu cẩn tình bản án vô tội
của tù nhân, nhằm lúc Lệnh trưởng đánh bạc bị thua, không màng xem xét
tận tường, liền ra lệnh xử tử.
Hôm sau lại hỏi các quân lính phụ tá:
-Tội nhân hôm qua nay ở đâu?
Kẻ hầu cận đáp:
-Theo lịnh của Lệnh trưởng đã giết rồi.
Lệnh trưởng nghe qua liền ngã lăn ra đất chết giấc, kẻ hầu phải dùng nước rưới, giây lâu mới tỉnh dậy, rơi lệ nói:
-Tất cả những người thân, ngọc ngà châu
báu đều còn ở lại đây, chỉ riêng mình ta rơi vào địa ngục! Ngày nay, ta
xem thường việc sát nhân, phải biết là ta thuộc loài hàng thịt!
Suy nghĩ như vậy rồi, trong giây lát mạng chung, sinh làm loài cá Ma-kiệt ở trong biển cả, thân to lớn đến bảy trăm do-tuần.
Phật nói:
-Này Tôn-giả Mục-liên, như hàng quan lại
ỷ thế cậy quyền, hà híếp dân chúng giết hại vô số, khi mạng chung phần
nhiều đều sinh làm cá Ma-kiệt to lớn, bị loài trùng bám vào thân rúc rỉa
ăn thịt, nên thân hình bị gầy ốm, mỗi khi dựa vào núi, máu của loài
trùng nhỏ chảy ra làm nhơ cả biển, dòng nước nhuộm máu đỏ tươi lan rộng
đến trăm dặm. Giấc ngủ của loài cá ấy trải qua hàng trăm năm, sau khi
thức dậy nó uống nước, làn nước bị hút vào miệng các cuộn chảy như dòng
sông lớn. Nhằm lúc ấy có đoàn lái buôn bị cuốn về hướng miệng cá như
gió, cả đoàn thuyền sắp chui vào bụng cá, thì ngay trước đó, khách buôn
buồn khóc, nhất loạt đồng niệm: “Nam-mô Phật”. Cá nghe tiếng Phật liền
ngậm miệng, nước dừng chảy. Do diệu lực từ bi hộ niệm của Đức Phật, cả
đoàn thương khách đều được giải thoát nạn. Khi ấy, các Ma-kiệt nhịn khát
mà chết. Các thần biển là Dạ-xoa, La-sát tranh nhau kéo thân cá lên bờ.
Bấy giờ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên dẫn
đệ tử là Tỳ-kheo Phước Tăng du hành xong, trở về tinh xá, đầu sát mặt
đất đảnh lễ Phật, vô cùng hoan hỷ nên Phước Tăng hiểu rõ sự sinh tử, vô
thường, khổ, không, dứt sạch các kết sử hữu lậu, chứng quả A-la-hán.