Bồ
Tát Quán Thế Âm tiêu biểu cho đức tánh Đại Từ Bi cứu
khổ nạn trong Phật giáo, giống như đức mẹ Maria được
các tín đồ Thiên Chúa giáo sùng kính từ lâu nay. Cả
hai vị đều thị hiện thân nữ vì nữ giới tượng trưng
cho bà mẹ ban phát tình thương cho các con. Tuy 2 vị khác
nhau về tướng mạo nhưng cũng đồng tâm, đó là tâm
bằng cứu vớt.
Từ
sau ngày 30-4-1975, có rất nhiều câu chuyện về thuyền nhân
Việt Nam, khi vượt biển gập nạn được Bồ Tát Quán Thế
Âm cứu thoát, những câu chuyện này đã không ngớt lưu truyền
trong các giới Phật tử, khiến cho mọi người Việt Nam ngày
càng thêm tin tưởng nơi tình thương cao cả Ngài.
Trong
tinh thần phát huy tâm Đại Từ Bi cứu khổ cứu nạn của
Ngài, chúng tôi nghĩ rằng cần phải sớm biên soạn và phổ
biến 1 quyển sách trình bày đầy đủ các pháp môn mà Ngài
đã từng hành trì trong vô lượng kiếp về trước để giúp
cho các giới Phật tử Việt Nam từ đây có thêm phương tiện
tu tập.
Pháp
hệ Đại Bi Quán Thế Âm là pháp hệ được nhiều dân
tộc ở Á Châu ngưỡng mộ và tu học, như ở Tây Tạng, Trung
Quốc và Việt Nam, bởi lẽ nó dễ hành và dễ có kết quả.
Sở dĩ nó được phổ biến rộng rãi khắp nơi từ thành
thị cho đến thôn quê, từ kẻ dốt nát cho đến người trí
thức lá vì nó rất thích hợp với chúng sanh đời mạt pháp,
xa Phật thiếu pháp, luôn bị lôi cuốn và mê mờ trước nền
văn minh khoa học vật chất. Hơn nữa, pháp Quán Thế Âm chẳng
phải là 1 pháp chỉ biết nương tựa vào tự lực mà bỏ
tha lực như pháp Thiền, trái lại nó lúc nào cũng phối hợp
chặt chẽ 2 lực này để giúp chúng ta khắc phục được
ma lực của thất tình, lục dục từ lâu đã ngự trị trong
thân tâm mình. Vì thế, pháp Quán Thế Âm còn được
gọi là pháp Thiền Mật song tu, được triển khai rải rác
trong các kinh như Thủ Lăng Nghiêm, Diệu Pháp Liên Hoa, nhứt
là trong Tâm kinh Bát Nhã.
Tâm
kinh tuy hết sức cô động, chỉ gồm có 260 chữ nhưng lại
được đúc kết bằng câu đại thần chú, đại minh chú,
vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú : << YẾT ĐẾ,
YẾT ĐẾ, BA LA YẾT ĐẾ, BA LA TĂNG YẾT ĐẾ, BỒ ĐỀ TÁT
BÀ HA >> .
Câu
chú ngắn gọn này sẽ được triển khai đầy đủ để trở
thành Thần Chú Đại Bi Cứu khổ cứu nạn vô cùng linh hiển
mà bất cứ ai, nếu biết qua công năng vi diệu của nó, cũng
không thể lơ là mà không trì niệm.
Chúng
tôi mong rằng quyển sách bé nhỏ này sẽ đem lại nhiều lợi
lạc cho quý độc giả trong những năm còn lại của thế kỷ
20, nhưng đã và sẽ ghi nhận những biến cổ lịch sử lớn
nhứt có tính cách quyết định về tương lai của nhân loại.
Tuy
nhiên, trong tinh thần cầu tiến, chúng tôi hy vọng sẽ nhận
được những lời chỉ giáo của các bậc cao minh về những
sơ sót, khuyết điểm có thể tìm thấy trong quyển sách nhỏ
này. Khi có dịp, chúng tôi sẽ dựa theo đó để tu chỉnh
trong những lần tái bản về sau.
L.H.
Tịnh Huệ
Cần
khải.
Mùa
hè năm Nhâm Thân, 1992
HÀNH TRÌ PHÁP
QUÁN THẾ ÂM
Phần
A : DẪN NHẬP
I.
NHẬN ĐỊNH TỔNG QUÁT
Pháp
Quán Thế Âm là đệ nhứt tâm pháp vì nó là một sản phẩm
cao quý của lý tưởng Đại Thừa, được đức Phật đề
cập trong ba bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tâm Kinh Bát Nhã, và
Diệu Pháp Liên Hoa.
Pháp
Quán Thế Âm có tính cách phổ môn vì nó được phổ biến
khắp cửa nhà, khắp nơi chốn nhằm biến tối thành sáng,
biến sầu hận thành an vui, biến đau thương thành hạnh phúc.
Bồ
Tát Quán Thế Âm rất gần gũi với chúng ta. Tiêu biểu cho
đức tánh Đại Từ Bi, Ngài luôn cứu giúp chúng sanh đau khổ
và lâm nạn, không phân biệt nam nữ, tín ngưỡng, quốc gia,
dân tộc, dưới dạng một nữ Bồ Tát mà người đời thưòng
tôn xưng là Phật Bà Quán Âm Nam Hãi.
Tình
thương mà Ngài ban rãi cho muôn loài là một thứ tình thương
bất vụ lợi, vô tư giống như ngàn hoa cùng đua nở để
tô điểm cho cuộc đời được thêm tươi.
Trong
thế giới cuồng loạn ngày nay, mọi người đang tranh giành
quyền lợi, cấu xé lẫn nhau vì miếng cơm manh áo, vì bả
vinh hoa, phú quí nên đau khổ và phiền não là những hậu
quả đương nhiên, khó bề tránh khỏi.
Để
có thể giúp mọi người vượt qua khổ ách, chúng ta phải
phát huy tình thương bằng cách hành các pháp mà Bồ Tát Quán
Thế Âm đã thành tựu trong vô lượng kiếp về trước.
Những cảnh khổ đau càng diễn tả ra trên đời nhiều chừng
nào thì chúng ta càng phải ra sức công phu hành trì các pháp
ấy càng nhiều chừng nấy. Đời càng khổ, pháp Quán
Thế Âm mới càng có gía trị thiết thực. Đó là lý
mâu thuẫn, đối kháng luôn diễn bày trong cảnh giới nhị
nguyên, giữa hai thế lực, một của đau khổ phá hoại và
một của tình thương xây dựng. Đó cũng là nguyên nhân
chánh yếu chứng minh sự cần thiết của pháp Quán Thế Âm
trong thời kỳ mạt pháp, xa Phật thiếu pháp, nặng vật chất,
nhẹ tinh thần như thời kỳ mà chúng ta đang sống vào cuối
thế kỷ 20, sắp bước sang thế kỷ 21. Có thể nói mà
không sợ sai lầm, pháp Quán Thế Âm là pháp tu tập của thời
đại.
Vì
thế trước khi hành chúng ta phải tìm hiểu cho tường tận
pháp này, đúng theo một quy trình quen thuộc trong Phật pháp,
đó là quy trình TÍN, GIẢI, HẠNH, QUẢ.
Chúng
ta tin vào khả năng gia hộ của Bồ Tát, tin vào giá trị của
các pháp mà Ngài đã từng hành trì. Từ đó chúng ta
mới tìm hiểu sâu rộng, tìm biết cho đúng chánh pháp của
Ngài.
Thông
thường, hể nói đến pháp Quán Thế Âm thì người ta liền
liên tưởng đến pháp Phổ Môn, cứu khổ cứu nạn của Ngài
trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Pháp Phổ Môn nằm trong Phần
25, kinh Pháp Hoa, là pháp xiển dương công đức cứu độ của
Bồ Tát, bởi lẽ Quán Thế Âm là << ánh sáng thanh tịnh,
là mặt trời huệ soi sáng các chỗ tối tăm, hàng phục nạn
tai khói lửa, là tâm Đại Bi rưới mưa pháp cam lồ dứt trừ
phiền não xua đuổi hận thù nơi pháp đình cũng như nơi trận
địa >>. (Phẩm Phổ Môn, kinh Pháp Hoa).
Nhưng
thật ra, pháp Quán Thế Âm không phải đơn thuần chỉ có
pháp Phổ Môn, nó còn gồm có pháp tu Nhĩ căn viên thông trong
kinh Thủ Lăng Nghiêm, và pháp chiếu soi hay chiếu kiến ngủ
uẩn giai không trong Tâm kinh Bát Nhã.
Hai
pháp này rất quan trọng đối với những ai đang và sẽ tu
Phật vì chúng có khả năng giúp chúng ta bước vào cửa động
Thiếu Thất của Thiền Đông Độ để hòa nhập với bản
thể Chơn như thanh tịnh.
Không
hành hai pháp này, làm sao chúng ta có thể tỏ thấu được
pháp tánh vô sanh ? Tuy việc thể nhập Chơn Như chỉ là cái
bước đầu làm căn bản cho quá trình tu tập của chúng ta
để đi đến chứng đắc tam thân, tứ trí, ngũ nhãn, lục
thông, nhưng xét cho chùng bất cứ ai tu Phật mà không thể
nhập được Chơn Như, dù thể nhập từng phần, từng phần
cũng vậy, thì cũng như người đó không tu, không sửa, không
làm được điều gì có lợi cho người và cho mình.
II.
SỰ TÍCH CỦA BỒ TÁT QUAN THẾ ÂM :
Theo
kinh Thiên Thủ Thiên Nhản Quán Thế Âm Bồ Tát, quảng đại,
viên mãn, vô ngại đại bi tâm Đà la ni, được Samôn Bạc
Già Đạt ma (Bhagavaddharma) người Ấn dịch từ Phạn sang Hoa
ngữ, vào đầu thế kỷ thứ 7, sau Tây lịch, đời nhà Đường,
thì đức Phật Thích Ca khi ngự tại Đạo Tràng Bảo Trang
Nghiêm của Bồ Tát Quán Thế Âm, đã giới thiệu cho tự chúng
biết về sự tích và công hạnh của Bồ Tát Quán Thế Âm
qua việc hành trì thần chú Đại Bi mà Bồ Tát đã thọ nhận
trong vô lượng ức kiếp về trước nơi đức Phật Thiên
quang Vương Tịnh Trụ.
Lúc
được Phật Tịnh Trụ trao cho thần chú Đại Bi, Bồ Tát
vẫn còn ở đảng vị Sơ Địa. Vừa nghe xong thần chú,
Ngài liền chứng được đệ bát Địa. Vô cùng cảm
kích, Ngài vội vàng phát ra lời đại nguyện sau đây :
“Nếu
trong đời vị lai, con có thể đem lợi ích và an vui cho tất
cả chúng sanh với thần chú này thì xin khiến cho con được
1000 tay, 1000 mắt”. Phát nguyện xong, 1000 tay và 1000 mắt đều
hiện ra đủ nơi thân Ngài. Theo lời giải thích của
Phật thì mỗi tay tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong
cầu của chúng sanh. Mà chúng sanh luôn mong cầu và mong
cầu rất nhiều việc, do đó Bồ Tát mới nguyện cho có đủ
1000 tay để giúp đở chúng sanh.
Theo
kinh Bi Hoa, tiền thân của Bồ Tát là Thái tử BẤT HUYỀN,
có em ruột là Vương tử Ni Ma mà kinh Phật thường gọi là
Bồ Tát Đại Thế Chí, cả hai đều là con của vua Vô Tranh
Niệm. Về sau, Vua thị hiện làm 1 trong 16 Vương tử,
còn của một vị vua bỏ ngôi đi tu thành Phật, hiệu là Đại
Thông Trí Thắng Như Lai (Kinh Pháp Hoa, Phẩm 7 : Thí dụ về
Hóa Thành). Tất cả 16 vương tử đều thành Phật, vị
thứ 9 là Phật A Di Đà, phạn ngữ là Amitabha, dịch nghĩa
là Vô Lương Thọ, Vô Lượng Quang ở phương Tây, còn vị
thứ 16 là Phật Thích Ca Mâu Ni ở cõi Ta Bà.
Đức
Phật A Di Đà chính là vua Vô Tranh Niệm thường được tượng
thờ chung với hai vị nữ Bồ Tát, bên trái là Bồ Tát Quán
Thế Âm đứng trên lưng rồng, tay câm hồ lô và cành dương
liễu, bên phải là Bồ Tát Đại Thế Chí, một vị tiêu biểu
cho tâm Bi, một vị cho Đại Trí.
Dưới
con mắt của người đời, Bồ Tát Quán Thế Âm chính là Phật
Bà Quan Âm Nam Hải luôn thị hiện cứu giúp chúng sanh lâm
nạn và hóa độ để tiếp dẫn họ về cõi Cực lạc của
Phật A Di Đà lúc lâm chung. Ngài là vị cổ Phật được
biết dưới danh hiệu là CHÁNH PHÁP MINH NHƯ LAI.
Do
đâu mà ngày nay các chùa chiền lấy ngày 19 tháng 2 Âm lịch
làm ngày vía đản sanh của Bồ Tát Quán Thế Âm? Đây
là một sự tích bên Trung Hoa ở đời nhà Tùy (581-618) của
một vị Hòa Thượng, sanh nhằm ngày 19-2 ÂL. Sau khi tịch
diệt, nhục thân của vị Hòa thượng được hỏa táng.
Ngay lúc đó, tự nhiên hiện ra giữa hư không một thân người
vô cùng tốt đẹp khiến cho mọi người cho đó là hóa thân
cùa Bồ Tát Quán Thế Âm.
*
*
*
Phần
B : CÁC PHÁP TU CỦA
QUÁN
THẾ ÂM
I.
PHÁP TU NHĨ CĂN VIÊN THÔNG
Sau
khi đã ý thức được điều kiện mở gút các căn, ông Anan,
nhân vật chánh đối thoại với đức Phật trong kinh Thủ
Lăng Nghiêm, mới thỉnh cầu Ngài chỉ dạy thêm cho ông biết
phải tu căn nào mới được viên thông ?
Đức
Phật bèn bảo 25 vị thánh trong pháp hội trần thuật lại
pháp tu nào đã giúp họ chứng đắc đạo qủa.
Lần
lượt 25 vị A La hán và Bồ Tát đứng lên trình bày pháp
tu chứng của mình. Trước tiên có 6 vị giải bày rằng
nhờ tu 6 trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp mà được
thành đạo. Kế đó có 5 vị cho biết nhờ tu nhãn, tỷ,
thiệt, thân, ý căn mà được viên thông. Tiếp theo có
6 vị tu lục thức chứng được viên thông. Còn có 7
vị khác nhờ tu 7 đại mà cũng chứng được đạo quả.
Vị thứ 25 cũng là Bồ Tát Quán Thế Âm trần thuật trước
Phật và pháp hội pháp VĂN, TỰ, TU (nghe, suy tư và tu tập)
của Ngài.
Ngài
nói khi vừa nghe âm thanh, Ngài liền xoay cái nghe đó trở vào
Chơn tâm, nhờ đó thể nhập được Chơn tâm thanh tịnh, chứng
được hai quả thù thắng, đó là trên chỉ hiệp với đức
tánh Từ độ của chúng sanh. Ngoài ra Ngài còn hiện ra
32 ứng hóa thân hộ độ chúng sanh khiến cho họ được 14
món vô úy và 4 món vô tác vi diệu, khó thể nghỉ bàn.
Sau
khi 25 vị A La Hán và Bồ Tát trình bày xong, Phật bảo Bồ
Tát Văn Thù Sư Lợi hãy chọn lựa một pháp môn nào trong
số 25 pháp tu chứng của các vị A La Hán và Bồ Tát, có khả
năng giúp cho ông A nan và các chúng sanh đời sau để thành
đạo vô thượng Bồ Đề.
Bồ
Tát Văn Thù nói rằng pháp Đại Thừa vốn có nhiều, pháp
nào cũng có thể giúp đạt kết quả tốt, tuy rằng đối
với người tu sơ cơ thì thấy dường như có pháp dễ, có
pháp khó.
Ngài
nhận định rằng trong cõi Ta Bà, Phật đã dùng lời nói để
thuyết pháp, còn chúng sanh thì dùng nghe đễ lãnh hội, do
đó cũng nên dùng pháp tu nhĩ căn để tu chứng tam muội.
Bồ Tát Văn Thù liền xưng tán nhĩ căn vì nhĩ căn thông cùng
khắp và có 3 đức tánh viên, thông và thường hơn hẳn các
căn khác. Viên là tròn, giúp mình nghe được âm thanh
khắp 10 phương, thông là không ngăn ngại vì mình có thể
nghe cách vách, nghe được tiếng xa, tiếng gần thường vì
tánh nghe vẫn hoạt động dù mình đang hôn mê hay đã chết.
Bồ
Tát Văn Thù cũng không quên tán thán công đức của Bồ Tát
Quán Thế Âm vì Bồ Tát đã chứng được tánh nghe nhiệm
mầu, ứng hợp với mọi hoàn cảnh nhưng vẫn không rời chơn
tâm thanh tịnh.
Dưới
đây là bản văn pháp tu nhĩ căn viên thông trích từ bộ kinh
Thủ Lăng Nghiêm.
1.
PHÁP TU NHĨ CĂN VIÊN THÔNG
Pháp
này gồm có 3 giai đoạn sau đây :
Giai
đoạn 1: Sở ư văn trung, nhập lưu vong sở, sở nhập
kỷ tịch, động tịnh nhị tướng, liễu nhiên bất sanh.
Tạm
dịch : Trước tiên trong chỗ nghe, liền đưa những gì
mình nghe nhập vào tánh nghe (chơn tâm), nhờ vậy mà quên đi
những gì đã nghe. Khi chỗ nhập đã yên ỗn thì hai tướng
động tịnh rốt ráo không còn nữa.
Giai
đoạn 2: Như thị tiệm tăng, văn, sở văn tận,
tận văn bất trụ, giác, sở, giác không, không giác tịch
viên.
Tạm
dịch : Như thế cứ tăng dần, cái nghe và cái bị nghe
đều đứt. Nhưng không trụ ở chỗ hết nghe. Cái
biết rằng mình không trụ như thế và cái bị biết (chính
là sự việc mình không trụ ở chỗ hết nghe) cũng không.
Cuối cùng cái biết “tướng không” ấy được tăng trưởng
đến mức độ tròn đầy, vắng lặng.
Giai
đoạn 3: Không, sở Không diệt, sanh diệt dĩ diệt, tịch
diệt hiện tiền.
Tạm
dịch : Cái biết tướng không và cái tướng Không là
cái bị biết, cả hai cũng dứt luôn. Đến đây cãnh
giới sanh diệt, đối kháng hoàn toàn mất, chỉ còn trạng
thái tịch diệt, vắng lặng tuyệt đối mà thôi.
Cả
ba giai đoạn trên đây đều nhằm tạo cái “không” trong
đầu của hành giả. Giai đoạn 1 là không nghe, giai đoạn
2 là không biết, giai đoạn 3 là không cái không biết tức
là cái không biết cũng không luôn.
Nếu
chúng ta chấp văn tự thì chúng ta liền rơi vào lối suy diễn
của Nhị Thừa vốn chấp Không: không nghe, không biết, không
cái không biết. Thật vậy, Nhị Thừa chủ trương không
nghe, không biết vì họ muốn dứt bặt thọ và tưởng để
từ đó có thể đi vào cái không, tuyệt đối vắng lặng.
Chúng
ta thử phân tích từng giai đoạn một như sau.
Trong
giai đoạn 1, hành giả đưa cái gì đã nhe nhập vào bản thể
thanh tịnh của Chơn tâm, cốt đễ quên cái đã nghe.
Nhập được yên ổn rồi thì 2 tướng động, tịnh không
sanh. Động là nghe, tịnh là không nghe. 2 tướng
này cũng chi là 2 tướng đối đãi về mặt văn tự, chớ
thật ra không có ý nghĩa gì trong vấn đề thể hiện trạng
thái vắng lặng tuyệt đối, bởi lẽ trong giai đoạn 2, hành
giã còn phải lo dứt trừ cái biết, mà cái biết tức là
tưởng động.
Mục
đích của giai đoạn 1 là nhằm làm bặt cái khả năng nghe
âm thanh của lỗ tai, y hệt như nhét bông gòn hay bịt lỗ
tai vậy.
Trong
giai đoạn 2, hành giả không còn nghe gì nữa, nhưng còn biết,
biết rằng mình đã hết nghe. Cái biết này xuất phát
từ ý thức, cũng phải dứt luôn. Dứt bằng cách nào
?
Phải
chăng bằng cách đè bẹp tư tưởng biết, giống như người
ta lấy đá đè cỏ. Tư tưởng biết sẽ tạm thời chấm
dứt, nhưng sau đó sẽ tiếp tục xẹt ra trong đầu, vì tư
tưởng là dòng thác từ nguồn đổ xuống làm sao chận được
?
Vẫn
biết rằng hàng Nhị Thừa có thể làm tê liệt 6 thức, từ
nhãn thức cho đến ý thức nhưng họ chỉ có thể tạm thời
làm được công việc vô bổ này mà thôi. Do đó câu
“không giác tịch viên”, hoàn toàn không đúng với chơn
lý.
Đến
giai đoạn 3, hành giả phải dứt bặt hết mọi tư tưởng
như tư tưởng biết mình không còn nghe nữa, tư tưởng biết
mình đang ở trong trạng thái trống không. Dứt bặt kiểu
này là dứt bặt mọi cảm thọ liên quan đến cái nghe, dứt
bặt tư tưởng biết mình hết nghe, biết đầu mình đang rỗng
không.
Câu
“không, sở không diệt” được ghi trong giai đoạn 3 thật
hết sức khó hiểu. Vì sao ? Bởi lẽ nó quá vắn
tắt, khiến cho chúng ta phân vân về ý nghĩa của chữ không.
Ở trên đả đề cập đến “ không giác” là cái biết
mình đã không còn nghe nữa, nay lại nói đến chữ Không.
Phải chăng nó hàm ý rằng hành giả biết mình đang ở trong
trạng thái rỗng không. Đây là cái năng biết, còn trạng
thái rỗng không là cái bị biết mà kinh gọi là sở không.
Còn phân biệt năng, sở tức là còn trong vòng đối đãi.
Vì thế kinh dạy phải diệt phải dứt trừ cái tâm phân biệt
này mới có thể đạt được trạng thái tịch diệt.
Trạng
thái tịch diệt là như thế nào ?
Theo
phương pháp này thì hành giả phải ở trong trạng thái không
còn nghe, không còn biết gì hết, thậm chí không biết mình
có còn thở nữa hay không ? Đó là trạng thái tịch diệt
của người hành pháp Thiền DIỆT TẬN ĐỊNH, hoàn toàn vô
tri, vô giác, như gỗ đá.
Xét
cho chung, pháp tu nhĩ căn viên thông như được trích trên đây
không khác gì pháp Thiền Diệt Tận Định.
Như
thế thì pháp tu này có tánh không thiết thực, khó thực hành
đối với người đời, vì người đời trong ngày lúc nào
cũng nghe đủ thứ âm thanh, từ những lời chửi mắng, chê
trách, gièm pha đến những lời nịnh hót, tâng bốc, ngợi
khen. Không lẽ khi mới vừa nghe một tiếng nói nặng
của người láng giềng, mình vội chạy vào phòng riêng để
thực hành pháp tu nhĩ căn hay sao ?
Chỉ
có những đạo sĩ, các hàng Nhị Thừa, sống cô đơn, xa lánh
cuộc đời, nơi rừng sâu, núi thẳm, mới có thể hành pháp
Thiền Diệt tận định, nói cách khác, hành pháp tu nhĩ căn
viên thông như trên đã trình bày. Chúng ta nhớ lại trường
hợp ông Xá Lợi Phất đang nhập Diệt Tận định dưới gốc
cây trong rừng bị ông Duy Ma Cật chỉnh một phen mà không
biết cách nào để đối đáp.
Nhiều
nhà tu hành gọi pháp tu nhĩ căn viên thông là đại định
hay tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Gọi như thế có phần nào không
đúng, bởi lẽ Thủ Lăng Nghiêm tượng trưng cho trí huệ Phật,
do đó khi đã nhập tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì không có
pháp chi mà hành giả không liễu ngộ. Đằng này, trong
tiến trình nhập Diệt tận định với pháp nhĩ căn viên thông,
hành giã hoàn toàn không biết gì nữa hết, thì làm sao gọi
là liễu ngộ các pháp. Biết với tâm vô trụ mới gọi
là liễu ngộ, là trí huệ.
Người
tu Phật Thừa luôn luôn niệm rằng hề mang thân tướng nào
thì phải sống và tiếp xúc với cảnh giới thân tướng đó,
nghĩa là không lìa cảnh giới nhộn nhịp của người đời,
vì nếu, lìa thì không thể nào biết các pháp để rồi, sử
dụng chúng một cách vô ngại.
Với
quan niệm trên, chúng ta phải sống với đời, sử dụng nhĩ
căn của mình để nghe trọn vẹn mọi thứ âm thanh ở trên
đời, nghe nhưng không để bị nhiễm, bị lôi cuốn, vì nếu
để bị ngoại cảnh lôi cuốn thì tâm mình sẽ mê mờ, làm
sao biết được thực tướng của các pháp, làm sao nhập được
bản thể chơn như ?
Vì
thế Chân sư của chúng tôi gọi pháp tu nhĩ căn viên thông
với cái tên mới cho phù hợp với thời đại ngày nay.
Đó là pháp nghe mà như không nghe, mà là nghe như thật, còn
gọi là pháp lắng nghe, lắng nhìn vô sở thọ.
Pháp
này không khác pháp chiếu Kiến trong Tâm kinh, vì chiếu kiến
hay chiếu soi của cặp mắt là thấy, nhìn, chiếu, soi của
lỗ tai là nghe.
2.
PHÁP LẮNG NGHE, LẮNG NHÌN VÔ SỞ THỌ.
Trong
phần trình bày trên đây, chúng tôi chỉ đề cập đến pháp
lắng nghe vì các sự thấy, nghe, hay, biết của mình đều
là những cảm thọ của lục căn có cùng một tánh chất.
Thật vậy, chúng ta thọ vui, thọ khổ, thọ không vui không
khổ, chớ không có cách cảm thọ nào khác hơn.
Do
đó, chúng ta chỉ cần nắm vững pháp lắng nghe là đủ rồi.
Hơn nữa lỗ tai có tới 1,200 công đức, trội hơn rất nhiều
công đức của mắt chỉ có 800 mà thôi. Chúng ta nên
nhớ rằng cứu cánh tu tập là hòa nhập Phật tánh, Chơn Như
tâm, pháp giới tánh. Tuy được gọi dưới nhiều tên
khác nhau, nhưng tất cả những danh từ ấy đều có cùng một
nghĩa. Hòa nhập Phật tính tức là hòa nhập trọn vẹn
4 đặc tánh: Thường hằng, Năng Sanh, Chiếu Soi và Thanh tịnh
hay tỏ thấu được 3 mặt: Thể, Tướng, Dụng của Phật
tánh.
Nếu
hòa nhập đầy đủ 4 đặc tánh thì gọi là đắc qủa Vô
thượng Bồ Đề, Hòa nhập chưa đủ thì gọi là từng phần
giác. Đó là trường hợp của các bậc A La hán, của
các vị Tam Hiền chỉ đạt được một đặc tánh Thanh tịnh
trong 4 đặc tánh nói trên, nên chưa phát huy được hết Tướng
và Dụng của Phật tánh.
Chúng
ta cũng nên nhớ rằng xưa nay tất cả động tác như suy nghĩ,
tính, toán, lý luận, phê phán, phân biệt v.v… của chúng
ta đều do tâm chủ động cả. Mà cái tâm ấy vốn vô
tướng, không thể lấy phàm nhân mà thấy được, lấy ý
thức mà biết được. Tâm vốn vô tướng nên không biến
đổi, không chết sống, không thọ dụng.
Thí
dụ như ý khởi niệm ăn, nhưng ý không ăn, chỉ có sắc thân
này ăn. Tâm khởi phát ý nghĩ có lấy, có bỏ nhưng thật
ra tâm chẳng có lấy chẳng có bỏ gì cả. Sở dĩ tâm
phân biệt có lấy, có bỏ là vì tâm lầm chấp, là vì tâm
còn mê vọng. Tâm mê vọng được gọi là vọng tâm,
tâm không lầm chấp là chơn tâm.
Như
vậy, chơn hay vọng cũng chỉ là tên gọi cái vô tướng đó
mà thôi, giống như ta gọi người uống rượu say là người
say rượu, khi người đó hết say thì gọi là người tỉnh
rượu. Say hay tỉnh rượu cũng chỉ là cách gọi một
người mà thôi.
Đề
cập đến vấn đề thọ tụng, chúng ta thấy rằng tâm vô
tướng không cảm thọ bất cứ điều gì. Vì tâm lầm
chấp nên cho rằng cảnh hát xướng là cảnh vui, cảnh tù
tội là cảnh khổ, nhưng trên thực tế, tâm không bao giờ
cảm thọ.
Đối
với các pháp ngoài sắc thân như núi sông, rừng rậm, đồng
cỏ, tinh tú, mặt trời, mặt trăng, tất cả đều biến hiện,
sanh diệt liên tục, nhưng cái vô tướng chỉ đạo không bao
giờ sanh diệt, giống như tâm sai khiến xác thân làm đủ
thứ việc nhưng bổn tâm vẫn hằng hữu.
Vậy
thì cái vô tướng chỉ đạo sơn hải đại địa và cái vô
tướng chi đạo xác thân này đều đồng một tánh năng sanh.
Như thế trong cái tướng hư vọng luôn có cái vô tướng.
Tốm lại, không phải chỉ có con người hay súc vật mới
có cái vô tướng mà nơi âm thanh, sắc tướng, sơn hà, đại
địa cũng có cái vô tướng. Trong kinh, Phật dạy ông
Tu Bồ Đề muốn hàng phục vọng tâm để hiển bày chơn tâm,
thì phải vô trụ, không chấp, nghĩa là muốn lấy nước thì
phải múc ngay nơi sống, muốn thấy chơn thì phải tìm nơi
vọng, muốn thấy đạo thì phải chung sống với đời.
Nay
muốn tìm chơn mà có thể lìa bỏ các pháp tức là làm bặt
cái nghe, cái thấy hay sao ?
Muốn
thấu triệt pháp tu nhĩ căn viên thông, chúng ta nên phân biệt
3 trường hợp như sau ?
a)
Nghe và không nghe.
b)
Nghe mà không nghe.
c)
Nghe như không nghe mà lại nghe như thật.
Trường
hợp 1. NGHE VÀ KHÔNG NGHE.
Đó
là trường hợp chung cho kẻ phàm phu chúng ta, có khi nghe, có
khi không nghe.
Không
nghe là khi chúng ta điếc hay lảng tai hoặc bị ngăn cách.
Dù có nghe hay không nghe, chúng ta cũng đều phát khởi ý niệm
phân biệt yêu ghét, lấy bỏ. Tâm chạy theo ngoại cảnh
được gọi là tâm nhiễm ô, tâm chấp tướng. Mà hễ
còn chấp tướng thì làm sao thấy được tánh ? Vì thế
phàm phu chúng ta phải bị lưu chuyển trong vòng sanh tử luân
hồi, phải thọ lãnh nghiệp báo vui sướng, khổ không khổ.
Trường
hợp 2. NGHE MÀ KHÔNG NGHE.
Hàng
Nhị Thừa vì chủ trương ngăn ngừa nhĩ căn không có cho tiếp
xúc với âm thanh bên ngoài nên không thể phân biệt được
tướng của âm thanh, êm dịu hay chua chát, thanh hay thô.
Do không phân biệt nên họ không khởi tâm yêu ghét, lấy bỏ,
tất nhiên không bị nhiễm ô, nên họ không tạo nghiệp ác
để lãnh quả báo sanh tử.
Trường
hợp này liên hệ trực tiếp đến đạo qủa của Nhị Thừa.
1)
Nghe là trường hợp của Thanh Văn, nhờ nghe được pháp Tứ
Đế mà đạt được quả giải thoát gọi là tiểu quả Niết
Bàn.
2)
Không nghe là trường hợp của A La Hán.
A La
Hán chủ trương không nghe tất cả mọi thứ âm thanh nên chẳng
những ngăn nhĩ căn không để bị tác động mà còn tìm cách
an trụ trong cái không, tịch diệt của Diệt tận định.
Dù đạt được quả vô sanh, nhưng A La Hán vẫn còn chấp
pháp vì còn phân biệt có pháp thanh thô, yêu ghét, lấy bỏ,
như họ nghĩ rằng tất cả các thứ âm thanh đều là ô trược
cần phải loại bỏ.
Tu
theo pháp nghe mà không nghe vẫn còn bị kẹt, vì khi chúng ta
không tiếp xúc với các pháp thế gian, chúng ta không thể
nào tỏ ngộ được tánh của chúng.
Trường
hợp 3. NGHE NHƯ KHÔNG NGHE MÀ LẠI NGHE NHƯ THẬT.
Do
nguyên tắc tướng của âm thanh tuy có thanh thô khác nhau, nhưng
tánh của nó là chơn không, bình đẳng, không thanh, không thô.
Nói cách khác, lìa sóng không thấy nước, lìa tướng không
thấy tánh, lìa thế gian không Phật, lìa vọng niệm hay chúng
sanh tánh, không thấy Phật tánh hay Phật tâm.
Vì
thế muốn lắng nghe một cách tự tại và viên thông, chúng
ta không nên phân biệt tướng thanh thô của âm thanh, không
nên phân biệt cái gì cần nghe, thích nghe, và cái gì không
cần nghe, không thích nghe. Nếu nghe được thì chúng ta cứ
nghe mà như không nghe, nghĩa là cứ nghe mà lòng không chấp,
không trụ, không sanh tâm ưa ghét, nhờ vậy mà chúng ta rốt
cuộc được nghe như thật.
PHƯƠNG
PHÁP THỰC HÀNH
Nói
không chấp, không trụ thì dễ nhưng khi thực hành mới thấy
khó khăn vô cùng. Nếu áp dụng khoa động lực học,
chúng ta sẽ tìm ra được một phương cách tương đối dễ
thực hiện.
Người
tu Bát Nhã không chủ trương tận diệt mọi tư tưởng.
Họ chỉ tìm cách dứt trừ mọi tư tưởng tham, sân, si, thất
tình, luc dục (tâm chấp ngã, chấp pháp) khi đối cảnh, đối
pháp hay những hình ảnh có sức quyến rũ được ghi trong
ký ức.
Thất
tình, lục dục, tham, sân, si là những tướng thô của các
thứ tâm chấp ngã là ngã si, ngã mạn, ngã kiến, ngã ái.
Thất tình gồm có: hỉ, nộ, ố, ái, dục, cụ còn lục dục
thì có tài, danh, sắc, thực, thùy (ngủ nghĩ), tật đố (ganh
ghét) hoặc 6 thứ ham muốn của 6 căn.
Vì
không chủ trương tận diệt tư tưởng nên người tu chỉ
muốn làm chủ tất cả tư tưởng, bất luận chơn hay vọng,
đang diễn biến trong nội tâm nghĩa là chẵng những họ không
để cho các thứ tâm chấp ngã lôi cuốn mà còn tùy nghi sử
dụng chúng để làm lợi người, lợi mình.
Có
đối pháp, tâm liền phát khởi. Tâm phát khởi là tâm
bị động, tâm nghe bên trong là tâm tịnh. Tuy nói hai
tâm nhưng cả hai đều cùng sử dụng một lực, đó là tâm
lực nói chung, trung tính, không thiện, không ác.
Tâm
lực đó có sẵn trong mỗi người chúng ta cũng như có sẵn
trong vũ trụ, trùm khắp không gian và thời gian. Vì vậy
tâm lực của chúng ta chính là LỰC của VŨ TRỤ còn gọi
là lực năng sanh của Chơn Như tâm.
Khi
đối pháp, nếu chúng ta sanh lòng tham thì liền đó có một
lực thúc đẩy chúng ta phải hành động. Nếu chúng ta
kịp thời lắng nghe nội tâm thì lực tham sẽ mất, khiến
cho tư tưởng tham lần hồi mất theo.
Vậy
thì với kỷ thuật làm tăng trưởng lực lắng nghe đến mức
tối đa, chúng ta đã làm tan biến ma lực của thất tình,
lục dục, bởi lẽ nếu mình đã tận dụng trước tâm lực
ở nơi lòng thì còn tâm lực nào khác để cho thất tình,
lục dục sử dụng ?
Thí
dụ như đi xem vở tuồng cải lương Lan và Điệp, các bà
mẹ và các cô thường hay rơi lệ khi nghe những lời ca oán
than não nùng của Lan quyết tâm cắt đứt mối tình xưa giữa
hai người. Do đâu mà các bà và các cô phải mgậm ngùi,
bi lụy như thế ? Có phải là vì các bà, các cô chưa
từng tu tập pháp lắng nghe nên đã vô tình để cho âm thanh
lôi cuốn. Nếu đã thuần thục được pháp này rồi
thì làm gì còn có vấn đề thương cảm số kiếp hồng nhan
đa truân ?
Thực
hành liên tục pháp lắng nghe, tức là tập cho tâm lắng nghe
có một cái lực mạnh mẽ đủ sức hàng phục các vọng niệm
chấp ngã, chấp pháp cũng như thất tình, lục dục.
Câu
hỏi được đặt ra là tại sao có người hành pháp lắng
nghe mà vẫn bị lôi cuốn bởi các ma lực của vọng niệm
?
Chúng
ta nên hiểu tâm lực có tánh chất trung tính. Khi bắt
đầu tu tập pháp lắng nghe, chúng ta đã lấy một phần của
tâm lực chuyển sang cho tâm lắng nghe. Từ đó tâm lắng
nghe mới có được một lực, nhưng lực này vẫn còn yếu,
so với ma lực của tham, sân si vốn đã được un đúc từ
vô lượng kiếp về trước.
Lúc
bấy giờ tâm lực bị chia thành hai phân lực, một phân lực
đi với tâm lắng nghe, một phân lực đi với tham, sân, si,
thất tình, lục dục, phân lực này chính là ma lực nói trên.
Đừng
ngần ngại trốn tránh các cơ hội đối pháp, bởi lẽ mỗi
lần đối pháp, chúng ta có dịp huấn tập lực lắng nghe,
huấn tập nhiều chừng nào thì lực này sẽ được mạnh
chừng nấy. Dĩ nhiên ma lực của tham, sân, si sẽ yếu
dần cho đến cuối cùng không còn có đủ khả năng để lôi
cuốn chúng ta nữa. Do đó mới nói đời là một lò rèn
vô giá để tôi luyện tâm phàm phu thành tâm Phật. Đi
tìm đạo giác ngộ mà lìa đời là một sự sai lầm rất
lớn.
Bí
quyết dụng công nằm trong câu << Phản văn, văn tự tánh
>>. Phản văn là xoay cái nghe vào trong, vào chơn tâm thanh
tịnh. Văn tự tánh có nghĩa là lắng nghe chơn tâm, tức
là giữ cho tâm mình yên lặng. Sau khi tâm được yên
tịnh rồi thì dù có nghe trở lại âm thanh bên ngoài, mình
vẫn được bình thản, không còn cảm thọ.
Đối
với những vị mới tu tập, muốn thành tựu pháp lắng nghe
nội tâm cũng thật là khó khăn. Vì thế chúng tôi xin
đề nghị một phương pháp lắng nghe như sau: Mỗi buổi tối,
khi trong nhà được yên tĩnh, chúng ta có thể nằm hoặc ngồi
để tập lắng nghe nội tâm. Trong bốn uy nghi, ngồi là
tư thế lợi nhứt, vì nó có thể giúp mình dễ dàng theo dõi
tạp niệm có thể xẹt ra trong đầu mà không bị mệt mõi
hay buồn ngủ. Nếu tạp niệm, vọng niệm xẹt ra thì
phải cố gắng tỉnh táo giác cho kịp. Giác niệm đúng
lúc thì niệm liền mất. Nên nhớ rằng nhờ có lắng
nghe nội tâm, chúng ta mới có thể kịp thời giác niệm.
KHÔNG LẮNG NGHE, CHÚNG TA KHÔNG BAO GIỜ GIÁC ĐƯỢC NIỆM.
Đừng
sợ niệm xẹt ra, chỉ sợ chúng ta lơ là mà giác không kịp.
Vọng niệm, tạp niệm càng xẹt ra nhiêu chừng nào thì chúng
sẽ được chuyển hóa càng sớm chừng nấy.
Đối
với bất cứ loại âm thanh nào, dù là một bản nhạc tango
êm dịu, hay một bản nhạc rốc kích động, chúng ta phải
tập lắng nghe, tự tại, vô sở thọ, không duyên theo chúng,
nghĩa là không tỏ ra vui buồn, khen chê, thích không thích không
thích.
Pháp
môn NGHE NHƯ KHÔNG NGHE MÀ LẠI NGHE NHƯ THẬT thuộc Phật thừa,
vốn chủ trương nghe rốt ráo, đầy đủ cả âm thanh, không
phân biệt chơn vọng, thanh thô.
Người
đời khi đau khổ thường than thở đủ điều. Chư Phật
và Bồ Tát đều nghe hết nhưng như không nghe, vì các Ngài
không khởi tâm đau khổ, cảm xúc theo, mà lại nghe như thật,
vì các Ngài thấu rõ nhân duyên, nhân quả, hoàn cảnh, ảnh
hưởng hay hậu quả của âm thanh, từ đó các Ngài mới tùy
thuận sử dụng các phương tiện khéo léo nhằm cứu độ
các chúng sanh đau khổ.
Khi
nhĩ căn đã viên thông rồi, được mở gút rồi thì 5 căn
còn lại sẽ được viên thông theo. Tánh biết lúc đó
không còn bị các căn chi phối nữa, mà chỉ thời nhờ chúng
để hiện bày. Tánh biết là chủ, các căn là tớ.
Các căn sẽ dung thông nhau, 1 căn là 6 căn, 6 căn là 1 căn.
II.
PHÁP CHIẾU KIẾN TRONG TÂM KINH BÁT NHÃ.
Tâm
kinh Bát Nhã khởi đầu bằng một định lý như định lý
hình học, toán học. Đó là định lý thoát khỏi khổ
ách, nằm trong câu sau đây:
" QUÁN
TỰ BỒ TÁT HÀNH THÂM BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA THỜI, CHIẾU KIẾN
NGŨ UẨN GIAI KHÔNG, ĐỘ NHỨT THIẾT KHỔ ÁCH ".
Tạm
dịch:
" Khi
Bồ Tát Quán Tự tại thực hành sâu rộng Bát Nhã Ba la mật
đa (liền) soi thấy 5 uẩn đều không, (nhờ thế nên) vượt
qua mọi khổ ách ".
Theo
Phật giáo, việc đặt danh hiệu các vị Bồ Tát thường dựa
theo các pháp môn hay công hạnh mà các Ngài đã chuyên tu và
chứng đắc. Sở dĩ ở đây vị Bồ Tát này được gọi
là Bồ Tát Quan Tự Tại là vì nhờ hành pháp quán 5 uẩn đều
không nên tâm Ngài được tự tại. Bồ Tát Quán Tự
Tại còn được tôn xưng dưới nhiều danh hiệu khác nữa,
nào là Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Bất Nhị, Bồ Tát Bát
Nhã.
1.
Bát
Nhã và tánh KHÔNG.
Lý
Bát Nhã là nguyên lý tuyệt đối, bật hết mâu thuẫn mặc
dù trong đó có những thành phần mới thoáng qua, đường như
có tánh cách mâu thuẫn đối kháng nhau. Lý Bát Nhã còn
được gọi là lý sắc không vì nó bao gồm một cách hài
hòa, nói khác đi, vì nó viên dung cả sắc Không, cả tướng
lẫn tánh.
Chữ
KHÔNG ở đây, ngụ ý Chơn tâm hằng hữu còn sắc là tâm
còn mê vọng, là "vọng tâm". Vọng và chơn tuy hai mà
là một, giống như sóng và nước vậy. Nước không lìa
sóng, cũng như chơn không lìa vọng. Sóng yên trở thành
nước, cũng vậy vọng hết liền trở thành chơn.
Nhà
Phật còn gọi cái KHÔNG này là CHƠN KHÔNG, vì nó đã có từ
vô thỉ, trước khi có vũ trụ và con người, vì nó có tánh
cách thường hằng, không biến đổi trong không gian vô tận
và trong thời gian vô cùng.
Có
nhiều người hiểu lầm chữ KHÔNG, cho là không Cố định,
trong khi đó Tâm kinh đã định nghĩa rõ ràng chữ KHÔNG như
sau: tướng KHÔNG hay tánh của vạn pháp là không sanh, không
diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, tức là
không có đối đải gì cả, không có ngã (được hình dung
bằng thân ngũ uẩn với 6 căn, 6 trần, 18 giới) và cũng không
có pháp nào cả, dù là các pháp xuất thế, giải thoát như
pháp Tứ Đế, pháp 12 Nhân Duyên, pháp Lục Độ.
Tuy
là Chơn Không nhưng cũng Diệu hữu vì nó có khả năng sanh
sanh, hoá hoá ra muôn loài, muôn vật.
Vạn
pháp duy tâm tạo, tâm ở đây là Chơn tâm, Chơn Không.
Sở dĩ tâm tạo ra vạn pháp là vì tâm có đặc tánh năng
sanh như đã nói ở trên. Tâm cũng còn có những đặc
tánh khác như Thường Hằng, Chiếu Soi và Thanh Tịnh.
Đặc tánh Chiếu Soi là Trí Huệ Bát Nhã, là Chơn Giác, Chơn
Trí, vượt lên trên các cặp đối đãi, mâu thuẫn của cảnh
giới nhị nguyên. Hành thâm Bát Nhã Ba la Mật đa có nghĩa
là lúc nào cũng sử dụng Chơn TRí, Chơn Giác để không còn
làm chấp ngã và pháp, như thế mới có thể đến bờ giác
bên kia. Sử dụng chơn trí để chiếu soi vạn pháp bằng
cách giữ tâm không trụ, không chấp. Tâm không trụ,
không chấp còn được gọi là tâm không.
Người
đời cũng như hàng Nhị Thừa vì hiểu sai hai chữ Tâm KHÔNG
cho đó là tâm rỗng không, không suy nghĩ, không tính toán,
không vọng niệm, không chơn niệm nên đã rơi vào trạng thái
KHÔNG, ngu đần mà nhà Phật gọi là ngoan không (ngoan có nghĩa
là ngu si, mê muội).
Nhờ
có tâm không trụ nên người tu trí huệ Bát nhã mới có thể
tỏ thấu được thực tướng, tướng hằng hữu của vạn
pháp, mới có thể thấy biết tất cả sự vật trên đời
đều như thật, đúng theo tướng đồng nhứt còn gọi là
tướng Chơn Như, tướng như thật. Tất cả chúng sanh
tuy tướng trạng bề ngoài có vô cùng sai khác nhưng đồng
một tướng Chơn Như.
Thấy
biết như thật hay thấy biết Trung Đạo là nhìn thấy ba mặt
TƯỚNG, THỂ, DỤNG của một vấn đề, của một sự vật.
Mặt ngoài, là mặt huyễn tướng, giả tướng mặt trong là
mặt thực tướng, là mặt của thể tánh và mặt hữu dụng
vô cùng thiết yếu cho đời sống vật chất và tinh thần
của muôn loài trên thế gian.
Người
tu trí huệ Bát Nhã lúc nào cũng tích cực hành động trong
tinh thần KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ TÁC. Không là tâm không,
tâm không chấp, không trụ theo nghĩa tổng quát, Vô Tướng
là tâm không chấp tướng, VÔ TÁC là tâm không chấp kết
quả việc làm.
2.
NGŨ UẨN GIAI KHÔNG.
Ngũ
uẩn hay ngũ ấm có nghĩa là 5 nhóm, 5 chúng ẩn tàng hay được
che lấp trong xác thân con người hay loài vật. Thân ngũ
uẩn chính là thân này do 5 chúng tạm thời kết hợp mà thành.
Vì thế mới có danh từ Chúng sanh để nói lên tính cách giả
hợp của 5 uẩn làm thành thân và tâm của 4 loài chúng sanh
(thai sanh, noãn sanh, thấp sanh là sanh ở chỗ ẩm ướt như
côn trùng, hóa sanh như các loài bướm).
Ngũ
uẩn gồm có: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành
uẩn, thức uẩn.
Sắc
uẩn thuộc thành phần vật chất bao gồm 5 đại, đất nước,
gió, lửa và hư không, làm thành thân người. Còn 4 uẩn
kia thuộc tinh thần được gọi chung là danh vốn bao gồm 2
đại còn lại của thất đại là kiến đại và thức đại,
tức là 2 khả năng thấy và biết của con người.
Vì
thế, hai chữ danh, sắc được dùng ghép để chỉ ngủ uẩn
hay thất đại.
a)
Do đâu mà có ngủ uẩn, có thân này ?
Nhà
Phật gọi thân này là thân ngủ uẩn vì nó gồm đầy đủ
hai phần: vật chất là thân, là sắc, là sắc thân và
tinh thần là tâm, là danh.
Nếu
biết được nguyên nhân sanh ra thân ngũ uẩn thì chúng ta có
thể tìm cách dứt trừ nó. Dứt trừ được thì chúng
ta sẽ thoát khỏi sanh tử luân hồi.
Trong
kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật đã từng dạy rằng nguồn
gốc nguyên nhân của ngủ uẩn là vọng tưởng, là vọng tâm.
Vì
chúng ta lầm chấp từ vô lượng kiếp xác thân này là TA
thật, vì vọng tưởng kiên cố như thế nên mới sanh ra Sắc
uẩn.
Các
thứ cảm thọ của lục căn làm cho chúng ta thấy, nghe, hay,
biết không thật, đó là một thứ vọng thưởng u tối của
thọ uẩn.
Tư
tưởng của con người tuy có khả năng trùm khắp không gian
và thời gian, tuy có thể sanh khởi bất cứ lúc nào, lúc ngủ
cũng như lúc thức, nhưng nó vẫn là vọng tưởng vì nó còn
mang lấy cái tôi, còn chấp ngã. Đó là tưởng uẩn.
Ngoài
ra tư tưởng còn thiên diễn không ngừng, luôn sanh diệt, luôn
âm thầm tìm cách hiện hành bằng lời nói và việc làm.
Đó là hành uẩn.
Cuối
cùng tư tưởng tuy là huyễn nhưng nó có khả năng bám sâu
gốc rễ trong tàng thức của chúng ta khiến chúng ta khó dứt
trừ, khó chuyển hóa chúng. Đó là thức uẩn, do vọng
tưởng vi tế, nhỏ nhiệm tạo thành.
Qua
phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng sở dĩ chúng ta mang
lấy thân ngủ uẩn là do vô minh, mẹ đẻ của vô số vọng
tưởng, vọng niệm chấp ngã.
b)
Làm thế nào để dứt ngủ uẩn tức là để thoát khỏi sanh
tử luân hồi ?
Tâm
kinh Bát Nhã dạy phải chiếu kiến ngũ uẩn giai không.
Có thể nói 6 chữ này là bí quyết tu tập để vượt qua
mọi khổ ách do thân ngũ uẩn gây nên và để đi tới bờ
đại giác. 6 chữ này cũng là chía khóa để mở cửa
giải thoát. Không có chìa khóa tức là không soi thấy
5 thứ vọng tưởng này đều là không mà hễ không soi thấy
được như vậy thì không được giải thoát.
Trong
kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, Đức phật củng đem bí
quyết này ra giảng dạy, nhưng Ngài nói một cách khác như
sau:
" Phàm
Sở hữu tướng giai hư vọng ... Nhược kiến chư tướng phi
tướng tức Như Lai ".
Tạm
dịch:
Phàm
cái gì có sắc tướng đều là hư vọng, không thật... Nếu
soi thấy các sắc tướng chẵng phải tướng (tức là tướng
chơn thật) thì thấy Như Lai.
Thật
vậy, cái gì có hình tướng đều phải chịu quy luật vô
thường chi phối, đều biến đổi theo nguyên lý thành, trụ,
hoại, không. Vì thế kinh mới nói các tướng đều là
hư vọng, Không thật. Người tu Kim Cang Bát Nhã phải
soi thấy cái tướng hằng hữu, chơn thật. vô hình ẩn tàng
bên trong các tướng hữu hình. Cái tướng hằng hữu
vô hình đó là cái thực tướng, cái thể tánh của vạn pháp
vạn vật, còn được gọi là cái Chơn Không vô tướng.
Thiền
Tông do Tổ Bồ Đề Đạt Ma truyền sang đất Trung Hoa vào
đầu thế kỷ thứ 6 sau Tây Lịch cũng chủ trương trực chỉ
nhân tâm, kiến tánh thành Phật nghĩa là chỉ thẳng tâm người,
thấy tánh thành Phật.
Tóm
lại Tâm kinh Bát Nhã, Kim Cang Bát Nhã cũng như Thiền Tông
đều cùng dạy chúng ta 1 bí quyết giải thoát, đó là Soi
thấy cho được thể tánh KHÔNG của ngủ uẩn, thấy cho được
thực tướng của vạn pháp.
c)
Định
nghĩa 3 chữ PHÁP TƯỚNG TÂM.
Tâm
là nguồn gốc sanh ra vạn pháp, là tánh của vạn pháp.
Tánh này là tánh KHÔNG. Khi pháp chưa hiện hành, còn đang
chuyển biến trong tâm thì gọi là PHÁP TƯỚNG TÂM. Một
khi đã chuyển biến xong, pháp xuất hiện ra ngoài, thành pháp
tướng có thể nhìn thấy, sờ mó và hình dung được.
Như thế PHÁP TƯƠNG TÂM là trung gian giữa tâm và pháp tướng,
chính là pháp tướng còn trong giai đoạn chuyển biến
ở nội tâm.
Thân
người là pháp tướng, xuất phát từ tâm chúng sanh, nhưng
phải qua trung gian của sắc uẩn được coi là Pháp tướng
tâm.
d)
LÂN
TRẦN hay một siêu nguyên tử của ngày mai.
Căn
bản của vật chất được khoa học phát minh đến ngày hôm
nay, trước sau vẫn là nguyên tử. Trong nguyên tử có
những vật thể vi tế chỉ có thể thấy được qua kính hiển
vi mà thôi.
Về
mặt khoa học, thân người gồm có vô số tế bào, trong một
tế bào có vô số nguyên tử.
Trong
tương lai, nhân loại sẽ phát minh thêm một số siêu nguyên
tử nữa, nhỏ hơn rất nhiều so với kích thước và khối
lượng của nguyên tử hiện được biết. Trong số các
siêu nguyên tử của ngày mai, cái nhỏ nhứt mà chúng tôi tạm
gọi là lân trần, là một thứ vật thể vô cùng vi tế, có
thể ví như hư không. Do đó hư không mà chúng ta thường
xem như là một bầu trời rỗng không, thật ra là một kho
chứa vô lượng, vô biên, lân trần.
Theo
khoa học, không có gì mất mà cũng không có gì tự lập.
Khi
thân người chết, tất cả vật chất làm thành thân này,
liền trở về hư không, dưới dạn lân trần, vì thế mới
nói không có gì mất.
Thân
này cũng không thể tự lập. Dù cho khoa học có tiến
bộ tột đỉnh đi nữa cũng không tự nó làm ra con người,
bởi lẽ con người là kết qủa của một số nhân duyên,
của tứ đại tụ hợp lại làm thành. Mà tứ đại :
đất, nước, gió, lửa là vật chất, là tổng hợp các lân
trần trong hư không. Cũng vậy, vạn pháp đều do lân
trần kết hợp mà hình thành.
Với
thuyết lân trần được trình bày như trên, chúng ta mới hiểu
vì sao chơn không của nhà Phật lại trở thành Diệu Hữu.
Không có thuyết này, chúng ta không thể nào giải được do
đâu mà có vũ trụ, có tinh tú, có ngân hà, có cả hành tinh
v.v... ? Khi tìm cách giải thích những hiện tượng kỳ
bí ấy, các tôn giáo thương cho rằng tất cả những thứ
lạ lùng, vĩ đại hoặc vi tế ấy đều do một bàn tay của
Đấng Tạo Hóa làm ra. Rồi từ quan niêm ấy, các giáo
chủ mới bày ra những nghi thức tôn thờ lễ bái, cúng kiến
hướng về đấng Tối Cao, chính đấng ấy, cách đây trên
2.500 năm, đức Phật Thích Ca đã đơn thuần tạm gọi là
Chơn Không với dụng đích ám chỉ cái không thể mô tả,
không thể định danh, không thể nghĩ bàn, cái không tăng,
không giảm, không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, tức
là cái không chấp, không trụ.
e)
Các
phương thức chiếu kiến ngũ uẩn.
Chiếu
kiến còn được gọi là quán chiếu, là chiếu soi. Có
nhiều phương thức quán chiếu ngũ uẩn. Chúng ta chỉ
cần quán chiếu một uẩn, đó là sắc uẩn, chớ khỏi
cần quán chiếu đầy đủ 5 uẩn. Nếu chúng ta quán thấy
Sắc uẩn là không, thì 4 uẩn kia còn lại đương nhiên cũng
là không.
Chúng
ta cũng có thể quán trực tiếp thân ngủ uẩn vì thân tướng
hữu hình là pháp tướng, còn ngũ uẩn là pháp tướng tâm.
Cuối
cùng, chúng ta cũng có thể chiếu soi vọng tâm của chúng ta,
vì vọng tâm là danh từ tổng hợp dùng để gọi các uẩn
: thọ, tưởng, hành, thức.
Từ
một câu chiếu kiến ngũ uẩn giai không, chúng ta tìm ra được
ba phương thức quán chiếu đó là quán chiếu sắc uẩn, quán
chiếu thân, quán chiếu tâm.
* e1.
PHƯƠNG
THỨC QUÁN CHIẾU SẮC UẨN.
Nguồn
gốc sanh ra sắc uẩn là vọng tưởng kiên cố. Như trước
đã nói, sắc uẩn là pháp tướng tâm còn trong giai đoạn
chuyển biến ở nội tâm, chưa hiện ra để trở thành pháp
tướng tức là thân người. Nhưng pháp tướng tâm, trong
khi chuyển biến lại tạo thành những làn sóng tư tưởng
với những tần số riêng biệt. Chính các làn sóng này
quy tụ các lân trần trong vũ trụ để cấu tạo vật chất,
cấu tạo tứ đại. Do ở chỗ vật chất được cấu
tạo từ lân trần, mà lân trần lại nằm trong hư không nên
vật chất hay tứ đại lúc nào cũng nằm trong hư không.
Vì thế tứ đại phải gắn liền với hư không. Đó
là lý do vì sao trong cơ thể con người lại có những chỗ
trống ấy thì làm sao chúng ta có thể cử động, phát triển
và tồn tại ?
Trong
buổi sơ khai, chưa có vật chất, vũ trụ và con gnười cũng
như chưa có các loài chúng sanh khác, chỉ có cái chơn không
mà thôi. Chơn không viên dung hai thế lực động và tĩnh,
vọng và chơn. Hai thế lực này ở thế cân bằng nên
tuy thấy hai nhưng mà như một. Do đặc tánh năng hóa
của chơn không nên hai thế lực ấy tạm thời mất sự cân
bằng. Thế lực động liền phát khởi, chuyển biến
các lân trần thành một thứ đại đầu tiên gọi là GIÓ
đại.
Gíó
thổi không ngừng, càng nhiều và càng mạnh, vì thế lân trần
tụ hợp lại càng đầy, càng kiên cố nên làm thành ĐẤT
đại, trong đó có cả loại kim khí.
Gió
thổi kim khí làm cho chúng cọ xát nhau mãi nên sanh ra LỬA
đại và vì có lửa nên kim khí chảy sanh ra NƯỚC đại.
Từ khi có tứ đại mới sanh ra côn, đảo, biển, núi non,
cây cối và các loài chúng sanh.
Qua
sự trình bày trên đây, chúng ta thấy thế lực động được
phát khởi từ tánh năng sanh của Chơn Không hay của Chơn Như.
Mà động tức là vọng, vì thế nhà Phật mới bảo do vọng
tâm mới sanh ra tứ đại. Tâm chúng sanh lại gồm có
2 phần vọng và chơn, chính là 2 thế lực động tịnh nằm
trong Chơn Không ở buổi sơ khai vậy.
Nếu
vọng tâm là một thế lực của Chơn Như Tâm, thế lực ấy
lại sanh ra tứ đại, sắc uẩn, ngược lại sắc uẩn tức
là con đẻ của Chơn Như Tâm, nói khác đi sắc uẩn tức là
Chơn Như Tâm, tức là Chơn Không. Do vậy SẮC TỨC LÀ
KHÔNG, 4 uẩn còn lại cũng tức là Không.
Chúng
ta cũng có thể quán chiếu trực tiếp Sắc tức là không,
không qua trung gian của Tứ đại.
Như
đã nói, Không, Chơn Không, Chơn Như, Chơn Như Tâm có đặc
tánh năng sinh, năng hóa. Đó là ý nghĩa của câu "Vạn pháp
duy tâm tạo". Nhưng trước khi hình thành vạn pháp còn
gọi là pháp tướng, các tư tưởng phải trải qua một giai
đoạn chuyển biến trong nội tâm với sự xuất hiện của
các pháp tướng tâm, sắc uẩn tức là pháp tướng tâm.
Chơn
Như vô hình, vô tướng, sắc uẩn cũng vô hình, vô tướng.
Sắc uẩn chính là một loại vọng tâm kiên cố. Mà vọng
tâm, chơn tâm, trên căn bản chỉ là một tâm mà thôi, giống
như sóng và nước. Vì thế, chúng ta có thể kết luận
Sắc tức là không.
* e2.
PHƯƠNG
PHÁP QUÁN CHIẾU THÂN NGŨ UẨN.
Như
đã nói, tứ đại hay sắc làm thành thân người.
Mà
thân thể chúng ta được hình thành vì nuôi dưỡng bằng vật
chất do đó thân thể gồm có vô lượng, vô biên tế bào.
Trong mổi tế bào còn có vô lượng, vô biên nguyên tử.
Khi
thân này chết, thịt xương lần hồi tan rã, các tế bào và
các nguyên tử cũng phải biến theo. Chúng trở về với
là cái kho tàng vĩ đại chứa đựng vô lượng, vô biên nguyên
tử, siêu nguyên tử còn gọi là lân trần.
Vì
thế thân ngũ rốt ráo chỉ là một tổng hợp của lân trần,
mà lân trần là một loại siêu nguyên tử của ngày mai, kích
thước và khối lượng không thể thấy được bằng mắt
thường, chỉ có thể thấy qua kính hiển vi siêu điện tử.
Lân trần do đó có thể ví như hư không.
Để
kết luận, thân ngũ uẩn sau một quá trình tan biến sẽ trở
thành hư không. Mà hư không lại là biểu tượng của
Chơn Như. Tóm lại, tuy thân tướng con người có hình,
có dạng nhưng bên trong luôn luôn có cái thể tánh Chơn Như
Xuyên qua tướng mà thấy được tánh như thế mới gọi là
chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Với trí Bát Nhã, với
tâm không, không trụ, không chấp tướng, chúng ta mới có
thể thấy tánh, nói khác đi, KHÔNG, VÔ TƯỚNG là 2 đều kiện
cốt yếu có thể giúp chúng ta thấy Tánh, thoát khỏi sanh
tử, luân hồi, không còn bị bắt buộc phải mang lấy xác
thân nặng nề trong tương lai.
e3.
PHƯƠNG
PHÁP QUÁN TÂM.
Vì
tâm thuộc về tinh thần nên bao gồm 4 uẩn còn lại, đó là
thọ, tưởng, hành, thức. Quán chiếu tâm tức là quán
chiếu, chiếu soi 4 uẩn này.
4 uẩn
này là 4 vọng tưởng có sức tác hại lớn lao nhứt đối
với sự an vui và hạnh phúc của con người. Chúng ta
thành ma, quỉ, thánh, thần hay Tiên, Phật cũng đều do chúng.
" Trồng
bông kiểng, giống chi hưởng nấy.
Địa
ngục cũng tại tâm làm quấy,
Về
Thiên đàng, tâm ấy tạo ra.
Cái
chữ tâm là quỉ hay ma,
Tiên
hay Phật cũng là tại nó.
Vì
thế, người tu pháp chiếu soi cần phải hết sức thận trọng,
luôn tỉnh táo mới có thể kịp thời đối phó, chống trả
các ma lực của chúng.
Định
lý chiếu kiến ngũ uẩn giai không trong Tâm kinh Bát nhã là
do Bồ Tát Quán Tự tại hay Quán Thế Âm mà ra. Khi đưa
ra định lý này, Ngài đã xác định giá trị tuyệt đối
của nó. Nay trong chương trình tu học Bát Nhã, chúng ta
chỉ cần hiểu vì sao 5 uẩn đều là Không, đều là Chân
Như, nói khác đi, chúng ta chỉ cần tỏ thấu định lý "vọng
tâm, vọng niệm chính là chơn tâm, chơn niệm, vọng tức là
chơn, chơn tức là vọng".
Định
lý này chính là nguyên lý nhứt như hay bất nhị không hơn
không kém.
Chúng
ta đã rõ sắc uẩn là không, nếu suy diễn rộng ra, 4 uẩn
còn lại, tức là tâm, đương nhiên cũng là không.
Sở
dĩ chúng ta quán thêm phần tâm là vì chúng ta muốn phát huy
pháp chiếu soi bằng cách triệt để áp dụng định lý của
Bồ Tát Quán Thế Âm trong khi đối pháp, đối cảnh.
Chúng
ta nên nhớ rằng thân này cũng như sự vật và ngoại cảnh,
tức là ngã và pháp, tự chúng không gây tác hại nào cả.
Chúng là những phương tiện để chúng ta sử dụng trong cuộc
sống vật chất và tinh thần của chúng ta.
Vì
thế mới nói chúng có cái tướng dụng riêng. Nếu trong khi
đối pháp, chúng ta biết khai thác cái tướng dụng của chúng,
chúng ta sẽ làm cho đời càng thêm tươi đẹp. Nếu chúng
ta không biết thì chúng là chúng, ngã và pháp vẫn là ngã
và pháp, không có một chút liên hệ gì đến sự an vui và
hạnh phúc của chúng ta.
Tứ
tổ Đạo Tín có lần giải đáp như sau cho một đệ tử chân
truyền lá Pháp Dung : "Cảnh vật không có tốt hay xấu, tốt
xấu tại nơi tâm. Tâm chẳng khởi, thất tình làm sao
có ? Thất tình không khởi thì chơn tâm tha hồ hiện
bày ! "
Lời
nói của Tứ Tổ xác đáng làm sao ! Ngã và pháp là những
gì đã hình thành từ vô lượng kiếp về trước, đã được
cu sinh, nghĩa là sinh ra một lượt với con người, do đó chúng
ta hãy để yên ngã và pháp, bằng cách đừng chấp, đừng
Ôm ngã và pháp, thì tự nhiên chúng ta sẽ được an vui và
hạnh phúc.
Mà
muốn không chấp, không trụ ngã và pháp, tức là không chấp,
không trụ các thứ vọng tâm, vọng niệm, chúng ta hãy áp
dụng nguyên lý nhứt như theo đó thì vọng và chơn đều là
một.
Chúng
ta nên nhớ rằng, Chơn Như tuy bất biến mà tùy duyên, tuy
tịnh mà động. Tịnh là thể, động là dụng. Do
đó tất cả vọng tâm, vọng niệm, ngã và pháp đều là cái
dụng của Chơn Như, đều là Phật pháp, mà Phật pháp chính
là pháp giải thoát. Mặc dù cái dụng của ngã và pháp
là cái dụng thô trược, nhưng nó sẽ thúc đẩy chúng sanh
với thời gian đạt đến chỗ giác ngộ, giải thoát giống
như bùn lầy sẽ thúc đẩy hoa sen trổ bông thơm ngát.
Tu
bát Nhã, chiếu soi ngã pháp, chúng to hãy theo gương của chư
Phật và Bồ Tát chỉ thấy có tánh năng sanh trong bất cứ
việc gì, từ những tư tưởng chấp ngã cho đến lời nói
và hành động của mình và của người, chớ đừng để ý
đến hiện tượng, bởi lẽ hiện tượng chỉ là những vật
ảo hóa do tánh năng sanh biếc hiện ra mà thôi.
" Chiếu
soi ! Chiếu soi ! soi cho rõ.
Trăm
ngàn niệm, niệm khởi trong lòng.
Niệm
niệm chẳng khác nào niệm không,
Bát
Nhã ! Bát Nhã ! bừng sáng tỏ. "
Niệm
không trong bài kệ đây có nghĩa là niệm chơn, là chơn niệm,
còn niệm niệm là vọng niệm. Nếu chúng ta đã thấm
nhuần nguyên lý vọng chẳng khác nào chơn thì liền đó Bát
Nhã bừng sáng tỏ.
Mỗi
khi đối pháp, đối cảnh mà thấy thất tình, lục dục khởi
nơi lòng, chúng ta hãy nhớ ngay lúc đó chúng là cái dụng
của Chơn Như, củng là những hiện tượng do tánh năng sanh
biến hiện.
Biết
được như vậy, chúng ta sẽ không còn làm nô lệ cho ngã
pháp, chúng ta sẽ được an nhiên, tự tại, sẽ được hưởng
một thứ hạnh phúc tuyệt vời mà nhà Phật gọi là Đại
Bát Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh.
Đừng
bao giờ nghỉ vọng niệm khác với chơn niệm, nghỉ như thế
tức là nghỉ theo lối nhị nguyên. Chúng ta hãy quán tưởng
cho thật nhuần nhuyễn nguyên lý nhứt như, hãy thâm nhập
nguyên lý để không còn phân biệt vọng chơn, thiện ác v.v...
Nhờ thâm nhập như thế, chúng ta sẽ soi thấy được cái
dụng của mọi vọng tưởng, vọng tâm chấp ngã, chấp pháp,
từ đó chúng ta mới thấu triệt được đặc tánh năng sanh
của bản thể chơn như của các hiện tượng đang diễn biến
trước mắt chúng ta hằng giờ, hằng phút.
Tóm
lại câu ngủ uẩn giai không sắc tức là không, không tức
là sắc đồng nghĩa với câu vọng tức là chơn, chơn tức
là vọng, bởi lẽ sắc cũng như ngũ uẩn đều do vọng tưởng
sanh ra nên chúng là vọng, còn không là chơn không, là chơn.
Vì
quen soi rọi các tư tưởng của mình nên lúc nào chúng ta cũng
tỉnh táo, bén nhạy để kịp thời biết các vọng niệm đang
xẹt ra trong đầu. Khi đối pháp mà thấy tâm mình động
thì liền biết một vọng tình sắp phát sanh. Biết kịp
như thế tức là mình đã làm chủ được nó rồi. Mà
làm chủ được nó thì đương nhiên mình đã chuyển hóa được
nó.
Trong
tất cả pháp môn tu tập của Bồ Tát chỉ có pháp chiếu
soi là pháp môn đem lại hiệu quả nhanh nhứt vì nó vốn bao
gồm cả Định lẫn Huệ. Từ lâu rồi, đa số các Phật
tử vì lầm chấp Định Huệ là hai pháp riêng biệt, họ cho
rằng định có trước ; Huệ mới có sau, nên đã quên mất
đi cái diệu thể đồng nhứt nằm trong 2 pháp, bởi lẻ nơi
Định có Huệ, nơi Huệ có Định. Đinh Huệ tuy nói hai
nhưng thật ra chỉ là một.
Gọi
là Huệ vì thấy được 3 mặt Tướng, Thể, Dụng của một
vấn đề, thấy được như thế là thấy đúng như thật mà
văn chương Phật giáo gọi là NHƯ THỊ.
Còn
gọi là Định vì trước mọi cảnh vật bên ngoài, vẫn được
bình thân, không dao động, không bị lôi cuốn, không bị nhiễm
ô.
Pháp
chiếu soi rất phù hợp với người đời nay vì hết sức
đơn giản, trong khi các loại Thiền khác rất phức tạp.
Bất cứ giờ phút nào, chúng ta cũng có thể thực hành được,
không cần phải có sẵn nơi thanh tịnh hay phải có đủ phương
tiện cần thiết.
Viên
bi đang lăn trên mặt bằng tượng trưng cho 2 pháp Định và
Huệ, bởi lẽ nó không bị cát bụi bám vào, đó là Định.
Mặt ngoài của viên bi càng lăn càng thêm bóng láng, sáng sủa
nhờ cọ xát, đó là Huệ.
Pháp
Chiếu soi chính là pháp hành thâm Bát nhã. Gíá trị của
nó có tánh cách muôn đời và vô cùng lớn lao. Nếu được
hành trì liên tục, nó có thể giúp mọi người một mạch
đi đến quả vị giác ngộ.
III.
PHÁP PHỔ MÔN TRONG KINH PHÁP HOA
Pháp
này nằm trong Phẩm 25 của bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, được
đức Phật giảng dạy trong giai đoạn chót của cuộc đời
Ngài.
Dưới
đây là phần tóm lược những gì có liên quan đến pháp này.
1.
TÓM
LƯỢC.
Lúc
bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý Bạch Phật ! Thế Tôn ! Do nhân
duyên nào mà Bồ Tát Quán Thế Âm có danh hiệu là Quán Thế
Âm ?
Phật
bảo : “ Chúng sanh nào đang đau khổ mà một lòng xưng niệm
danh hiệu của Bồ Tát thì Bồ Tát biết ngay và chúng sanh
ấy liền thoát khỏi đau, liền được giải thoát ”.
Người
nào trì niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm thì :
•
Vào lửa, lửa chẳng cháy.
•
Bị nước cuốn trôi thì liền đến chổ cạn,
•
Đi thuyền giữa đại dương tìm châu báu mà tấp vào nước
của quỉ La Sát thì dược thoát nạn La Sát.
•
Sắp bị người đánh chém, thì dao gậy liền gãy.
•
Không bị quỉ Dạ Xoa, La Sát, Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Xà, Phú
đơn Na ám Hại.
•
Bị xiềng xích, gông cùm thì xiềng gông tan rã.
•
Đi lạc vào nơi hiểm trở, gặp giặc cướp thì liền thoát
khỏi và không sợ sệt.
•
Nếu chúng sanh nào còn nhiều ái dục, giận hờn, ngu si mà
niệm hồng danh Quán Thế Âm thì sẽ hết dục, hết giận
hờn và ngu si.
Người
nữ nào lễ bái, cúng dường để cầu con trai thì được
con trai đầy đủ phước huệ. Cầu con gái thì được
con gái xinh đẹp, hiền lành, được nhiều người mến yêu.
Lễ
bái, cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm được phước đức
nhiều như phước đức của người trì niệm danh hiệu và
cúng dường 62 ức hằng Sa Bồ Tát.
Bố
Tát Vô Tận Ý Bạch Phật : “ Thế Tôn ! Bồ Tát Quán Thế
Âm làm cách nào đi dạo khắp cõi Ta Bà ? Sức phương
tiện của Bồ Tát về việc này như thế nào ? ”
Phật
bảo : “ Nếu cần 1 thân Phật để độ thoát 1 chúng sanh
nào đó thì Bồ Tát Quán thế Âm liền niệm hìện thân Phật
để nói pháp. Nếu đáng dùng thân của Duyên Giác, Thinh
Văn, Phạm Vương, Đế Thích, Tự Tại Thiên, Đại Tự Tại
Thiên, Thiên Đại Tướng Quân, Tỳ Sa Môn, Tiểu Vương, Trường
Giả, của cư sĩ, của tể quan, của Ba là môn, thân con trai,
con gái, thậm chí đến thân của Bát Bộ chúng để độ chúng
sanh ở nước nào đó, thì Bồ Tát Quán Thế Âm tùy thuận
mà hiện thân. Này Vô Tận Ý ! Công đức của Bồ
Tát Quán Thế Âm to lớn như thế các ông phải một lòng cúng
dường. Bồ Tát vốn được cõi Ta Bà tôn vinh là bậc
bố thí Vô Uý ”.
Đáp
câu hỏi của Bồ Tát Vô Tân Ý về danh hiệu của Bồ Tát
Quán Thế Âm Phật nói bài kệ đại ý như sau :
“
Ông đã biết công danh của Quán thế Âm, đó là vì Quán Thế
Âm đã phát thệ sâu rộng, khó nghĩ bàn, nhằm hầu hạ vô
lượng đức Phật để đạt sự thanh tịnh tuyệt đối ”.
Những
người luôn tưởng nhớ Bồ Tát Quán Thế Âm thì thoát khỏi
mọi nạn tai. Bồ Tát Quan Thế Âm hiện thân cùng khắp,
nhằm dứt trừ 4 thứ khổ và 3 đường dữ cho cúng sanh.
Hãy thường xuyên chiêm ngưỡng Bồ Tát bằng cách áp dụng
thứ quán sau đây:
Chơn quán
Thanh tịnh quán
Trí huệ quán
Từ Bi quán
Quán
Thế Âm là ánh sáng thanh tịnh, là mặt trời Huệ, soi sáng
các chỗ tối tăm, hàng phục nạn tai khói lửa, là tâm đại
bi rưới mưa pháp cam lồ, dứt trừ phiền não, xua đuổi hận
thù nơi pháp đình cũng như nơi trận địa.
Bồ
Tát Quán Thế Âm là Diệu Âm, Phạm Âm, Hải triều Âm Vi diệu
hơn tất cả các tiếng thế gian. hãy thường xuyên trì
niệm và lễ bái.
Phần
TÓM LƯỢC trên đây được trích dẫn trong quyển PHÁP HOA
TÂM ẤN do chúng tôi biên soạn năm 1990.
Việc
trước tiên mà chúng ta có thể tự hỏi là vì sao Phẩm Phổ
Môn được đức Phật giảng trong kinh Pháp Hoa, Tại sao Ngài
không giảng trong các kinh khác như Thủ Lăng Nghiêm, Viên Giác
?
Kinh
Pháp Hoa Được Ngài nói không bao lâu trước khi Ngài tịch
diệt. Từ lúc mới bắt đầu hoằng pháp cho đến giờ
phút nhập diệt, Ngài đã dẫn dắt các đệ tử qua nhiều
đoạn chứng ngộ, từ thấp đến cao.
Qua
Pháp Tứ Đế, các đệ cử đã tỏ ngộ đời là bể khổ,
cần phải sớm nhàm chán để lo tu các pháp giải thoát.
Đó là giai đoạn chứng khổ đầu tiên.
Thời
gian trôi qua, các môn đồ của Ngài đã thấm nhuần pháp Tứ
Đế, cảm thấy quả thật mình đã nhàm chán cuộc đời,
không còn luyến tiếc những gì mình đã ôm ấp trước kia.
Để giúp cho họ thật sự buông bỏ mọi thứ có ở trên
đời, Phật bèn giảng dạy các pháp trong kinh Thủ Lăng Nghiêm,
kinh Viên Giác... theo đó chỉ vạn pháp thế gian này đều
là huyễn hóa, người tu biết huyễn liền phải lìa ngay.
Giai đoạn 2 này là giai đoạn ngộ được tánh chất huyễn
hóa của cuộc đời để từ đó thật sự dứt trừ tâm chấp
ngã, chấp pháp.
Nhưng
đức Phật chưa ngừng tại đây. Tiến lên một tầng
nữa. Ngài liền đem chơn lý "vạn pháp đều không" ra
giảng dạy cho các cao đồ. Giai đoạn 3 này là giai đoạn
dài nhứt nói về lý Bát nhã, chiếm trọn 22 năm trời hoằng
pháp của Ngài. Sở dĩ Ngài kéo dài thời gian nói pháp
KHÔNG là vì pháp này vốn là pháp căn bản tối yếu của
người tu Phật. Chẳng liểu ngộ lý KHÔNG thì làm sao
hòa nhập được bản thể Chơn Không Diệu Hữu ? Phật
dạy Bát Nhã suốt 22 năm chỉ nhằm mục đích giúp các đệ
tử có đủ thời gian tu tập để thấm nhuần cái tâm không
chấp, không trụ nhưng lại có thể dung nhiếp vạn pháp, vạn
vật để rồi hoàn tất lộ trình tu Huệ đi từ Sắc trở
về Không.
Cuối
cùng khi thấy có một số đệ tử đã hòa nhập được bản
thể chung cùng, đức Phật mới giảng các bộ kinh Viên Giác
như Pháp Hoa, Duy Ma Cật, cốt để thúc giục các vị này sớm
phát đại hạnh nguyện, lăn lộn trở lại thế gian để xây
dựng, củng cố và hoàn mãn công đức độ sanh, đồng thời
để thành tựu và trang nghiêm quốc độ thanh tịnh của mình.
Đó là lộ trình thứ hai tu Phước, ngược với lộ trình
đầu, còn gọi là lộ trình đi từ Không trở về Sắc.
Trong
lộ trình này, các Bồ Tát sẽ sắp vào hạng ưu tiên 1, tất
cả những gì phải làm để cứu độ chúng sanh, khai thị
ngộ nhập cho họ nhằm giúp họ thoát khỏi căn nhà lửa của
3 cõi.
Chính
trong thời kỳ cuối này, Phật mới nói pháp Phỗ Môn của
Bồ Tát Quán Thế Âm vốn được chúng sanh vinh tặng danh hiệu
là Bồ Tát bố thí vô úy.
Hôm
nay, tu tập pháp Phổ Môn, chúng ta cũng ôm ấp một hoài bảo
độ sanh như Bồ Tát, bởi ở thời buổi cuối thế kỷ 20
này, tất cả mọi người đang cấu xé lẫn nhau vì miếng
cơm, manh áo, vì của cải vật chất, do đó đã vô tình tạo
ra không biết bao nhiêu nỗi khỗ đau cho nhân loại, khiến
cho chúng ta mặc dù chưa hoàn tất lộ trình tu Huệ không lẽ
nhắm mắt ngồi yên mà không ra tay cứu vớt ? Tuy không
làm được những công tác xã hội lớn lao như các tổ chức
từ thiện quốc tế, nhưng chúng ta cũng phãi góp công sức,
tiền bạc, để giúp đỡ phần nào những kẻ nghèo đói,
bệnh tật, cô đơn đang chịu tai trời, ách nước. Ngoài
những phần đóng góp bằng vật chất, chúng ta cần đạt
trọng trâm vào công việc giải thích cho các tín hữu đang
chịu khổ hiểu rõ về bộ máy nhân quả, về sự cần thiết
phải làm lành lánh dữ, nhứt là về khả năng thánh Phật
của mỗi người, bởi lẽ ai ai cũng có Phật tâm, cũng có
ngội Tam Bảo nơi lòng.
Đây
là lý do vì sao pháp Phổ Môn được Phật giảng dạy trong
kinh Pháp Hoa trước khi Ngài nhập diệt.
Diệu
Pháp Liên Hoa, cái tên của bộ kinh vĩ đại mà Phật đã để
lại cho chúng ta, cái tên ấy có nghĩa là vạn pháp đang diễn
biến hằng ngày trước mắt chúng ta đều có tánh cách vi
diệu đều là Phật pháp. Vì thế người tu Phật khi
đã nhìn thấy các pháp đều là diệu rồi thì tâm sẽ trở
nên bất nhiễm giống như hoa sen đang tỏa hương thơm ngát
trên vũng bùn lây nước đọng. Với cái tâm bất nhiễm
ấy, người tu sẽ tự tại hành trì pháp Phổ Môn cứu khổ
cứu nạn của Bồ Tát Quán Thế Âm, hành như không hành mà
là hành. Đó là hạnh vô công dụng của Bồ Tát từ
đệ bát Địa trở lên. Ở phần trước, chúng tôi đã
trình bày rằng muốn hòa nhập bản thể Chơn Như, chúng ta
phải đi qua hai cửa ải, đó là cửa KHÔNG và cửa VÔ TƯỚNG.
Nay cửa ải thứ ba đang chờ chúng ta, đó là cửa VÔ TÁC.
Qua
lọt cửa ải này, chúng ta đã hoàn tất lộ trình tu Phước,
đi từ Không trở về Sắc.
Noi
gương của bồ Tát Quán Thế Âm, chúng ta hãy phát đại nguyện
hành trì pháp Phổ Môn của Ngài. Với pháp này, chắc
chắn chúng ta sẽ có ngay hoàn mãn sự nghiệp xây dựng công
đức và phát huy trí huệ.
2.
NGUỒN
GỐC CÁC NỖI KHỔ CỦA CHÚNG SANH.
Người
đời chịu muôn thứ khổ, nào là khổ vì nghèo đói, vì bệnh
mà không có thuốc uống, hoặc tuy được chữa trị mà không
lành, khổ vì tật nguyền, vì gia đình xào xáo, con cái ngỗ
nghịch, khổ vì bị chà đạp, áp bức, tù tội, sợ hãi v.v...
Cảnh
ngộ trên đời tự nó không làm mình khổ, chính tâm mình
vì còn mê vọng nên mới làm mình khổ. Thật vậy, cảnh
ngộ tuy có ngang trái, éo le, khắc nghiệt nhưng nếu tâm mình
giữ được bình thản, an nhiên thì làm gì khổ ? Vì
thế, sau khi truy nguyên, chúng ta mới thấy rằng các nổi khổ
không xuất phát từ sự việc và cảnh vật bên ngoài, trái
lại chúng đều bắt nguồn từ nơi tâm.
Có
những người tuy sống trong cảnh cô đơn, nghèo đói mà vẫn
cãm thấy an, vui, không khổ. Cũng có những tù nhân sống
nhiều năm trong các trại cải tạo, đáng lẽ họ phải buồn
rầu, oán hận, trái lại họ vẫn an phận, bình thản chấp
nhận trả nghiệp.
Riêng
về những kẻ khùng điên, dù họ đang sống trong cảnh vất
vả, đói khát, bệnh tật họ không khi nào cảm thấy khổ
đau. Đó là vì họ không có ý thức để có thể nhận
định đâu là khổ, đâu là vui sướng ? Tuy ngũ căn của
họ vẫn có đầy đủ, nhưng giữa các căn và cảnh vật bên
ngoài, ý thức vốn đóng vai trò trung gian mà nay không còn
hoạt động nữa. Người ta chửi mắng họ, nhưng vì
không biết ý nghĩa của lời chửi mắng, nên họ không phản
ứng giận hờn. Do đó, chúng ta mới thấy rắng thức
đóng vai trò chủ yếu, ý thức là nguồn gốc sinh ra các cảm
giác khổ đau.
Và
điểm này, trong kinh Thủ Lăng nghiêm, đức Phật đã dạy
ông A Nan như sau:
“
Căn trần (tức là ngã pháp) đều phát sinh từ một nguồn
gốc, đó là Chơn Như. Chúng không thể tách rời nhau
giống như hai cánh tay của con người. Chúng sanh vì vô
minh nên phân biệt chúng thành năng và sở, năng là các căn
vốn là chủ sở là trần tức là Khách.”
Phân
biệt căn trần thành hai thứ riêng biệt như thế, đó là
do thói quen vọng chấp. Chư Phật và Bồ Tát giác ngộ
căn trần là đồng thể, là như một, tuy chúng đối đãi
nhau nhưng các Ngài không phân biệt năng sở nên được giải
thoát khởi các sự ràng buộc của chúng.
Căn
trần chính là nơi chúng ta bị cột trói mà cũng là nơi chúng
ta được cởi mở. Nếu chúng ta thuận theo 6 căn, chạy
theo chúng nghĩa là chúng ta để chúng lôi cuốn thì chúng ta
không sẽ cảm thọ liên tục, từ khổ đến sướng từ buồn
đến vui. Tâm của chúng ta không lúc nào mà không loạn
động. Nhưng thật ra căn trần không có lỗi trong việc
cột trói hay cởi mở chúng ta. Kẻ gây tội lỗi chính
vì ý thức vọng chấp, làm trung gian giữa căn trần.
Sở
dĩ chư Phật và Bồ Tát không bị căn trần lôi cuốn là vì
ý thức của các Ngài đã được chuyển hóa thành trí huệ.
Chính nhờ có trí huệ này nên các Ngài mới thấy biết căn
trần là đồng thể. Đó là trí bình đẳng vô phân biệt.
Phàm
phu chúng ta vì chưa chuyển hóa được ý thức phân biệt,
chưa làm chủ được vọng tâm chấp ngã, chấp pháp, chấp
căn trần là nên còn bị các nỗi niềm sướng khổ,
vui buồn chi phối.
3.
NHỚ
TƯỞNG QUÁN THẾ ÂM LÀ PHÁP GIẢI KHỔ VI DIỆU.
Nếu
không tu tập các pháp thích nghi thì người đời khó thoát
khỏi các nỗi khổ đau, phiền não.
Pháp
giải khổ được ví như cái phao mà người rớt xuống biển,
đang chơi vơi giữa dòng nước, phải mau mau nắm lấy.
Pháp giải khổ còn được gọi là Phật pháp, bởi lẽ Phật
pháp gồm có những pháp tu nhằm giải thoát tâm thức mình
khỏi những sợi dây trói buộc vô hình vốn là những nguyên
nhân gây khổ. Nhưng Phật pháp có tới 84.000 pháp môn,
pháp môn nào cũng có công năng giải khổ. Sở dĩ có
nhiều pháp môn là vì căn cơ, trình độ, hoàn cảnh, xử sở
của chúng sanh có nhiều sai biệt. Hơn nữa, chư Phật
và Bồ Tát vì thương xót chúng sanh nên trong sự nghiệp giáo
hóa, các Ngài luôn tùy thuận các sở thích và mong cầu của
họ.
Như
đã nói, ở thời buổi văn minh vật chất, nghiệp chướng
của chúng sanh quá đầy, những nỗi khổ đau ngày càng chồng
chất, nhân loại phải liên lụy khổ chung.
Mỗi
người chúng ta phải sớm tìm cho được pháp giải khổ có
công năng mạnh nhứt, nhanh nhứt, vi diệu nhứt. Qua Phẩm
Phổ Môn, chúng tôi hết sức tin tưởng nơi lời dạy của
đức Phật khi Ngài nói : “ Chúng sanh nào đang đau khổ mà
một lòng xưng niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm thì
Bồ Tát biết ngay và chúng sanh ấy liền thoát khỏi khổ đau
”.
Lời
dạy trên đây tuy đơn giản nhưng nó có rất nhiều diệu
nghĩa. Trước tiên, khi xưng danh hiệu của Bồ Tát, chúng
ta phải có tâm chí thành, phải một lòng một dạ chú tâm
vào lời nguyện cầu. Bồ Tát có nơi xa xăm nhưng
có thể nghe lập tức, vì Ngài từ lâu đã thành tựu pháp
tu nhĩ căn viên thông. Khả năng nghe của Ngài, đối với
các tiếng kêu cứu của chúng sanh, lúc nào cũng trùm khắp
10 phương pháp giới. Đừng nghĩ rằng Ngài không nghe
được những lời nguyện cầu của chúng ta, chỉ sợ một
nỗ là chúng ta có thành tâm hay không, khi niệm hồng danh của
Ngài, nghĩa là chúng ta có thật tâm cảm niệm đến Ngài hay
không ?
Cảm
niệm càng mãnh liệt bao nhiêu thì sự đáp ứng càng nhanh
bấy nhiêu. Đó là luật cảm ứng trong nhà Phật.
Cảm
là nhân, là nguyên động lực, ứng là quả là động lực
đáp lại. Như nói cảm điều lành thì phước ứng, còn
cảm điều ác thì họa ứng. Quy luật cảm ứng còn gọi
là quy luật nhân quả.
Chúng
ta thành tâm, một lòng cảm niệm Quán thế Âm thì Ngài sẽ
tùy theo lời nguyện cầu của mình mà ứng hiện hộ trì.
Mổi ngày thường xuyên cảm niệm, nghĩ tưởng đến ngài,
chúng ta sẽ tạo được một niệm lực ngày càng mạnh, nhờ
đó chúng ta mới có thể bắt đầu liên lạc với Ngài.
Liên lạc được với Bồ Tát, chúng ta sẽ luôn gần gũi với
Ngài vì Ngài ở khắp mọi nơi. Đối với chư Phật và
Bồ Tát, không gian và thời gian không còn là những ngăn cách
nữa.
Gần
gũi với Ngài, chúng ta sẽ được Ngài hộ trì, giúp chúng
ta thoát khỏi những khổ mà người đời thường gặp phải,
bởi lẻ Bồ Tát Quán Thế Âm có nghĩa là quán sát, thấu
rõ những tiếng kêu than, nguyện cầu của người đời, thấu
rõ như thế nào mới có thể diệu dụng các phương tiện
khéo léo để cứu giúp. Tuy danh hiệu của ngài là Quán
Thế Âm, nhưng trong kinh đã nó, Ngài cũng là Diệu Âm, Phạm
Âm, Hải Triều Âm vi diệu hơn tất cả. Theo nguyên lý
nhứt như, bình đẳng, người đã quán triệt thế âm phải
là bậc ban phát lời nói vi diệu có khả năng làm tan biến
những nỗi sợ sệt, khổ đau của chúng sanh, đó là Diệu
Âm... Người đó phải là đấng từ phụ thương và dạy con
bằng những lời lẽ đầy minh triết, bằng những Phạm Âm.
Sau cùng, chúng ta nên nhớ rằng Diệu Âm, Phạm Âm, Thế Âm
không bao giờ mất, lúc nào cũng tồn tại trong không gian,
trong vũ trụ bao la, giống như những làng sóng trên mặt đại
dương, đó là Hải Triếu Âm.
4.
PHÁP
HỆ QUÁN THẾ ÂM.
Chúng
ta tu pháp Quán Thế Âm giống như những sinh viên đang theo
học môn học, chẳng hạn như môn y khoa. Hoàn thành môn
y khoa, sinh viên liền trở thành bác sĩ có khả năng chữa
trị cho bệnh nhân. Cũng vậy, chúng ta tu pháp Quán Thế
Âm, sau khi thành tựu còn được gọi là đắc pháp sẽ thuộc
về pháp hệ Quán Thế Âm, chúng ta sẽ lảnh lấy nhiệm vụ
cứu khổ, cứu nạn cho chúng sanh như ngài vậy. Chúng
ta sẽ phát huy 4 đức tánh của Ngài, đó là Từ, Bi, Hỉ,
Xả.
Thật
vậy, càng nhớ tưởng đến Ngài, chúng ta càng huân tập 4
đức tánh ấy còn gọi là tứ vô lượng tâm để biến chúng
thành những tâm vô lượng, vô biên, trùm khắp pháp giới
10 phương.
Trong
Phật giáo có rất nhiều pháp hệ, bởi lẽ nhân đại phát
hạnh và pháp tu để đối trị một vọng tâm đặc biệt
đó luôn có sai biệt.
Pháp
hệ Bồ Tát Quán Thế Âm là pháp hệ BI, TRÍ trong đó có tình
thương và trí huệ chiếm địa vị độc tôn và tối thẳng.
Trong
kinh Kim Cang Bát Nhã, ở Mục 7, Phật đã từng nói : "Hết
thảy hiền Thánh đều tu pháp vô vi nhưng kết quả có tầng
bực khác nhau".
Cũng
vậy, hiện nay chúng ta đang tu tập các pháp của Bồ Tát Quán
Thế Âm, nhưng vì căn cơ, trình độ của chúng ta mỗi người
mỗi khác, hoàn cảnh thuận nghịch trong quá trình tu tập cũng
khác, thành thử kết quả gặt hái của mỗi người chúng
ta, sau một thời gian tu tập, sẽ khác hẳn nhau.
Có
người đắc một phần pháp, có kẻ đắc hai hay ba phần,
cũng có những vị, nhờ có sẵn pháp khí đại thừa, tức
là đã có vốn lớn do ở chỗ đã dày công tu tập trong vô
lượng kiếp trước, nên đắc đa số phần hay toàn phần.
Tuy
cùng một pháp hệ Quán Thế Âm nhưng rồi đây, mỗi người
chúng ta sẽ thực hành Bi, Trí trong những phạm vi khác nhau.
Có vị sẽ thành tựu việc cứu khổ, cứu nạn cho vô số
người, có vị chỉ có thể cứu độ một số ít mà thôi.
Dù vậy, tất cả chúng ta, trước sau rồi, với sự hộ trì
của Bồ Tát Quán Thế Âm, sẽ được an vui và hạnh phúc
trong đời sống hằng ngày, sẽ được hoàn toàn tự tại,
vô ngại trong nội tâm.
Ý
NGHĨA SÂU MẦU CỦA 4 CHỬ TỪ, BI, HỈ, XẢ.
Nằm
trong pháp hệ Quán Thế Âm, chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa
sâu mầu của 4 chữ Từ, Bi, Hỉ, Xả. Nếu không tận
biết thì làm sao chúng ta có thể thực hành cho đúng ?
4 tâm
vô lượng Từ, Bi, Hỉ, Xả của Bồ Tát Quán Thế Âm là những
tâm quảng đại, tròn đầy, trên thì thông với chư Phật
đồng một từ lực, dưới thì hiệp với chúng sanh trong 3
cõi 6 đường đồng một lòng bi ngưỡng.
Nói
4 tâm nhưng thật ra chỉ là 1, 1 mà là 4 vì chúng bất khả
phân do ở chỗ chúng xuất phát từ bản thể chung cùng, bản
thể chơn tâm thường, lạc, ngã, tịnh. Nói khác đi,
Thường, lạc, ngã, tịnh chính là THỂ, Từ, Bi, HỈ, Xả là
Tướng Dụng. Nhưng chúng ta phải hành Tứ vô lượng
tâm như thế nào mới đúng với ý nghĩa tướng dụng ?
Chúng
ta phải hành Tứ Vô Lượng tâm, Vô trụ, bởi lẽ nếu hành
trì pháp này mà còn thấy đối tượng ngã, nhân chỉ vẫn
còn ở cấp bực sơ cở, còn bị kẹt, không phát huy được
trọn vẹn ý nghĩa sâu mầu của 4 chữ Từ Bi Hỉ Xả vốn
là tướng dụng của Chơn Như,
a)
Tâm Từ là tâm bình đẳng ban phát an vui trong tinh thần Vô
Trụ, cho mọi loài chúng sanh vì chúng có đồng một thể tánh
như mình, cũng như đối nới tất cả chúng sanh tánh tức
là đối với các niệm trong tâm mình bất luận là niệm chơn
hay vọng, thanh hay thô.
Muốn
hành tâm từ cho thật rốt ráo, chúng ta phải hành tâm từ
đối với mình trước, nghĩa là chuyển hóa tất cả vọng
niệm của mình thành những chơn niệm, sau đó mới hành tâm
từ đối với các chúng sanh, hướng dẫn họ chuyển hóa các
vọng niệm của họ. Hành Tâm Từ như thế còn gọi là
tự giác, giác tha, làm được như vậy chúng ta mới có thể
làm những những việc nhiều ích, đem lại nhìều lời lạc
cho quần sanh.
b)
Tâm Bi là tâm thương xót các chúng sanh đang đau khổ, đang
lâm nạn. Đó là tâm hằng cứu vớt.
Thương
xót người thì phải tìm cách cứu người, không lẽ thương
xót trên đầu môi, chót lưỡi.
Các
thuyền nhân Việt Nam trong khi vượt biển thường gặp tai
nạn. Họ cầu nguyện Phật Bà Quan Âm Nam Hải giúp cho
họ được tai qua nạn khỏi.
Câu
chuyện của cô Lê Thị Bích Loan mà soạn gỉa đã có dịp
được nghe cô thuật lại, chứng minh tâm Bi vô lượng của
Bồ Tát. Cô bị chủ thuyền ác ôn liệng xuống biển,
hồi 8 giờ tối. Ngay trong lúc đầu cô còn cố gắng
bơi nhưng về sau, vì quá mệt mỏi, cô đành phó mặc cho số
mệnh, cô chỉ còn biết xưng niệm hồng danh cuả Bồ Tát,
cô nằm trên biển mà không chìm, có lúc cô ngủ quên.
Cô trôi dạt từ biển Trà Vinh đến biển Bến Tre, trong tay
không có 1 cái phao nào. Đến 4 giờ sáng cô được 1
thuyền đánh cá vớt lên. Báo chí Sài Gòn đã đăng tải
câu chuyện hi hữu này và Tòa Án cũng đã xử những kẻ có
tội.
Tâm
Bi còn có nghĩa là tâm kham nhẫn, vô tranh, không chống chỏi,
không đè bẹp, không tiêu diệt các vọng niệm của mình mà
chỉ biết cứu hộ các tư tưởng chấp ngã, chấp pháp của
mình tức là chuyển hóa chúng thành những tư tưởng bạch
tịnh, chuyển phàm thức thành thánh trí.
Thể
hiện trọn vẹn tâm Bi đối với các chúng sanh tánh nơi lòng
mình trước, sau đó mới thể hiện tâm Bi đối với các loài
chúng sanh trong pháp giới bao la. Có tâm bi mẫn đối với
mình trước bằng cách phát tâm sám hối, tự nguyện không
còn phạm những lổi lầm như đã phạm trong quá khứ, trong
các tiền kiếp.
Chúng
ta cũng không trụ tâm vào những việc cũ để lấy đó làm
đay nghiến lòng mình. Đó là khởi tâm bi mẫn đối với
mình.
Trở
lại vấn đề, chúng ta thử hỏi tư tưởng bạch tịnh là
gì ?
Thông
thường, người tu Phật cho rằng tư tưởng hay niệm bạch
tịnh là những niệm không có ngã, pháp. Nhưng chúng ta
đừng vội cho rằng không có ngã pháp là rỗng không, bởi
lẽ các niệm bạch tịnh vẫn còn có tác dụng ứng hóa, diễn
biến theo nhu cầu của mình, tạo nên căn thân còn gọi là
báo thân và thế giới còn gọi là quốc độ thanh tịnh.
Chỉ
có pháp vô trụ, vô niệm mới có thể chuyển hóa chúng sanh
tánh của mình thành các tư tưởng bạch tịnh. Hành pháp
này, tánh năng sanh của Chơn Như sẽ biến hóa theo lý vô trụ,
thoát khỏi tác động của các ma lực ngã, pháp. Khi chúng
còn đủ sức hấp dẫn mình thì lúc đó chúng được gọi
là những niệm bạch tịnh.
Nên
nhớ rằng trong A lại da thức của chư Phật và Bồ Tát, các
chủng tử ngã pháp vẫn còn giữ nguyên, nhưng chúng không
còn tác động tâm của các Ngài. Đó là ý nghĩa của
ngã không, pháp không. Nếu chúng bị tiêu diệt thì làm
sao các Ngài có thể nhớ lại những việc đã xảy ra trong
quá khứ, trong các tiền kiếp, làm sao các Ngài có thể
hiện thân người trên thế gian vì đã mất hết các chủng
tử người rồi.
Đây
là điểm mà lâu nay 1 số lớn Phật tử thường hay mê mờ
vì họ nghĩ rằng phải diệt hết mọi vọng niệm, mọi tạp
niệm trong thức A lại da mới có thể biến thức này thành
thức Bạch tịnh.
c)
Tâm Hỉ là tâm vui mừng khi thấy chúng sanh vui mừng.
Tùy hỉ có nghĩa là tạm thời vui theo cái vui của người,
tuy rằng tâm Bồ Tát là tâm Như Như Bất Động, không vui,
không buồn, không khổ, không sướng. Bồ Tát hay Phật
chia sẻ nỗi vui, nỗi buồn với chúng sanh vì đó là cách
mà các Ngài sử dụng để biểu hiện đặc tánh tùy duyên.
Câu
chuyện thánh Rama Krishma khi thấy 1 người bị đánh bằng roi
da đang oằn oại trong cơn đau niền cảm thấy như mình đang
bị đánh và ngay lúc đó trên lưng của thánh hiện ra những
lằn roi rướm máu.
Trong
kinh Duy Ma Cật, ở Phẩm 5, Trưởng giả Duy Ma Cật có nói
: “ Nếu chúng sanh bệnh hay hết bệnh, Bồ Tát cũng bệnh
hay hết bệnh ”.
Tâm
hỉ còn có nghĩa là tâm tùy thuận, tùy thuận tức là nương
theo Chơn tánh trong quá trình chuyển hóa các tập khí sanh tử
luân hồi thành các chơn niệm để cuối cùng ngộ nhập Chơn
Như.
Trong
kinh Viên Giác, Phật phân tích có 4 trường hợp tùy thuận
Viên Giác của các hàng Bồ Tát từ Thập Tín đến Diệu Giác.
Bồ
Tát Thập Tín tùy thuận Viên Giác để tìm cách dứt trừ
cái biết rằng mình đã tỏ ngộ dược Chơn tâm thanh tịnh
chỉ cái biết ấy là 1 chướng ngại lớn.
Bồ
Tát Tam Hiền tùy thuận Viên Giác bởi lẽ tuy đã dứt trừ
cái biết nói trên nhưng vẫn còn chấp rằng mình là bậc
giác ngộ.
Bồ
Tát Tháp Địa cũng tùy thuận Viên Giác nghĩa là các Ngài
thường giác nhưng không chấp cái giác.
Bồ
Tát Diệu Giác còn gọi là Phật cũng còn tùy thuận Viên Giác.
Các Ngài luôn thấy vọng và chơn đều là tướng giải thoát,
Giới, Định, Huệ hay Dâm, Nộ, Si, đều là Niết Bàn.
Từng
phần, từng phần chúng ta sẽ tùy thuận Chơn Như để có
thể hoàn tất việc chuyển hóa các tập khí sanh tử luân
hồi.
Thành
tựu được như thế, chúng ta mới có thể đem ra áp dụng
pháp này, hành tâm Hỉ đối với các chúng sanh hầu giúp họ
chuyển hoá hết các thói quen tật xấu ngàn đời đang che
lấp tâm của họ.
d)
Tâm Xả cũng như tâm Hỉ, nhưng khác nhau ở mức độ chuyển
hóa. Xả là rốt ráo chuyển hóa các vọng niệm.
Xả không có nghĩa là buông bỏ mà có nghĩa là không trụ,
không chấp.
Dạy
về pháp phá Ngã, Phật nói phá ngã là phá cái lầm chấp
cho rằng những đìều thấy, nghe, hay biết của mình là ngã.
Thật ra, những điều ấy là vô ngã, vì chúng không thật,
chúng là vọng. Chính cái khả năng thấy, nghe, hay, biết
của chúng ta mới là chơn ngã. Xả là không còn chấp
cái vọng làm chơn để có thể tỏ thấu bản lai thường
giác nơi mình.
Vì
còn nhớ đến các chuyện tình cảm xa xưa, nên chúng ta thường
hay hối hận ray rứt nơi lòng. Do đó chúng ta phải hành
tâm Xả đối với mình trước nghĩa là đừng để những
ái niệm nói trên gây phiền lụy cho mình. Cũng còn có
những trường hợp khác, chẳng hạn như khi làm những việc
giúp đời, chúng ta đừng ôm giữ tưởng đến những việc
đó mà sanh tâm vui vẻ giả tạo.
Hành
tâm Xả đối với mình trước, sau đó mới hành tâm Xả đối
với chúng sanh. Làm được như vậy mới thật sự làm
lợi người và lợi mình.
Trên
đây là phần luận về Tứ Vô Lượng Tâm nhằm giúp cho tất
cả chúng ta sớm thành tựu trong tiến trình ngộ nhập Chơn
Như.
Riêng
đối với các hàng Bồ Tát đã ngộ nhập, các Ngài luôn trụ
vào Tứ Vô Lượng tâm đẻ phát đại nguyện độ tận chúng
sanh. Chẵng hạn như các Ngài khởi tâm Từ đối với
tất cả chúng sanh vì các Ngài đã thấy rõ vạn pháp dù thanh
hay thô đều bình đẳng trong thực tướng cũng như trong huyễn
tướng. Các Ngài khởi tâm Bi đối với các chúng sanh
mà chẵng thấy độ thoát một ai hay riêng độ pháp nào.
Các Ngài nhờ có hạnh nguyện lớn lao độ tận chúng sanh
nên tuy có sở hành mà như không có hành. Các Ngài cũng
khởi tâm Hỉ đối với các pháp bởi lẽ các ngài đã xa
lìa sự run sợ, coi tất cả các pháp dù thuận hay nghịch
như là nhửng phương tiện thiện xão trong sự nghiệp độ
tha.
Tuy
rốt ráo thể nhập Chơn Như, nhưng các Ngài vẫn giữ tâm
Xả, luôn vô trụ trong khi hành dụng hạnh nguyện trang nghiêm
và thành tựu quốc độ. Tuy nương theo nhứt thiết chủng
trí, tuy áp dụng mọi pháp nhưng các Ngài vẫn không trụ nhứt
thiết chủng trí, vẩn không trụ pháp nào, tuy đạt được
vô phân biệt trí nhưng không trụ trí này, bởi lẽ các Ngài
không còn phân biệt Phật trí, Bồ Tát Trí, Thinh Văn, Duyên
Giác trí nghĩa là đã rốt ráo vô trụ hay đã thành tựu tâm
xả rồi vậy.
Nắm
vững ý nghĩa sâu mầu của 4 chữ Từ, Bi, Hỉ, Xả, chúng
ta hảy bắt đầu quán tưởng chúng, tưởng nhớ và vun bồi
chúng trong tâm thức mình khiến cho mình ngày càng thâm nhập
chúng. Thâm nhập đề mục quán tức là đã thành tựu
pháp quán rồi vậy.
Tóm
lại, gọi là thành tựu pháp quán Từ, Bi, Hì, Xà, khi đã
thấy mình hòa nhập được các hạnh này, không còn thấy
chúng là những đối tượng bên ngoài để mình quán tưởng
nữa.
Khi
đã hòa nhập được 4 thứ tâm này rồi thì trí huệ liền
hiện, chừng đó mình và Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ là 1.
Tư tưởng, lời nói và hành động của mình sẽ tương ứng
với Ngài. Công hạnh của Ngài sẽ là công hạnh của mình.
Cái
năng lực tỏ thấu từng đề mục quán và đưa đè mục ấy
đến chỗ hiện thực được gọi là Thiền, vì thế quán
không phải là Thiền mà là cái dụng của Thiền. Do đó
2 chử Thiền và quán được ghép chung thành Thiền quán.
Thiền
quán rốt ráo mới có thể hòa nhặp để mục quán, mà hể
hòa nhập được rồi thì liền có trí huệ.
Thiền
quán đóng vai trò trung gian giử Định và Huệ. Đắc
pháp Quán Thế Âm, chúng ta đã vô tình thực hành pháp Thiền
Mật song tu. Tại sao vậy ?
Như
đả biết, Thiền chỉ nương nhờ tự lực, hoàn toàn thiếu
tha lực. Tha lực ở đây là sức mạnh vô hình hết sức
vi diệu do Bồ Tát Quán Thế Âm ban phát để hổ trợ cho chúng
ta thành tựu pháp quán Tứ Vô Lượng tâm.
Bồ
Tát là hiện thân của tình thương và trí huệ, hiện thân
của Bi, Trí, do đó tâm lực của Ngài trùm khắp pháp giới,
che chở cho toàn thể chúng sanh trong 3 cõi như vầng mây lành
vĩ đại lơ lững ở giữa bầu trời bao la vô tận.
Có
thể nói mà không sợ sai lầm, tha lực tỏ ra rất cần thiết
trong thời buổi nhân loại đang mê đắm ngoại cảnh,
đang chạy theo các thú vui vật chất. Không có tha lực,
chúng ta khó bề khắc phục những cám dỗ của ngoại cảnh.
Do đó Thiền phải được phối hợp với Mật Tông, tức là
Thiền Mật phải đồng hành, đồng tu.
Mà
hạnh quán tưởng Tử Vô Lượng tâm là 1 hình thức song tu
Thiền Mật Không hơn không kém. Do đó hành pháp Quán
Thế Âm không có nghĩa đơn thuần là tu tập các pháp của
Ngài như pháp Nhĩ căn viên thông được gọi với cái tên
mới là lắng nghe, Lắng nhìn vô sở thọ, như pháp chiếu
kiến ngũ uẩn giai không để thấy cho được thể tánh qua
thân tướng, như pháp Phổ Môn với chủ trương cứu khổ,
cứu nạn, mà còn phải trì niệm các thần chú của Ngài như
đại thần chú Bát Nhã trong tâm kinh Bát Nhã, như chú Đại
Bi với 2 câu chú vệ tinh là Lục tự đại minh chú và Chuẩn
Đề Chơn ngôn.
Chúng
ta nên biết rằng Mật Tông là 1 môn bí yếu nhứt trong Phật
pháp. Mỗi chơn ngôn là 1 đại diện cho số nhân và 1
số quả phát sanh từ sự tu chứng từng pháp môn hay hạnh
môn.
Làn
sóng tư tưởng của con người tạo ra những tần số âm thanh
và ánh sáng được ghi nhận ở mỗi cõi bằng những ký hiệu
khác nhau.
Thí
dụ về tần số âm thanh OM MANI PADME HUM, tần số này là kết
quả tu tập của Bồ Tát Quán Thế Âm trong quá trình hoàn
mãn hạnh nguyện độ sanh cũng như độ các vọng niệm của
Ngài, hoàn mãn cả lý lẩn sự. Vì thế, khi hàng phục
được 1 vọng tâm nào thì tần số tư tưởng phát ra được
gọi là Đà La Ni vì nó tổng hợp, tổng trì lý và sự.
Bồ Tát, tác giả Đà La Ni là người trồng cây có trái, chúng
ta trì niệm Đà La Ni của Bồ Tát là người ăn trái.
Đó là cái lợi ích của Mật Tông đối với chúng ta vì không
trồng cậy mà được hưởng quả.
Pháp
Quán Thế Âm là pháp Thiền Mật song tu, lấy Đà La Ni làm
chủng từ, làm tần số rung động nội tâm, để chuyển hóa
các chủng tử vọng niệm thành những chủng tử của Đà
La Ni.
5.
CÁC
HÓA THÂN CỦA BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM.
Trước
khi trình bày về các hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm được
Ngài sử dụng trong công cuộc cứu khổ, cứu nạn, chúng ta
cũng cần phải hiểu thêm về pháp thân. Mỗi người
chúng ta đều có tam thân như chư Phật và Bồ Tát nhưng tam
thân của chúng ta chưa được hình thành rõ nét.
a)
PHÁP
THÂN
Pháp
Thân còn được gọi là Phật thân như đã trình bày trong
kinh Duy Ma Cật, Phẩm 2 : Phương tiện.
“
Thân PHật là pháp thân sanh ra vô lượng công đức, trí huyệ.
Thân này là do Giới, Định, Huệ, giải thoát, trị kiến giải
thoát, do Từ, Bi, Hỉ, Xả, do lục độ Ba la mật v.v... do trực
tâm, do tánh không buông lung, tóm lại thân Phật do vô lượng
Pháp thanh tịnh nói trên sanh ra ”.
Phật
theo nghĩa hẹp là giác, mà giác chỉ là phần sáng suốt của
bản thể mà thôi. hiểu rộng hơn, Phật chính là bản
thể Chơn thường, Chơn lạc, Chơn ngã, Chơn tịnh. Gọi
là chơn ngã vì nó lìa hết mọi sự đối đãi, sinh tử, vì
nó luôn luôn hiện hữu ở khắp nơi, trong 3 thời: quá khứ,
hiện tại và vị lai. Theo nghĩa rộng như trên, thân Phật
chính là pháp thân vô hình, vô tướng, trùm khắp không gian
và thời gian.
b)
BẢO
THÂN
Trong
kinh Quán Vô Lưọng Thọ, Phật mô tả báo thân của Bồ Tát
Quán Thế Âm ở cõi Tây Phương Cực Lạc như sau:
“
Vị Bồ Tát này, mình dài 80 vạn ức nadotha (ám chỉ con số
quá lớn) do tuần (phạn ngữ là yojana - 9.216 th) thân màu vàng
tía. Trên đỉnh đầu có tướng nhục kế (phạn ngữ
là usmisa, cục thịt nổi giống như búi tóc. Đó là tướng
thứ 32 trong 32 tướng tốt của Chư Phật và Bồ Tát), sau
cổ có hào quang, hình cầu tròn, mỗi mặt chiếu sáng 100.000
do tuần. Trong hào quang ấy có 500 vị hóa Phật.
Mỗi vị hóa Phật đều có 500 vị Bồ Tát làm thị giả ”.
Khi
thân Bồ Tát động thì trong ánh hào quang tất cả thân tướng
của chúng sanh 5 nẽo đều hiện ra. Trên đỉnh đầu,
Bồ Tát có mão trời, trong ấy có 1 vị Phật đứng cao 25
do tuần.
Tướng
Bạch Hào (lông trắng) giữa đôi mày đủ các màu 7 báu, phát
ra 84.000 ánh quang minh, mỗi ánh quang minh có vô số hóa Phật
với vô số Bồ Tát đứng hầu. Mũi cũa Bồ Tát như
hoa sen đỏ. Bàn tay hóa hiện 500 ức hoa sen đủ màu.
10 ngón tay đều ngay thẳng, đẹp tuyệt vời, có thể chiếu
sáng khắp nơi. Lúc Bồ Tát bước đi thì dưới chân
có 1.000 bánh xe hóa thành 500 đài sáng. Lúc Bồ Tát đẻ
chân xuống thì hoa Kim Cang bấu rải phủ khắp trời.
Các tướng chánh và phụ của Bồ Tát đều đủ cả như Phật
không khác, trừ phi 2 tướng nhục kế và vô tướng đảnh
(tướng phụ còn gọi là vẻ đẹp của tướng nhục kể)
thì không bằng đức Phật.
Như
thế thì báo thân của Bồ Tát Quán Thế Âm có vô lượng
tướng tốt và vẻ đẹp, chớ không phải như hóa thân của
Ngài chỉ có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp.
Báo
thân là thân tạo thành do vô lượng công đức mà Bồ Tát
đã xây dựng trong sự nghiệp độ sanh với cái tâm vô trụ,
trải qua vô lượng kiếp về trước. Vì thế báo thân
còn được bọi là thân công đức hay công đức lâm.
c)
HÓA
THÂN
Như
chúng ta đã biết, các chủng từ nằm sâu kín trong tàng thức
khi chuyển biến liền phát sanh tư tưởng. Mổi tư tưởng
còn gọi là mỗi pháp đều bồm có 1 căn thân hay 1 thân tướng
và 1 thế giới hay môi trường, hoàn cảnh. Do ở chỗ
các pháp ứng hóa vô cùng tận, thiên sai vạn biệt có nghĩa
là các tư tưởng luôn biến chuyển như dòng thác nên nhà
Phật gọi mỗi tư tưởng, mỗi pháp là 1 hóa thân.
Như
Phật đã nói trong Phẩm Phổ Môn, “ nếu cần 1 thân Phật
để độ thoát 1 chúng sanh nào đó thì Bồ Tát Quán Thế Âm
liền hiện thân Phật để nói pháp. Nếu đáng dùng thân
của Duyên Giác, Thỉnh Văn, Phạm Vương...thậm chí đến thân
của Bát Bộ chúng để độ chúng sanh ở nước nào đó, thì
Bồ Tát tùy thuận mà hiện thân ”.
Nếu
đếm cho kỹ, chúng ta sẽ thấy Bồ Tát Quán Thế Âm hiện
thân 32 tướng khác nhau. Đó là 32 hoá thân của Ngài
mà Phẩm Phổ Môn đã nói qua cho chúng ta biết.
Có
Nhiều người nghỉ lầm rằng nhờ tu tập pháp Quán thế Âm,
nhớ tưởng danh hiệu của Ngài mà mình thấy được đâu
là hạnh phúc chơn thật, đâu là lầm lạc khổ đau và chính
cái tư tưởng thấy biết của mình đó gọi là hóa thân của
Bồ Tát Quán Thế Âm đến với mình.
Nếu
1 người Hồi Giáo nhớ tưởng đến thánh Allah, chúng ta có
thể nói rằng cái tư tưởng đó là hóa thân của Bồ Tát
Quán Thế Âm đến với người ấy hay không?
Đối
với người Bà la môn cũng vậy, họ luôn niệm tưởng Ngọc
Hoàng Thượng Đế mà họ gọi la Brahma cùng với Vishnu và
Siva, cả 3 được họ tôn thờ như ngôi Tam Bảo.
Do
đó, chúng ta có thể nói rằng người Hồi giáo cũng như người
Bà la môn không khi nào niệm hồng danh của Bồ Tát Quán Thế
Âm. Khi gặp nạn, họ chỉ biết niệm tưởng thánh Allah
hay Brahma, Vishnu và Siva để mong cầu được cứu khổ cứu
nạn.
Người
thế gian chúng ta thường nghỉ tưởng theo lối nhị nguyên
luôn thấy Allah, Brahma v.v... khác với Bồ Tát Quán Thế Âm,
nhưng trên thực tế trong cảnh giới của Phật, Thánh, Tiên,
tất cả đều là 1, đều chỉ có tình thương 1 tâm từ bi
cứu khổ cứu nạn mà thôi. Các vị ấy dù được gọi
duới nhiều tên khác nhau nhưng cùng có 1 tâm. Một Bà
la môn gặp khổ nạn kêu cứu thì liền đó Bồ Tát Quán Thế
Âm tùy duyên hiện thân Bà la môn tức là hiện thân Brahma
hay Vishnu hoặc Siva đến cứu vớt. Đó là ý nghĩa của
lời nói trên đây của Phật.
Bồ
Tát Quán Thế Âm diệu dụng đặc tánh năng sanh của Chơn
Như mà tùy duyên phóng ra vô lượng tư tưởng cứu độ khi
thì dưới dạng Bà la môn, Tỳ kheo, Tứ Đại Thiên Vương,
khi thì dưới dạng vợ của Trưởng giả, thân con trai, thân
con gái v.v...
Người
Bà la môn sẽ vui mừng khi thấy vị cứu tinh hiện ra giúp
mình là 1 vị Bà la môn, trái lại y sẽ đâm ra nghi ngờ nếu
thấy vị hiện thân là chúa Jêsus hay Bồ Tát Quán Thế Âm.
Cũng
có những người không tu pháp Quán Thế Âm, không niệm hồng
danh của Ngài mà vẫn được Ngài giúp đỡ. Đó là trường
hợp của soạn giả đã được dẫn dắt trên con đường
tu học trong 4 năm qua bởi 1 chân sư vốn là hóa thân của
Bồ Tát Quán Thế Âm.
6.
14 MÓN VÔ ÚY.
Qua
phần trình bày trên đây về tam thân của Bồ Tát Quán Thế
Âm, chúng ta đã hiểu rõ khả năng cứu độ của chúng sanh
đang lâm nạn của Ngài.
Trong
kinh Thủ Lăng Nghiêm, chính Ngài đã mô tả trong chi tiết 14
các thức khác nhau được Ngài sử dụng để giúp cho chúng
sanh khởi phải sợ sệt, sợ nạn tai. Trong Phẩm Phổ
Môn của kinh Pháp Hoa, Phật chỉ nhắc lại trên đại cương
công đức cứu khổ nạn của Bồ Tát mà thôi.
Đối
chiếu 2 bộ kinh ấy, chúng ta thấy Bồ Tát đã cứu chúng
sanh đau khổ, bằng 14 cách khác nhau được gọi là 14 món
vô úy.
Trong
kinh Thủ Lăng Nghiêm, Bồ Tát trình bày với Phật như sau:
<< Chúng sanh ở nơi thân tâm của con được 14 món vô
úy >>.
Nên
nhớ rằng, về mặt sự tướng, 14 món vô úy vẫn hiện thực,
vẫn xãy ra trên thực tế chớ không phải huyễn hóa, hoang
đường như nhiều người đã lầm tưởng. Còn về mặt
lý tánh, 14 món vô úy vẫn có đầy đủ ý nghĩa. Trong
phần sau đây, chúng tôi sẽ giới hạn sự giải thích trong
phạm vi lý tánh.
Thân
tâm của Bồ Tát chính là pháp thân, Phật tánh của Ngài.
Nói chúng sanh ở nơi thân tâm của Ngài tức là nói chúng
sanh có Phật tánh, nhưng Phật tánh của chúng sanh còn bị
vô minh che lấp nên không được hình thành rõ nét. Tuy
thế, bản chất của nó cũng giống y bản chất pháp thân
của Bồ Tát. 1 giọt nước mưa từ trên trời rớt xuống
cũng có đầy đủ tánh chất như nước sông.
Do
ở chỗ đồng thể nên chúng ta rất gần gũi với Bồ Tát.
Tư tưởng của chúng ta nếu được thấm nhuần các đức
tánh Từ, Bi, Hỉ, Xả thì khi khởi phát sẽ tạo ra 1 làn sóng
có cùng 1 tần số tư tưởng của Bồ Tát. Đó là cách
chúng ta liên lạc với Ngài để cầu xin Ngài cứu khổ, cứu
nạn. Đó cũng là quy luật đồng thanh tương ứng, đồng
khí tương cầu.
•
MÓN
VÔ ÚY THỨ NHỨT.
“
Chúng sanh nào đang đau khổ mà một lòng xưng niệm danh hiệu
của Bồ Tát thì Bồ Tát liền biết ngay và chúng sanh ấy
liền được giải thoát ”.
Cảm
giác khổ đau bắt nguồn từ tâm thức. Tâm niệm danh
hiệu Quán Thế Âm sẽ giúp mình nghe được danh hiệu ấy
ngay nơi lòng mình. Mà danh hiệu ấy sở dỉ có là do
kết quả tu tập pháp Tứ Vô Lượng Tâm của Bồ Tát trong
vô lượng kiếp trước. Lắng nghe danh hiệu Quán Thế
Âm trong tâm thì sẽ hưởng được mùi vị ngon lành tức là
được giải thoát các nỗi khổ. Âm thanh Quán Thế Âm
có tần số rất mạnh, có 1 lực vô cùng mãnh liệt, đó là
lực Từ, Bi, Hỉ, Xả luôn có đầy đủ công năng để loại
trừ các thứ cảm giác khổ đau.
•
MÓN
VÔ ÚY THỨ NHÌ.
“
Người nào trì niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm thì
vào lửa, lửa chẳng cháy ”.
Các
thứ cảm giác buồn phiền, giận hờn, ghen tương, hận thù
đều có thể ví như lửa, lửa tâm. Đó là lửa tham,
sân, si, phiền não. Lửa tâm tuy không khói nhưng vẫn
cháy âm thầm, không dứt, khiến cho kẻ phàm phu ăn không ngon,
ngủ không yên, thường la rầy, chửi bới, quơ tay múa chân,
đôi khi mất khôn, điên loạn.
Nếu
lúc đó, chúng ta kịp thời nhứt tâm trì niệm danh hiệu Quán
Thế Âm thì bao nhiêu lửa tâm đều bị tần số tư tưởng
Từ, Bi, Hỉ, Xả của Ngài dập tắt. Chừng đó chúng
ta sẽ được yên ổn. Đó là ý nghĩa của món vô úy
thứ nhì. Vào lửa, lửa không cháy.
•
MÓN
VÔ ÚY THỨ 3.
“
Nếu bị nước cuốn trôi thì liền đến chỗ cạn ”.
Về
mặt lý tánh nước tượng trưng cho tâm luyến ái, ham muốn
như ham muốn sắc dục, tiền bạc, của cải, địa vị, danh
vọng v.v... Người bị nước cuốn trôi là người đang mê
mẫn vì tình yêu, đang mê muội vì các thứ ham muốn.
Muốn khỏi bị nước cuốn trôi hoặc nhận chìm nghĩa là
muốn đến chỗ cạn, chỉ cần niệm hồng danh Quán Thế Âm.
Tuy
là hiện thân cho Bi, Bồ Tát cũng còn đại diện cho Trí.
Khi chúng ta niệm danh hiệu của Ngài, lực trí của Ngài liền
được chuyển đến chúng ta, khiến chúng ta tỏ thấu bản
thể qua thân tướng. Tỏ thấu bản thể, ngộ được
chơn tâm chúng ta không còn lầm chấp thân này là Ta Thật,
từ đó chúng ta mới thôi. Không còn tìm cách thỏa mãn
các dục vọng thấp hèn như làm nô lệ cho xác thịt đam mê
của cải vật chất v.v...
Nhờ
có lực Trí của Ngài, chúng ta khỏi bị dòng nước ham muốn
lôi cuốn và nhận chìm. Nếu thường xuyên trì niệm
danh hiệu Quán Thế Âm, chúng ta sẽ lần hồi dứt trừ tâm
ham muốn, chúng ta sẽ có tâm vô trụ trước những cái có
mà người đời thường tranh giành.
•
MÓN
VÔ ÚY THỨ TƯ.
“
Khi đi thuyền giữa đại dương tìm châu báu mà tấp vào nước
của Quỉ La Sát thì dược thoát nạn La Sát ”.
Quỉ
La Sát, phạn ngữ là Rakchasse, là loài quỉ ăn thịt người,
rất độc ác, giống như những kẽ sát nhơn, những tên bạo
chúa gây thảm họa chiến tranh. Chúng thường ở biển
cả và cũng ở rải rác khắp nơi trên đất liền. Danh
hiệu Quán Thế Âm nếu được xưng niệm sẽ làm cho chúng
run sợ, trốn mất.
Kinh
Pháp Hoa cũng đề cập đến 1 loại quỉ La Sát không ác, thường
che chở, hộ trì những kẻ tu hành.
Vọng
tưởng, vọng niệm Sát sanh thuộc bản tánh của quỉ La Sát.
Gây nhân tàn sát thì ắt gặt qủa chết chóc. Vì thế,
để tránh khỏi quỉ La Sát hại mình, chúng ta phải sớm dứt
trừ vọng niệm Sát sanh bằng cách niệm hồng danh Quán Thế
Âm. Lực Từ Bi là 1 lực vô song, không có 1 ma lực nào
có thể chống chỏi nổi.
•
MÓN
VÔ ÚY THỨ NĂM.
“
Sắp bị người đánh, chém thì dao, gậy liền gãy ”.
Chúng
ta nhớ lại câu chuyện voi say do Vua A xà thế thả ra, theo
lời xúi giục của Đề Bà Đặt Đa, để dẫm đạp đức
Phật khi Ngài đang trên đường đi về tịnh xá. Qua câu
chuyện này, chúng ta mới thấy rằng uy lực dũng mãnh của
tâm Đại Từ, Đại Bi của Phật đã chế ngự voi say khiến
nó quỳ mọp xuống trước mặt Ngài thay vì dẫm đạp Ngài.
Lực
Từ Bi của Quán Thế Âm có công năng làm cho đao kiếm, gậy
gộc gãy lìa làm cho kẻ cầm đao kiếm phải rụng rời tay
chân. Nếu lực cảm niệm Quán Thế Âm càng mạnh chừng
nào thì lực ứng hiện của Ngài mạnh chừng nấy.
•
MÓN
VÔ ÚY THỨ SÁU.
“
Không bị quỉ Dạ Xoa, La Sát, Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Xà, Phú
Đơn Na ám hại ”.
Các
chúng sanh niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm dù gặp
quỉ Dạ Xoa, La Sát, Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Xà, Phú Đơn Na cũng
không bị ám hại. Tuy chúng đứng cạnh bên mà không
thể thấy.
Quỉ
Dạ Xoa, phạn ngữ là Yakahas, là loài quỉ rất hung tợn.
Nhưng cũng có 1 số Dạ Xoa biết hồi tâm hướng thiện, thường
ủng hộ những kẻ tu hành.
Quỉ
Cưu Bàn Trà (Kumbhanda) thuộc loại quỉ hút máu lấy tinh khí
của người. Quỉ Tỳ Xá Xà (Pisatcha) cũng như Cưu Bàn
Trà hút lấy tinh khí của người, tánh tình hung bạo, hình
tướng xấu xa, hôi hám. Quỉ Phú Đơn Na, 1 giống quỉ
hôi hám thường gây bệnh sốt cho người.
Sở
dĩ các loại quỉ nói trên có hình tướng hung bạo, xấu xí
là vì tâm của chúng rất ác. Tâm tức tướng, tâm mình
như thế nào thì hiện tướng ra như thế ấy. Các quỉ
này thường sinh hoạt trong cảnh giới u tối, một khi ra ánh
sáng, chúng không thấy được gì nữa. Hiện thân cho
tâm ác, chúng chỉ có thể sát hại những người ngu si, tàn
bạo, ác độc, chớ gặp người thường trì niệm hồng danh
Quán Thế Âm, được sự che chở của Ngài thì làm gì chúng
có thể ám hại được.
•
MÓN
VÔ ÚY THỨ BẢY.
“
Bị xiềng xích, gông của thì xiềng gông tan rã ”.
Các
thứ cùm kẹp, gông xiềng đều là những dụng cụ trói buột,
làm cho mình mất tự do, giống như các thứ phiền não trói
buộc tâm mình vậy.
Như
đã giải thích ở phần trước, căn trần không trói buộc
chúng ta chỉ có ý thức là kẻ gây nên tội lỗi. Vì
thức buôn vọng chấp nên làm cho mình thấy biết không đúng
trước những sự vật như thế là như thế.
Nhờ
thường xuyên niệm hồng danh Quán Thế Âm, chúng ta sẽ lần
hồi bớt vọng chấp. Tâm không vọng sẽ giúp chúng ta
thấy biết đúng, thấy biết như thật mọi sự việc trên
đời, như thế chúng ta sẽ thoát khỏi sự mọi phiền não
trói buộc, giống như tội nhân đeo gông cùm mà như không
đeo vì tâm đã được tự do rồi.
•
MÓN
VÔ ÚY THỨ TÁM.
“
Đi lạc vào nơi hiểm trở, gặp giặc cướp thì liền thoát
khỏi và không sợ sệt ”.
Các
lối đi hiểm trở tượng trưng cho môi trường sống đầy
nghịch cảnh, cạm bẫy, tranh giành nào là tranh giành chức
quyền, gia tài, sự nghiệp, nào là các lối gạt gẫm, giựt
hụi thường thấy trên thương trường.
Đi
lạc vào nơi hiểm trở còn có nghĩa là lơ là thiếu tỉnh
táo nên không kịp giác niệm để các vọng niệm lục đục,
tham lam lôi cuốn mình. Nếu thường trì niệm danh hiệu
Quán Thế Âm, chúng ta sẽ đề cao cảnh giác đối với các
vọng niệm thất tình, lục dục khiến chúng không thể ám
hại được, nhờ vậy mà chúng ta không còn sợ sệt nửa.
•
MÔN
VÔ ÚY THỨ 9.
“
Chúng sanh nào còn nhiều ái dục sẽ được ly dục ”.
Trì
niệm danh hiệu Quán Thế Âm và lắng nghe tiếng niệm trong
tâm thức sẽ khiến cho tâm thức mình lần hồi được sáng
suốt, không còn buộc mình chạy theo sắc trần nữa.
Dù
là kẻ đa dâm, thường mê đắm dục tình, chúng ta sẽ dễ
dàng lìa xa ái dục. Nhà Phật cho là suối ái dục đã
khô cạn. Chừng đó mắt thấy sắc đẹp cũng như không
thấy vì ý thức của mình đã trở thành vô tình, không còn
bị thất tình tác động nữa.
•
MÓN
VÔ ÚY THỨ 10.
“
Chúng sanh nào còn giận hờn thì hết giận hờn ”.
Sở
dĩ chúng ta còn giận hờn là vì chúng ta thấy người khác
với mình. Tâm phân biệt là nguyên nhân của sân hận,
ganh ghét.
Muốn
dứt trừ sân hận thì phải huân tập tâm thức mình với
câu niệm hồng danh Quán Thế Âm, Lực từ bi vô biên của
Ngài sẽ tác động đến các vọng niệm nhân ngã khiến cho
mình lần hồi tỏ thấu được như vậy thì ý thức phân
biệt của mình sẽ tan biến. Khi mà lý nhứt như ngự
trị trong đầu mình thì làm gì còn sân hận, hờn ghét ?
•
MÓN
VÔ ÚY THỨ 11.
“
Chúng sanh nào còn mê si thì lìa được mê si ”.
Khi
tâm thức đã trở nên sáng suốt nhờ tự lực của Quán Thế
Âm thì mọi thứ phiền não lúc trước đã trói buộc mình
nay biến mất. Tâm sáng suốt thì trí huệ hiện bày.
Nhờ vậy mà chúng ta mới tỏ ngộ được chơn lý tuyệt đối,
thấu rõ được thực tướng của vạn pháp tuy nhiên sai vạn
biệt mà đồng 1 thể tánh. Chừng đó chúng ta nhìn vạn
vật bằng cặp mắt nhứt như, không còn lầm chấp mê muội
thấy mọi sự luôn dưới dạng đối kháng.
•
MÓN
VÔ ÚY THỨ 12.
“
Chúng sanh nào không con mà muốn cầu sanh con trai thì liền
được con trai, phước huệ đầy đủ ”.
Chúng
sanh không con có nghĩa là chúng sanh đau khổ vì cô đơn, thiếu
tình thương của con cháu. Con trai tiêu biểu cho phước
huệ, cầu con trai đối với người tu Phật rốt ráo là tu
cầu công đức và trí huệ.
Niệm
hồng danh Quán Thế Âm cốt để phát huy tâm đại từ, đại
bi nơi lòng mình, để từ đó hành pháp bố thí Ba la mật,
bố thí vô trụ. Chỉ có bố thí vô trụ, như trong kinh
Kim Cang Bát Nhã, đức Phật đã dạy ông Tu Bồ Đề, mới
có thể giúp mình sớm được phước huệ tròn đầy, tức
là được con trai, theo sự nguyện cầu của mình.
•
MÔN
VÔ ÚY THỨ 13.
“
Chúng sanh nào không con, muốn cầu con gái thì liền sanh con
gái xinh đẹp, hiền lành, được mọi người mến yêu ”.
Con
gái tiêu biểu cho mọi thứ duyên lành để trang nghiêm thân
tướng. Duyên lành rất cần thiết đối với các pháp
sư, các thiện trí thức, đại diện cho đức Phật để nói
pháp cho chúng sanh nghe, khiến cho họ tỏ ngộ được Phật
tánh nơi lòng. Không kết duyên với chúng sanh thì khó
dẫn dụ họ đến để họ nghe mình nói pháp. Do đó
Bồ Tát, sau kkhi đắc quả còn phải tu thêm 100 đại kiếp
nữa để có đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp.
Người
tu Phật không còn cầu xin con trai hay con gái như người đời.
Họ chỉ phát đại nguyện tu công đức sao cho có đầy đủ
các tướng tốt để trang nghiêm thân mình, trong khi hành nhiệm
vụ cứu nhân độ thế.
Trì
niệm danh hiệu Quán Thế Âm có công năng giúp chúng ta nhập
được định, từ đó mới phát huệ và sau cùng mới tu công
đức để có đủ các tướng tốt.
•
MÔN
VÔ ÚY THỨ 14.
“
Lễ bái, cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm được phước đức
nhiều như phước đức của người trì niệm danh hiệu và
cúng dường 62 ức hằng sa Bồ Tát ”.
Công
đức cứu khổ, cứu nạn của Bồ Tát đối với chúng sanh
rất vĩ đại, cao như núi Tu Di, sâu như đại dương, không
có gì sánh bằng.
Người
trì niềm danh hiêu Ngài sẽ được hưởng công đức vô lượng
ấy, nếu đem so sánh với công đức của người trì niệm
danh hiệu và cúng dường 62 ức hằng sa Bồ Tát, thì công
đức này cũng không hơn gì công đức kia. So sánh như
vậy cốt để nói lên tánh chất vô lượng của công đức
lễ bái và cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm.
Chúng
ta hãy nghe lời xác minh sau đây của Bồ Tát Văn Thù:
“
Người
cầu pháp giải thoát,
Thành
tựu tâm Đại Bát,
Quán
Thế Âm cao ngất,
Còn
các phương tiện khác,
Đều
nhờ oai thần Phật,
Hổ
trợ dứt long đong,
Chẳng
phải pháp Viên thông. ”
Trên
đây chúng tôi đã trình bày đầy đủ 14 món vô úy của Bồ
Tát Quán Thế Âm mà 2 bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm và Diệu Pháp
Liên Hoa cùng mô tả hầu như giống nhau.
Nhưng
công đức độ sanh của Bồ Tát không phải chỉ gồm có 14
món vô úy này mà thôi. Bồ Tát còn ban bố cho chúng sanh
4 món vô tác nhiệm mầu như sau mà chỉ trong kinh Thủ Lăng
Nghiêm, Ngài mới trình bày trong chi tiết trước pháp hội
của Phật.
Sao
gọi là vô tác ?
Tất
cà Bồ Tát bát Địa đều có hạnh vô công dụng. Tuy
các Ngài làm tất cả mọi việc để giúp đời, cứu độ
chúng sanh nhưng các Ngài nghỉ như không làm, đó là vô tác.
Pháp vô tác là pháp vô cùng tích cực, không vụ lợi,
không vị kỷ, hoàn toàn vô trụ.
7.
4 MÓN VÔ TÁC NHIỆM MẦU.
•
MÓN VÔ TÁT THỨ NHỨT.
Bồ
Tát Quán Thế Âm trình bày với Phật như sau:
“
Khi thành tựu pháp tu nhĩ căn viên thông, tất cả các căn
liền được mở gút, các sự thấy, nghe, hay, biết được
dung hợp tạo thành 1 thứ bửu giác viên thông, thanh tịnh.
Do đó, con thường hiện ra nhiều thân tướng nhiệm mầu hoặc
thường phát ra nhiều thần chú bí mật.
Từ
trong bửu giác, thân con hoặc hiện ra 1 đầu 3, 5, 7, 9,
11 đầu, như vậy cho đến 108 đầu, 1.000 đầu , 10.000 đầu,
84.000 đầu bền chặt, không hoại, hoặc hiện ra 2 tay, 4, 6,
8, 10, 12 tay, nhu vậy cho đến 108 tay, 1.000 tay, 10.000 tay, 84.000
tay, hoặc hiện ra 2 mắt 3, 4, 9 mắt, nhu vậy cho đến 108 mắt,
1000 mắt, 10.000 mắt, 84.000 mắt báu thanh tịnh.
Với
con số 84.000 đầu, tay, mắt, con còn hoặc hiện tướng hiền
lành, hoặc tướng oai mãnh, hoặc tướng định, hoặc tướng
huệ nhằm cứu độ chúng sanh, khiến cho được đại tự
tại ”.
Bửu
giác viên thông, thanh tịnh là tánh biết vô cùng quý báu,
thông suốt, vô ngại và thanh tịnh. Đó là tên gọi đặc
tánh chiếu soi, sáng suốt của Chơn Như Tâm. Bửu giác,
Viên giác đều đồng 1 nghĩa.
Sắc
tướng và âm thanh dù có thiên hình vạn trạng đều phát
xuất từ tánh năng sanh, năng hóa của bản thể.
Đầu
tiêu biểu cho trí, mắt cho cái thấy, tay cho cái lực.
Càng có nhiều đầu, nhiều mắt, nhiều tay thì cái lực hiểu
biết của trí, cái lực thấy của mắt cũng như thần lực
của các tay sẽ càng nhiều chừng này. Tất cả các thứ
lực này nhằm mục đích cứu khổ, cứu nạn, giúp đỡ chúng
sanh. Công đức độ tha nhờ thế mà càng thêm cao đầy,
càng vô lượng, vô biên.
Kinh
Phật thường nói đến 84.000 thứ phiền não luôn khuấy nhiễu
chúng sanh, khiến cho họ không tỏ thấu được chơn lý, không
thấy đúng như thật vạn pháp và không đủ thần lực để
chống chỏi các thú ma lực của vọng tâm.
Nhờ
thành tựu pháp tu nhĩ căn viên thông, Bồ Tát Quán Thế Âm
đã hiện ra đủ 84.000 đầu, 84.000 mắt và 84.000 tay, nghĩa
là Ngài đã có đủ lực hiểu biết, lực thấy và thần lực
để dứt trừ 84.000 phiền não.
Đầu
của Ngài bền chặt, không hư hoại nghĩa là trí lực của
Ngài vừa mạnh vừa sâu lại vừa hằng hữu.
Mắt
của Ngài là mắt báu, thanh tịnh có nghĩa là lực thấy của
Ngài vô cùng sắc bén như Kim Cang trong sáng có thể nhìn thấy
khắp nơi, dù là nơi xa xăm, đen tối.
Ngài
có tới 84.000 tay nghĩa là Ngài có 84.000 cách bắt ấn khác
nhau để trừ tà, chữa bệnh.
Hiện
tướng hiền lành là tướng bi, tướng oai mãnh là tướng
dũng, tướng Định là tướng Tịnh và tướng Huệ là tướng
Trí. Cả 4 tướng Bi, Trí, Dũng và Tịnh đều phát xuất
từ tánh năng sanh của Chơn Như.
Tùy
theo đối tượng cứu độ, Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ sử dụng
1 trong 4 tướng này, không nhứt thiết chỉ sử dụng mãi 1
tướng mà thôi.
Tướng
Bi có công năng cứu khổ, cứu nạn, tướng Trí phá tan mê
lầm tướng Dũng dứt trừ những dục vọng thấp hèn, những
tư tưởng sợ sệt, tướng Tịnh tiêu trừ tâm cuồng loạn,
sân hận. Tất cả 4 tướng ấy đều nhằm mục đích
đem lại cho chúng sanh 1 trạng thái đại tự tại, 1 thứ tự
do tuyệt đối trong hiện tại.
•
MÓN
VÔ ÚY TÁC THỨ NHÌ
Bồ
Tát Quán Thế Âm trình bày tiếp:
“
Nhờ dụng công tu nhĩ căn nên cái nghe của con không bị trệ
ngại. Con sử dụng sắc tướng và thần chú để ban
cho mọi người sự vô úy. Vì thế chúng sanh trong quốc
độ 10 phương đều gọi là con vị Bồ Tát bố thí VÔ ÚY
”.
Cứu
khổ, cứu nạn nhằm mục đích đem lại cho chúng sanh sự
bình an, khiến cho họ hết lo sợ. Bồ Tát Quán Thế Âm
được tất cả chúng sanh tán thán là vị Bồ Tát bố thí
vô úy.
Thể
tánh của pháp giới vốn là 1, nhưng do đặc tánh năng sanh
nên hóa ra nhiều pháp giới tướng, muôn màu muôn vẻ.
Sắc tướng và thần chú của Quán Thế Âm vì vậy cũng đa
dạng và đa dụng. Tùy trường hợp, Ngài thị hiện 1
loại sắc tướng tức là 1 thứ hóa thân với câu thần chú
thích hợp để làm cho chúng sanh đang đau khổ, đang sợ sệt
hết đau khổ, hết sợ sệt.
•
MÓN
VÔ TÁC THỨ 3.
Bồ
Tát còn tiếp:
“
Sau khi con đã thành tựu pháp tu nhĩ căn viên thông, con dạo
khắp thế giới khiến cho chúng sanh sẵn sàng xa bỏ những
gì quý báu của thân để cầu con thương xót ”.
Trong
phẩm Phổ Môn, kinh Pháp Hoa, Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi Phật,
Bồ Tát Quán Thế Âm làm cách nào đi dạo khắp cõi Ta Bà
? Và Phật đã đáp rằng nếu cần 1 thân Phật để độ
thoát chúng sanh nào đó thì Bồ Tát liền hiện thân Phật
để nói pháp.
Nhờ
thế chúng ta mới hiểu vì mục đích gì và bằng cách nào,
Bồ Tát Quán Thế Âm dạo khắp cõi Ta Bà. Ngài lúc nào
cũng tùy thuận chúng sanh mà hiện thân. Chúng sanh niệm
tưởng đến Ngài thì lìền có Ngài đến. Mà chúng sanh
thì ở khắp cõi Ta Bà và cũng ở các thế giới khác.
Cho nên, trong nhiệm vụ cứu khổ, cứu nạn, Bồ Tát luôn
có dịp dạo khắp nơi, không bỏ sót nơi nào trong vũ trụ
bao la.
Xã
bỏ cái Ta còn gọi là không chấp ngã, là cách duy nhứt để
được gần gũi với Bồ Tát Quán Thế Âm, để dược Ngài
thương xót và dẫn dắt đến chỗ toàn giác. Nên nhớ
rằng cái Ta đối với chúng sanh phàm phu là cái quý nhứt
của thân này.
•
MÓN
VÔ TÁC THÚ TƯ.
Cuối
cùng Bồ Tát trình bày như sau:
“
Do ở chỗ hòa nhập được tâm Phật, chứng ngộ cứu cánh
Bồ Đề nên con thường lấy vật báu đem cúng dường chu
Phật 10 phương cho đến hết thảy chúng sanh trong 3 cõi 6 đường,
cầu vợ đặng vợ, cầu con đặng con, cầu chánh định đặng
chánh định, cầu sống lâu đặng sống lâu, cho đến cầu
Đại Niết Bàn đặng Đại Niết Bàn ”.
Trong
kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật giải thích đoạn này như sau:
“
Này Phú Lâu Na ! Sở dĩ Ta được nhứt thiết vô ngại là
vì Ta sử dụng tánh giác diệu minh trong lục căn dung hợp
với Như Lai Tạng. Đó là Ta lấy cái Trí Như Như hợp
với cái lý Như Như. Hơn nữa đối với chúng sanh lầm
chấp, Chơn Như còn tùy duyên uế nhiễm mà sanh ra các tướng
thế gian, huống hồ là khi họ biết tùy thuận Chơn Như mà
Chơn Như lại chẳng tùy theo họ phát sanh những điều diệu
dụng sao ? ”
Nhờ
tùy thuận Chơn Như, tùy thuận tánh giác diệu minh nên Bồ
Tát Quán Thế Âm đã diệu dụng Chơn Như để thỏa mản những
nhu cầu của chúng sanh trong 3 cõi.
Trong
pháp giới sự sự vô ngại, 1 là tất cả, tất cả là 1,
trong lớn có nhỏ, trong nhỏ có lớn, Bồ Tát đã dung hợp
cái trí huệ Phật của Ngài tức là cái Trí Như Như với
cái nguyên lý đồng thể của vạn pháp tức là cái lý Như
Như, cái lý Bất Biến để bố thí những pháp sở đắc của
Ngài cho tất cả chúng sanh. Những pháp đó gồm có tu
Nhĩ căn viên thông, pháp chiếu kiến ngũ uẩn giai không, pháp
Phổ Môn còn gọi là pháp cứu khổ cứu nạn dành cho mọi
người, mọi gia đình.
Vì
tướng tánh không ngăn ngại nhau, nên Bồ Tát có thể cùng
1 lúc cúng dường chu Phật 10 phương, tức là trên 1 thì thông
với chư Phật đồng 1 từ lực, và thỏa mãn các sở cầu
của chúng sanh trong 3 cõi tức là dưới thì hiệp với chúng
đồng 1 lòng bi ngưỡng.
Phàm
phụ mê trần lìa giác, Nhị Thừa mê giác lìa trần.
Cả hai thái độ đều sai lầm.
Người
tu pháp Quán Thế Âm, nhờ có tâm vô trụ, không lìa không
mê nên thành tựu được vô lượng công đức vốn là những
vật báu mà như đã nói trong kinh, Bồ Tát lấy đem dâng chư
Phật gọi là cúng dường, đồng thời đem ban phát cho mọi
loài chúng sanh trong sự nghiệp cứu khổ cứu nạn.
Trong
Phẩm Phổ Môn, khi nói bài kệ để đáp câu hỏi của Bồ
Tát Vô Tận Ý do đâu mà có danh hiệu Quán Thế Âm, đức
Phật cũng đã mô tả món Vô Tác thứ tư với lời xác nhận
là Bồ Tát Quán Thế Âm đã phát thệ sâu rộng nhằm hầu
hạ vô lượng đức Phật đồng thời nhằm dứt trừ 4 thứ
khổ và 3 đường dữ cho chúng sanh.
Nếu
chúng sanh cầu vợ thì đặng vợ, nghĩa là cầu an vui và hạnh
phúc thì dược an vui và hạnh phúc. Nếu cầu con thì
đặng con nghĩa la cầu trí huệ và tướng hảo thì đặng
trí huệ và tướng hảo. Nếu cầu chánh định thì đặng
chánh định, nghĩa là cầu cho tâm được vô trụ khi đối
cảnh, đối pháp thì được vô trụ. Nếu cầu sống
lâu thì đặng sống lâu nghĩa là cầu được thân cận với
chư Phật và Bồ Tát, cầu đạt đến qua vị giải thoát,
vô lượng thọ như các Ngài thì sẽ được. Nếu cầu
Đại Niết Bàn thì đặng Đại Niết Bàn nghĩa là cầu nhập
được cảnh giới Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của chư Phật
hay trạng thái Như Như Bất Động của nội tâm thì sẽ được.
Có
1 điều tối quan trọng mà người tu pháp Quán Thế Âm cần
phải nhớ kỹ, đó là hạnh phụng sự chúng sanh với lý tưởng
Đại Từ Bi Cứu khổ cứu nạn. Chúng ta thực hiện pháp
Phổ Môn không phải để thỏa mãn những mục tiêu ích kỷ
như đắc thần thông, mong được người đời tôn xưng và
hầu hạ mình.
Hành
pháp Quán Thế Âm rốt ráo là song tu Phước huệ còn gọi
là Bố thí vô trụ, là song tu Thiền Mật, với 3 diệu pháp:
•
Lắng nhìn, lắng nghe vô sở thọ.
•
Chiêu kiến ngũ uẩn giai không,
•
Phổ Môn
Cùng
4 đại thần chú:
•
Bát Nhã trong tâm kinh Bát Nhã,
•
Đại Bi trong kinh Thiên Thủ, Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát.
•
Lục tự đại minh,
•
Chuẩn Đề.
Pháp
Quán Thế Âm có nhiều ưu điểm. Kinh Phật giảng dạy
rất nhiều pháp tu, pháp nào cũng đều là pháp lành nhằm
giúp mình chúng ta hàng phục vọng tâm. Người tu Nhị
Thừa tuy biết mình không còn bị lụy vì khổ đau nhưng không
giúp ích gì cho chúng sanh. Còn những ai tu pháp Đại Thừa,
chẳng những có thể tự mình làm cho mình hết khổ mà còn
giúp cho mọi người được lợi lạc. Tu pháp Quán Thế
Âm sẽ gia tốc quá trình dứt khổ, đồng thời gia tốc việc
thành tựu công đức và trí huệ để rồi lần hồi đạt
đến quả vị chánh đẳng, chánh giác. Ngoài ra, người
tu pháp Quán Thế Âm chắc chắn còn được sự hộ trì của
hóa thân Quán Thế Âm. Người niệm hồng danh Quán Thế
Âm, sau 1 thời gian tu tập, nếu biết tâm mình đã thật sự
an nhiên, tự tại dù đứng trước mọi hoàn cảnh hay nghịch
cũng vậy, thì người đó đã đắc pháp Quán Thế Âm rồi
vậy.
Chúng
ta nên nhớ rằng người nào luôn sống với Phật tâm của
mình thì người đó sẽ thoát khỏi sự trói buộc của thế
gian. Trái lại, nếu sống với thất tình, lục dục,
với tham sân si thì chắc chắn sẽ gặt hái khổ đau , phiền
não. Đó là quy luật nhân quả luôn chi phối mọi chúng
sanh trong tam cõi, không kể chư Phật và Bồ Tát vì các Ngài
không còn gieo nhân nữa, dù là nhân lành.
Tóm
lại, 4 món vô tác nhiệm mầu, tuy Phật không minh thị trong
Phẩm Phổ Môn, nhưng cũng được nhắc sơ qua. Dù sao
đó cũng là những hình thức thị hiện tâm Đại Từ, Đại
Bi của Bồ Tát Quán Thế Âm với các chúng sanh đang đau khổ.
Pháp
Phổ Môn tiêu biểu cho hạnh phúc cứu khổ cứ nạn của Bồ
Tát vốn được người đời tôn vinh là đấng trọn lành,
trọn sáng lúc nào cũng sẳn sàng bố thí Vô Úy. Dù được
gọi là 14 món vô úy hay 4 món vô tác tất cả đều nhiệm
mầu, đều không thể nghĩ bàn. Đối với chúng sanh thì
gọi là những món vô úy, vì chúng đem lại cho họ sự bình
an nơi lòng, dứt sạch những món vô tác, vì Bồ Tát làm mà
như không làm, cứu giúp mà như không cứu giúp.
Cùng
1 hành động cứu khổ mà trong kinh thì gọi là món vô úy,
khi thì gọi là món vô tác.
Pháp
Phổ Môn là pháp tu công đức, từ trước đến nay được
hiểu như là pháp chỉ có các Bồ Tát hòa nhập Chơn như mới
có thể diện dụng Chơn Như trong sự nghiệp xây dựng công
đức để trang nghiêm quốc độ của mình.
Diệu
dụng Chơn Như có nghĩa là giữ tâm vô trụ. Nhưng nay
thì khác rồi. Với cái đà tiến bộ nhanh như vũ bảo
của Khoa học Kỹ Thuật, người tu Pháp Quán Thế Âm, lòng
tràn đầy Bi, Trí luôn vững tin nơi sức hộ trì của Bồ
Tát, không thể làm ngơ, nhắm mắt trước những nỗi khổ
đau của nhân loại. Không cần phải chờ đến ngày hoàn
tất lộ trình đi từ Sắc đến không mới phát đại hạnh
nguyện cứu khổ cứu nạn. Chỉ cần sớm tỏ ngộ Chơn
Tâm, nắm vững mặt thực dụng của các pháp thì chúng ta
có thể bắt tay vào công việc phụng sự tha nhân, phát huy
công hạnh Phổ Môn của Bồ Tát Quán Thế Âm.
IV.
PHẦN MẬT TÔNG
Trong
Phật giáo cũng như trong các tôn giáo khác luôn có 2 phần:
Hiển và Mật. Hiển giáo là những giáo lý được chỉ
bày rõ ràng, dễ hiểu. Mật giáo là những lời dạy
bí mật, khó hiểu, ít được phổ biến.
Mật
Tông thuộc về Mật giáo, là môn bí yếu nhứt trong Phật
pháp. Do ở chỗ bí yếu đó chúng ta cần phải rõ sự
khác biệt giữa các loại thần chú (Đà-La-Ni) như đảnh chú,
tâm chú và tùy tâm chú.
Chúng
sanh trong 3 cõi cũng có những Đà-La-Ni còn gọi là bùa chú,
nhưng bùa chú như bùa Lỗ ban chẳng hạn, không phải là Đà-La-Ni
giải thoát mà chỉ là những tần số rung động của thất
tình, lục dục. Đà-La-Ni của Bồ Tát phát xuất từ
hạnh nguyện và trí huệ, ngoài lợi ích về vật chất còn
đưa đến quả giải thoát rốt ráo.
1.
ĐẢNH CHÚ
Đà-La-Ni
của chư Phật thường phát xuất từ đỉnh đầu, nơi có
hào quang 1,000 cánh, nên được gọi là đảnh chú. Đảnh
chú là thành quả tu tập lý, sự, tướng tánh viên dung, bình
đẳng, bất nhị. Nếu ai trì niệm đảnh chú thì với
thời gian sẽ đạt được trí huệ và hạnh nguyện của vị
Phật, tác giả đảnh chú ấy và người đó sẽ ở trong pháp
hệ của Ngài.
Như
Bồ Tát Quán Thế Âm thọ lảnh đảnh chú ĐẠI BI của Phật
Thiên Quang Vương Tịnh Trụ. Sau khi thành tựu đảnh chú,
Bồ Tát liền thuộc về pháp hệ của Phật Tịnh Trụ mà
trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Bồ Tát đã tôn xưng là Phật Quán
Thế Âm.
Trong
kinh Pháp Hoa, Phẩm 1: Tựa, chúng ta thấy vào thời quá
khứ xa xôi, có 2 muôn đức Phật cùng 1 danh hiệu là Nhật
Nguyện Đăng Minh, lần lượt xuống thế nói kinh Pháp Hoa để
giáo hóa chúng sanh. Các đức Phật này thuộc pháp hệ
Nhật Nguyệt Đăng Minh.
Đãnh
chú là loại Đà-La-Ni tối thượng, có công năng giúp chúng
ta đạt được nhiều tam muội giải thoát, phát huy tối đa
trí huệ và các uy lực của vũ trụ. Các Bồ Tát Thập
Địa vẩn phải trì niệm đãnh chú cho đến khi thành Phật.
2.
TÂM
CHÚ
Tâm
chú do các Đại Bồ Tát thiết lập trong khi thực hành bổn
nguyện độ sanh. So với đảnh chú của chư Phật, tâm
chú có công năng kém hơn, chỉ có thể giúp chúng ta đắc
1 vài tâm muội tức là 1 vài thần thông giải thoát.
Khi
bồ Tát đã phá vỡ được 1 sở chấp cố hữu của mình
thì liền đó phát sinh những tần số rung động, tần số
ấy là kết quả của lý và sự được hoàn mãn trong hạnh
phá chấp của Bồ Tát. Tần số tư tưởng ấy được
gọi là Đà-La-Ni vì nó tổng trì lý và sự. Tâm chú
không phải là nhân, là hột giống chánh mà là 1 nhân phụ
có nhiệm vụ hổ trợ các đảnh chú bằng cách bứt phá các
tạp nhiễm. Vì thế mới nói rằng tâm chú có công năng
tiêu trừ các nghiệp.
3.
TÙY
TÂM CHÚ
Tùy
tâm chú thuộc loại phụ phát sinh từ tâm chú. Một tâm
chú đôi khi có nhiều tùy tâm chú, đó là những câu chú ngắn
mà Bồ Tát đã phát minh sau khi thành tựu việc đối trị
1 thứ vọng tâm nào đó mà Bồ Tát thường vướng mắc.
Qua
phần trình bày sơ lược trên đây, chúng ta thấy rằng đảnh
chú, tâm chú hoặc tùy tâm chú, nếu được trì niệm liên
tục, chẳng những có công năng tiêu trừ tất cả nghiệp
mà còn giúp chúng ta thâm nhập được kho tàng Đa-La-Ni của
chư Phật và Bồ Tát, từ đó mới rốt ráo hòa nhập các
lực vô biên của vũ trụ.
Mật
Tông như đã nói, ít được phổ biến trong các giới Phật
tử, vì nó là 1 môn học bí mật, chỉ có các vị chân sư
mới tâm truyền cho đệ tử mà thôi. Các sách về Mật
Tông được lưu truyền từ trước đến nay chỉ đề cập
đến các hình thức về đàn pháp, khế ấn chứ tuyệt nhiên
không phổ biến bí quyết thâm nhập kho tàng Đà-La-Ni.
Vì thế công phu tu Mật Tông bề ngoài tuy có giúp cho hành
giả đạt được 1 vài thần thông, nhưng trong rất nhiều
trường hợp đã khiến cho hành giả rơi vào nẽo tà.
Do đó có thể nói Mật Tông là con dao 2 lưỡi, ngay khi nó
trao cho mình 1 ít thần thông, nó đã hại mình rồi.
Người
tu Thiền ít để ý đến việc trì niệm thần chú, chỉ chú
trọng đến công phu quán chiếu để có thể sớm thành tựu
định lực và quán lực rất cần thiết cho việc phát huy
trí huệ.
Người
tu Mật Tông, trái lại, chuyên trì niệm thần chú, nhờ vậy
mà các vòng niệm nằm sâu trong tạng thức lần hồi được
chuyển hóa thành những chơn niệm do sức mạnh của các tần
số âm ba trong câu chú. Vô tình, họ đã thành tựu Định
Huệ mà không mất nhiều thời giờ để hành các pháp quán
như bên Thiền Tông.
Như
đã nói, Pháp Quán Thế Âm chủ trương Thiền Mật song tu.
Nếu hiểu biết đúng và thực hành đúng thì chúng ta rút
ngăn thời gian tu tập, bởi lẽ các vọng trong tạng thức
đã bị 2 thứ lực, tự lực và tha lực, cùng 1 lúc chuyển
hóa. Kết quả đạt được sẽ là 1 trạng thái an vui,
tự tại, đại Niết Bàn nội tâm.
A.
TÂM
CHÚ BÁT NHÃ
Tâm
kinh rất cô đọng, ngắn gọn, 1 chữ cũng không thừa mà cũng
không thiếu. Tâm kinh tuy gồm vỏn vẹn có 260 chữ nhưng
trong đó lại có 18 chữ của tâm chú được ghi lại như sau:
Theo
Hán văn:
YẾT
ĐẾ, YẾT ĐẾ, BA LA YẾT ĐẾ, BA LA TĂNG YẾT ĐẾ, BỒ ĐỀ,
TÁT BÀ HA.
Theo
Phạn văn:
GATE,
GATE, PARAGATE, PARASAMGATE, BODHI, SVAHA.
Dịch
theo âm Việt: Gatê, gatê, baragatê, barasămgatê, bôđi,
xoa ha.
Tuy
không thể thấu hiểu trọn vẹn ý nghĩa của tâm chú, nhưng
chúng ta cũng có thể gượng gạo tạm dịch như dưới đây:
Đi
qua, đi qua, đi qua bờ bên kia, rốt ráo đi qua bờ bên kia,
sẽ được giác ngộ. Chúc may mắn.
Chú
Bát Nhã do Bồ Tát Quán Tự Tại, 1 danh hiệu khác của Bồ
Tát Quán Thế Âm, phát minh sau khi Ngài đã dứt trừ xong các
thứ ngã chấp vi tế trong tạng thức của Ngài, vì thế chú
Bát Nhã được gọi là tâm chú.
A1.
Cách
trì niệm tâm chú Bát Nhã.
Bất
cứ thần chú nào, dù là đảnh chú, tâm chú hay tùy tâm chú,
tất cả phải được trì niệm trong tâm, không nên phát ra
thành tiếng, bởi lẽ tần số âm ba của câu chú một khi
đã phát âm sẽ không lớn mạnh nên không thể bứt phá nhanh
chống các vọng niệm. Có nhiều người tụng chú như
tụng kinh vì họ nghĩ rằng tụng đọc như vậy họ không
loạn tâm, họ có thể dễ dàng theo dõi từng chữ một trong
câu chú, nhưng họ có biết đâu tụng chú không đem lại kết
quả mong muốn.
Giữ
tâm sáng suốt để niệm chú là 1 việc khó, khi mới bắt
đầu, bởi lẽ chúng ta thường hay lãng trí, thường hay nghĩ
đến những chuyện viễn vông. Không biết mình đang đọc
thầm tới đâu. Do đó phải hết sức chú ý nghe cho rõ
trong tâm, từng chữ một, trước là để tập thói quen lắng
nghe, sau nữa để giác kịp thời các tạp niệm có thể xẹt
ra thình lình trong đầu.
A2.
CÔNG
NĂNG CỦA TÂM CHÚ BÁT NHÃ.
Tâm
chú Bát Nhã nếu được trì niệm thường xuyên và được
phối hợp với việc quán tưởng câu ngũ uẩn giai không.
Sẽ mau chóng chuyển hóa tất cả mọi vọng niệm chấp ngã,
chấp pháp từ lâu đã ẩn núp sâu kín trong tạng thức của
mỗi người chúng ta.
Qua
kinh nghiệm và kết quả tu tập của Bồ Tát, chúng ta thấy
rằng việc Ngài dạy chúng ta tâm chú Bát Nhã không phải không
có dụng đích. Ngài đã từng rõ thấu tâm chấp ngã
rất khó dứt trừ, đúng như lời Phật đã dạy trong chương
10 kinh Viên Giác. Ngài nói:
Hễ còn biết mình chứng đắc thì vẫn còn ngã tướng vi
tế.
Nếu trong tâm mình còn 1 chút hiểu biết về việc chứng đắc
thì vẫn còn nhân tướng vi tế.
Khi cả 2 tướng này được trừ mà còn có cái tâm rõ biết
thì vẫn còn chúng sanh tướng vi tế.
Cuối cùng, cái tâm rõ biết ấy còn gọi là trí giác vẫn
phải tiếp tục tu các pháp vô lậu thêm 1 thời gian dài nữa
để tự tiêu diệt, chừng đó thọ mạng tướng vi tế mới
thật sự chấm dứt.
Trì
niệm tâm chú Bát Nhã có công năng chuyển hóa tất cả mọi
vọng niệm giống như hành pháp chiếu soi ngũ uẩn. Tâm
kinh đánh giá rất cao pháp chiếu soi, vì pháp này có thể
giúp hành giả đạt dược 4 tầng chứng ngộ, mỗi tầng tương
đương với 1 uy lực của tâm chú, chẳng hạn như chứng quả
tầng 1 với pháp chiếu soi thuộc uy lực của đại thần chú,
tầng 2 của đại minh chú, tầng 3 của vô thượng chú, tầng
4 của vô đẳng đẳng chú.
Chứng
quả tầng 1 là chứng quả Thập Tín, tầng 2 là quả Tam Hiền,
tầng 3 là quả Thập địa, tầng 4 là quả Phật.
Như
thế, chúng ta thấy rằng tâm chú Bát Nhã có công năng vô
cùng vĩ đại đưa chúng ta từ quả vị Thập Tín đến quả
vị Phật.
Từ
lâu, theo truyền thống, tâm kinh Bát Nhã luôn được các tăng
ni đọc tụng để chấm dứt các buổi lễ lạc, các buổi
nói pháp. Đó là 1 nghi thức không thể thiếu, được
áp dụng trong các chùa chiền Việt Nam. Có lẽ do tính
chất cô đọng, ngắn gọn, do ý nghĩa sâu mầu rốt ráo của
Tâm Kinh nên được các tăng ni ưa thích khi phải kết thúc
những buổi sinh hoạt thường nhật trong chùa.
B.
ĐÃNH
CHÚ ĐẠI BI
Theo
kinh Thiên Thủ, Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát, quảng đại,
viên mãn, vô ngại, Đại Bi Tâm Đa-La-Ni, thì chú Đại Bi là
do đức Phật Thiên Quang Vương Tịnh Trụ mật truyền cho Bồ
Tát Quán Thế Âm vào thời quá khứ xa xưa, khi Bồ Tát còn
ở đẳng vị Sơ Địa. Vì thế chú Đại Bi mới được
gọi là đảnh chủ.
B1.
Công
năng của đảnh chú Đại Bi.
Công
năng của đảnh chú Đại Bi rất lớn. Theo lời trình
bày của Bồ Tát Quán Thế Âm trước đức Phật Thích Ca thì
người trì niệm đảnh chú sẽ:
1.
Không còn bị đọa vào địa ngục ngạ quỉ súc sanh, trái
lại được vãng sanh về các cõi Phật.
2.
Được vô lượng biện tài tam muội.
3.
Các sở cầu chánh đáng và chí thiện đều được như ý.
4.
Dứt trừ tất cả nghiệp chướng, mọi thứ tội ác kể cả
tội ngũ nghịch.
5.
Không chết vì đói khát, tù tội, oán tặc, giặc giả, thú
dữ, rắn độc, nước, lửa, độc dược, độc trùng, cuồng
điên, tế ngã, trù ếm, tà thần, bệnh nan y, tự vận, trái
lại được thọ sanh ở những nơi an lành, giàu sang, đạo
đức để có thể gặp Phật, nghe pháp.
Ngoài
ra, hành giả sẽ được các thần linh như thân Kim Cang, Thiên
Long Bát Bộ thường xuyên hộ trì, sẽ thâm nhập được Đà-La-Ni
của Bồ Tát Quán Thế Âm tức là sẽ tỏ ngộ Phật thân
nơi mình, được ánh sáng trí huệ, sẽ phát huy tâm Đại
Từ, Đại Bi trong sự nghiệp cứu khổ, cứu nạn, sẽ chữa
trị mọi chứng bệnh của chúng sanh, sẽ chứng đắc diệu
pháp, thành tựu trăm ngàn tam muội cũng như vô lượng thần
thông không thể nghĩ bàn.
Tâm
của hành giả sẽ là tâm vô úy, tâm thường trụ, tâm giải
thoát, tâm không. Công đức mà hành giả thành tựu sẽ
vô cùng vĩ đại, không thể nghĩ bàn.
Đức
Phật Thích Ca đã xác minh trước chúng hội công năng vi diệu
của đảnh chú khi Ngài dặn dò ông Anan Phải thọ trì là
lưu truyền nó cho chúng sanh đời sau được hết bệnh, hết
khổ. Ngài nói tụng đảnh chú vào cây khô, cây sè sanh
lá, trỗ bông kết trái, huống hồ là chúng sanh có tình thức
mà không được lợi ích gì hay sao ?
Đảnh
chú còn được đức Phật đặt cho 9 tên như sau:
1.
Đàlani quảng đại, viên mãn
2.
Đàlani vô ngại, đại bi
3.
“ cứu khổ,
4.
“ diên thọ (kéo dài tuổi thọ, vô lượng
thọ)
5.
“ diệt ác thú
6.
“ trừ các nghiệp chướng
7.
“ mãn nguyện
8.
“ tùy tâm tự tại
9.
“ tốc siêu thánh địa (vượt nhanh lên đẳng vị
thập địa Bồ Tát).
B2.
Cách
trì niệm
Theo
lời dạy của Bồ Tát Quán Thế Âm thì mỗi ngày hành giả
phải trì niệm ít nhứt 5 biến trung bình 21 biến, nhiều nữa
108 biến, tùy theo khả năng và thời gian rãnh rỗi của mình.
Trước
khi trì niệm, hành giả phải phát tâm Đại Từ, Đại Bi,
ban vui cứu khổ cứu nạn đối với mọi loài chúng sanh.
Sau đó, trì niệm liên tục cho đủ số biến đã định sẵn.
Không nên trì niệm theo lối tùy hứng, khi thì ít, khi thì
nhiều. Trì niệm đều đặn, tin tưởng tinh tấn, thanh
tịnh thì trước sau rồi cũng được chứng nghiệm. Thành
tựu đảnh chú nhanh hay chậm đều do tâm mình, chớ đảnh
chú lúc nào cũng có công năng. Đừng sanh tâm nghi ngờ
tánh cách linh ứng của đảnh chú, trái lại nên xem xét mình
có nghiêm trì giới luật chưa, tâm mình có thật sự tinh tấn
chưa, có phát huy Đại Từ Bi chưa, thân, khẩu, ý của mình
có được thanh tịnh chưa ?
Hành
giả nên tắm gội sạch sẽ, thay đổi áo quần vì ngại dính
mồ hội, súc miệng rửa tay trước khi ngồi vào bàn để
trì niệm.
Trên
bàn nên đặt hình hay tượng Phật Thích Ca và Bồ Tát Quán
Thế Âm với đầy đủ hương hoa nhang đèn.
Đức
Phật Thích Ca dạy thêm rằng muốn dứt trừ nghiệp chướng
hay 1 tai nạn đặc biệt nào đó, thì phải chí tâm danh hiệu
của Bồ Tát Quán Thế Âm và trì niệm đủ 1000 biến đảnh
chú Đại Bi.
B3.
TÂM
ĐÀN PHÁP (MANDALA)
Đàn
pháp, phạn ngữ là Manđala, dịch âm là mạn đà la cò 2 thứ:
tướng đàn pháp là đàn pháp được thiết lập với các
hình tướng; tâm đàn pháp vốn là những sự chuẩn bị trong
tâm của hành giả.
Đàn
pháp có công năng hỗ trợ cho đảnh chú sớm đạt linh nghiệm.
Công năng của tâm đàn pháp mạnh hơn rất nhiều so với tướng
đàn pháp.
Hành
giả phải chuẩn bị tâm mình như thế nào ?
Trước
khi trì chú, hành giả phải có tâm tương ứng với đảnh
chú. Nên biết rằng đảnh chú là kết quả tu chứng
tâm Đại Bi của Phật Thiên Quang Vương Tịnh Trụ được
mật truyền cho Bồ Tát Quán Thế Âm. Nhờ sự rung động
của tâm này nên mới phát sinh bài chú. Phật Tịnh Trụ
đã thành tựu tâm bình đẳng nơi các pháp, đồng thời hoàn
mãn sự nghiệp độ tận chúng sanh. Nay trì niệm Đalani
của Ngài, chúng ta phải có tâm tương ưng, nghĩa là chúng
ta phải khởi tâm bình đẳng nơi các pháp. Nếu chưa
tỏ ngộ được điều này, chúng ta phải nương vào trí huệ
Phật để ý thức rằng tất cả các pháp đều là Phật pháp,
và trên quan niệm đó tiếp tục suy tư và hành động thì
lần hồi tâm sẽ được bình đẳng. Được như vậy
mới gọi là ngộ nhập bình đẳng tánh trí.
Song
song với việc tu tập bình đẳng tâm, chúng ta còn phải biết
hồi hướng công đức cho pháp giới chúng sanh để họ được
sớm viên thành Phật đạo. Nên nhớ hồi hướng công
đức sau khi trì niệm đảnh chú.
Ngoài
ra chúng ta còn phải hành lục độ Ba la mật: bố thí,
trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, nhứt
là hành pháp bố thí gồm có tài thí, vô úy thí, pháp thí.
Nhưng bố thí đề cập ở đây không phải theo lối bố thí
thường thấy nơi người đời mà là bố thí vô trụ, vì
bố thí vô trụ mới có thể tương ứng với tâm Đại Bi
của đảnh chú.
Nếu
chúng ta không chuẩn bị sẵn sàng 3 thứ tâm nói trên:
bình đẳng tâm, hồi hướng tâm, từ bi tâm, mà lao đầu vào
việc trì niệm chú thì sẽ không đạt được kết quả.
Hơn
nữa, hành giả trì niệm Đại Bi tâm Đàlani phải phát tâm
sám hối các tội đã phạm từ trước đến nay. Dưới
đây là câu vô tướng sám hối thường được áp dụng:
“
Nay con xin sám hối tất cả tội lỗi mà con đã gây nên từ
trước đến giờ bởi tham, sân, si và thân, khẩu, ý.
Con thành tâm nguyện tiêu trừ hết, không còn tái phạm ”.
Cuối
cùng, hành giả phải phát huy tâm trùng hưng và truyền thừa
chánh pháp, phải có tâm hoan hỉ đối với pháp sư, thiện
trí thức vì những người này thay thế đức Phật trong sự
nghiệp hoằng hóa. Nhưng nên nhớ rằng nếu họ hành
không đúng chánh pháp tức là họ không phải thiện trí thức
thì chúng ta nên lánh xa, không nên ủng hộ.
Tu
tập Đàlani thì chớ khởi tâm mong cầu những quyền phép
hay thần thông vì làm như thế, mình sẽ rơi vào tà pháp,
dĩ nhiên sẽ không thành tựu Đàlani.
Cần
sử dụng bình đẳng tâm, tự tại tâm, từ bi tâm làm thước
đo việc tu chứng. Nếu xét thấy mình có đầy đủ 3
thứ tâm này thì chúng ta đã thành tựu Đàlani rồi vậy.
B4.
BẢN
VĂN ĐẢNH CHÚ ĐẠI BI
Phạn
Ngữ (Sanskrit):
Nam
mô Hội Thượng Phật, Thiên thủ, Thiên nhãn, Bồ Tát Quán
Thế Âm, quảng đại, viên mãn, vô ngại Đại Bi tâm Đàlani.
Namo
ratnatràyàya. Namo Aryà valokiteshvaràya Bodhisattvaya
Mahasattvaya Mahàkarunikàya. Om. Sarva rabhaye Sudhanadàsya.
Namo Skritva I mom Aryà Valokitesvara Rambhava. Namo Narakindi
Herimahà Vadhàsame. Sarvà athas Dusubhum ajeyam sarva sarva
namovarga Mavàdudhu. Tadyathà. Om. Avaloki lokite
karate. Ehre, Mahà bodhisattva Sarva Sarva, Mala Mala.
Mahe Mahredhayam kuru kuru karman. Dhuru Dhuru, vajàyate Mahà
vajayate. Dhara Dhara, Dhirini Svaràya. Chala
Chala, Mamavamara Muktele. Ehe Ehe, Cinda Cinda. Arsam
prachali. Vasa Vasam, prasàya Huru Huru Mara.
Huru Huru Hri, Sara Sara, Siri Siri, Suru Suru. Bodhiya Bodhiya,
Bodhaya Bodhaya. Maitreya, Narakindi Dharsinina.
Payamana svaha, Siddhaya svàhà. Maha Siddhàya svaha.
Siddhayoge Svaraya svaha. Narakindi svàhà. Marànarà svaha.
Sirasam Armukhàya svaha. Sarva Mahà Asiddhaya svaha. Chakra
Asiddhaya svaha. Padmakastaya svaha. Narakindi Vagaraya svaha.
Mavari Samkraya svaha. Namo Ratnatràyàya. Namo
Aryàvalokiteshvaraya svaha. Om, Siddhyantu mantra pàdàya.
Svàhà.
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam
Mô Thiên thủ, Thiên nhãn, Bồ Tát Tự Tại Quán Thế Âm.
Hán
Việt:
Nam
mô Hội Thượng Phật, Thiên thủ, Thiên nhãn, Bồ Tát Quán
Thế Âm, quảng đại, viên mãn, vô ngại Đại Bi tâm Đàlani.
Nam
mô hắc ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da.
Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ Đề tát đỏa
bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô
ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ.
Số đát na đát tả. Nam mô tất kiệt lật đỏa
y mông a rị da. Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng
đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị, ma
ha bàn đa sa mế. Tát bà tát bà a tha đậu du bằng.
A thệ dựng. Tát bà tát đa na ma bà tát đa.
Na ma bà dà. Ma phạt đạt đậu đát điệt tha.
Án. A bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế.
Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát
bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà
dựng. Cu lô cu lô yết mông. Độ lô đồ
lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế.
Đà la đà ra. Địa rị ni. Thất Phật
ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra.
Mục đế lệ. Y hê di hê. Thất na thất
na. Ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt sa phạt
sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra.
Hô lô hô lô hê lỵ. Ta ra ta ra. Tất rị
tất rị. Tô rô tô rô. Bồ Đề dạ Bồ
Đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế
lỵ dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc
ni na. Bà dạ ma na. Ta bà ha. Tất
dà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ.
Ta bà ha. Tất đà dũ nghệ. Thất bàn ra
dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì.
Ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà ha.
Tất ra tăng a mục khê da. Ta bà ha. Ta bà
ma ha a tất đà dạ. Ta bà ha. Giả kiết
ra a tất đà dạ. Ta bà ha. Ba đà ma kiết
tất đà dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn
đà ra dạ. Ta bà ha. Ma bà rị thắng yết
ra dạ. Ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa
ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô kiết đế.
Thước bàn ra dạ. Ta bà ha. Án. Tất điện
đô. Mạn đà ra. Bạt đà gia.
Ta bà ha.
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam
Mô Thiên thủ, Thiên nhãn, Bồ Tát Tự Tại Quán Thế Âm.
C.
TÂM CHÚ LỤC TỰ ĐẠI MINH
Sau
khi thành tựu đảnh chú Đại Bi, Bồ Tát Quán Thế Âm nhập
đại định nói Lục tự Đại Minh chơn ngôn: OM MANI PADME
HUM. Đây là bổn tâm vi diệu của Bồ Tát, 1 tâm chú
rất ngắn chỉ gồm có 6 chữ mà thôi.
C1.
CÔNG
NĂNG CỦA TÂM CHÚ LỤC TỰ ĐẠI MINH
Người
nào trì niệm thường xuyên tâm chú này:
1.
Sẻ được chư Phật, Bồ Tát, Thiên Long Bát Bộ hộ trì.
2.
7 đời thân tộc sẽ được giải thoát.
3.
Sẽ được đầy đủ lục độ Ba la mật, công đức viên
mãn, biện tài vô ngại, trí huệ tròn sáng.
4.
Hơi từ miệng phát ra, nếu chạm đến người nào thì người
đó liền hết sân hận, phiền não.
5.
Công đức biên chép câu chú truyền cho người khác vô lượng.
C2.
ẢNH
HƯỞNG CỦA TÂM CHÚ LỤC TỰ ĐẠI MINH ĐỐI VỚI NGƯỜI TÂY
TẠNG
Chúng
ta nên biết xứ Tây Tạng trên núi Hi Mã Lạp Sơn là 1 xứ
vô cùng huyền bí. Mật Tông đã được phổ biến khắp
xứ này bắt đầu từ thế kỷ thứ 8 sau Tây lịch, nhờ sự
nghiệp truyền bá của ngài Liên Hoa Sinh ( Padma Sambhava ), 1
đại sư Mật Tông Ấn Độ.
Người
dân Tây Tạng, từ kẻ nhỏ đến người già, ai ai cũng am
tường Lục Tự Đại Minh chú. Họ có thói quen viết
tâm chú trên tường, tảng đá, lá cờ, lá phướn, lá cây
để ban rãi phước lành cho mọi người khắp 4 phương.
Từ trên núi cao đến nơi rừng sâu, ở các ngã ba ngã tư
đường, dù là đường lớn, đường mòn, ngỏ hẻm, đâu
đâu cũng thấy 6 chữ OM MANI PADME HUM viết theo chữ Tây Tạng.
Nhờ
trì niệm liên tục tâm chú này nên phần đông dân Tây Tạng
tỏ ra rất hiền lành, rất thương nhau, sẵn sàng chia cơm
sẻ áo với mọi người, thậm chí với súc vật. Có
thể nói những chủng từ tham, sân, si của họ đã được
chuyển hóa thành những chủng tử OM MANI PADME HUM, tức là
của hoa sen báu đáng quý.
Câu
chuyện 1 bà cụ Tây Tạng đói rách, được 1 lữ khách ngoại
quốc tặng cho 1 ổ bánh mì, bà cụ mừng rỡ tính bỏ vào
miệng ăn, chợt thấy 1 con chó đói đang chạy tới, bà cụ
không ngần ngại bẻ ổ bánh mì làm hai, chia cho con chó phân
nửa, còn bà chỉ ăn phân nửa. Phải chăng đó là tình
thương bình đẳng, giữa người và súc vật ? Người
lữ khách Tây Phương rất đỗi ngạc nhiên khi thấy cử chỉ
đầy tình thương của bà cụ Tây Tạng.
D.
TÂM
CHÚ CHUẨN ĐỀ
D1.
Nguồn gốc tâm chú chuẩn đề.
Theo
lời trần thuật của Bồ Tát Quán Thế Âm thì sau khi thành
tựu đảnh chú Đại Bi, ngài nhập đại định nói Lục Tự
Đại Minh chơn ngôn: OM MANI PADME HUM.
Từ
trong tâm chú này hiện ra thất cu chi Phật Mẫu (1 cu chi = 100,000)
tức là 700,000 Phật Mẫu Chuẩn Đề Vương, tất cả đều
trì niệm Chuẩn Đề chơn ngôn. Bồ Tát Chuẩn Đề chỉ
có 18 tay và là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Vì
thế chú Chuẩn Đề được phát sinh từ đảnh chú Đại Bi,
nên được gọi là tâm chú.
D2.
Bản văn tâm chú Chuẩn Đề.
a)
Phần qui kính
Khởi
thủ quy y Tô Tất Đế
Đầu
diện đảnh lễ Thất Cu Chi
Ngã
kim xưng tán Đại Chuẩn Đề
Duy
nguyện từ bi thường gia hộ.
b)
Tâm chú Chuẩn Đề
Phàn
Ngữ (Sanskrit):
Namah
(Namo) saptanam samyak sambodhi Kothinam Tadyatha. Om chale chole
chunde svaha. Bhrum.
Hán
Việt:
Nam
mô Tát đa nẫm Tam miệu Tam Bồ Đề Cu Chi nẩm Tát điệt
tha. Ấn chiết lệ, chủ lệ, Chuẩn Đề Ta Bà Ha.
Bộ lâm.
D3.
Cách
trì niệm
Có
thể trì niệm phần qui kính 1 lần hay 3 lần. Xong rồi
hành giả mới trì niệm câu chú Chuẩn Đề bao nhiêu lần
cũng được, càng nhiều càng tốt. Trì niệm trong tâm
và không dùng chuỗi để đếm. Không nên đọc thành
tiếng hay mấp máy môi lưỡi. Có thể trì niệm trong
4 uy nghi. Khi niệm phải biết mình đang niệm tới chữ
nào rồi, không nên nghĩ tưởng đến việc khác.
Hành
giả tùy thích trì niệm chơn ngôn chữ Phạn hay chữ Hán Việt,
không bắt buộc phải trì niệm cả 2.
LƯU
Ý
Trong
tâm chú Chuẩn Đề không có chữ (Bhrum) dịch âm là Bộ lâm.
Sỡ dĩ chữ này được ghép vào tâm chú Chuẩn Đề là để
tăng cường uy lực câu tâm chú. Chữ Bhrum là Nhứt Tự
chú vương của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi có công năng và uy
lực không thể nghĩ bàn. Chú Nhứt Tự là tâm chú của
Bồ Tát Văn Thù có khả năng hỗ trợ cho tất cả chơn ngôn
mau được thành tựu.
D4.
Công
năng của Tâm chú Chuẩn Đề.
Tâm
chú Chuẩn Đề tuy ngắn gọn nhưng có khả năng bao gồm tất
cả chơn ngôn khác giống như biển cả tiếp nhận vô lượng
sông ngòi.
Chú
Chuẩn Đề là 1 bộ độc lập, tổng nhiếp 25 bộ chơn ngôn
đàn pháp gồm có: Phật bộ, Liên Hoa bộ, Kim Cang bộ,
Bảo bộ, Quỷ thần bộ. Mỗi bộ còn có 5 phân bộ,
tổng cộng là 25 bộ.
Công
năng của tâm chú được tóm lược như sau:
1.
Tiêu trừ tất cả nghiệp chướng.
2.
Chuyển hóa tất cả vọng niệm chấp ngã, chấp pháp, nằm
sâu kín trong tạng thức.
3.
Thành tựu vô lượng công đức, như có thể làm cho người
đoản mạng được tăng thọ, trị lành các chứng bệnh nan
y như cùi phong, ung thư, làm cho cây khô héo sống lại v.v...
4.
Được chư Phật và Bồ Tát Hộ Niệm.
5.
Tất cả sở cầu chí thiện đều được như ý.
6.
Nước không thể làm chìm, lửa không thể đốt, độc dược,
oán tặc, ác long, ác thú, quỷ tà không thể hại được.
7.
Hành giả có thể triệu thỉnh chư Thần, chư Thiên, Phạm
Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương.
8.
Nếu trì đủ 1 triệu biến sẽ được trí huệ và công đức.
Sau
đây là bài kệ của Bồ Tát Long Thọ, Tổ Thiền thứ 14 Ấn
Độ, xác nhận giá trị của chú Chuẩn Đề.
Chuẩn
Đề công đức tụ,
Tịch
tịnh tâm thường tụng
Nhứt
thiết chư đại nạn
Vô
văng xâm thị nhân
Thiên
thượng cập nhân gian
Thọ
phước như Phật đẳng
Ngộ
thử như ý châu
Định
hoạch vô đẳng đẳng.
Tạm
dịch
Chuẩn
đề gồm tất cả công đức
Dùng
tâm vắng lặng thường trì tụng
Tất
cả mọi nạn tai dù lớn
Không
thể xâm phạm đến người ấy
Chúng
sanh cõi trời cùng cõi người
Đều
thọ lảnh phước báo bằng Phật
Nếu
chứng ngộ châu như ý này
Sẽ
được định vô đẳng đẳng.
D4.
Ấn
Chuẩn Đề
Khi
trì niệm chú Chuẩn Đề, hành giả sẽ tùy tiện hoặc bắt
ấn hoặc không bắt ấn. Nếu bắt thì phải làm như
sau:
2 ngón
áp và út tréo trong, áp út mặt để trên áp út trái, 2 ngón
cái đè lên các ngón áp út, 2 ngón giữa đụng đầu nhau tạo
thành 1 tam giác, 2 ngón trỏ kẹp sát 2 ngón giữa. Để
ấn trước ngực, nhưng không đụng ngực hướng lên trên
khi niệm chú.
Nhớ
xả ấn trên đầu sau khi hết niệm.
Ấn
Chuẩn Đề có rất nhiều, thường được sử dụng để chữa
bệnh. Hành giả nào đã trì niệm 1 triệu biến sẽ có
cơ may được Ngài Chuẩn Đề chỉ dạy các ấn khế cần
thiết.
Chúng
tôi sẽ trở lại đề cập đến vấn đề này khi xét thấy
cần, để giúp cho quý độc giả nào dày công trì niệm chú
Chuẩn Đề biết được bí quyết thâm nhập Đàlani tạng
của Ngài. Thâm nhập được tức là thành tựu tâm chú.
Phần
C: KẾT LUẬN
Khoa
học không lương tri chỉ là sự tàn lụi của tâm linh.
Đó là câu châm ngôn Pháp: “ Science sans conscience n’est
que ruine de l’âme ” thường được nhắc nhở đến, mỗi
khi người đời gặp tai nạn do khoa học gây nên.
Tuy
nhiên, không phải tất cả những phát minh của khoa học đều
đem lại khổ đau cho con người. Từ thế kỷ 15, 16 có
những phát minh như phát minh về ấn loát, về hơi nước,
về điện v.v... đã đem lại rất nhiều lợi ích cho nhân
loại, đã làm cho cuộc sống của con người trên quả đất
càng thêm tươi đẹp. Do đó chúng ta thấy rằng nếu
vì lợi ích chung mà chúng ta áp dụng khoa học để sáng tạo
thì đó là tiến bộ về cả 2 mặt vật chất lẫn tinh thần,
còn nếu vì quyền lợi riêng tư của 1 số ít cá nhân, của
1 số nước mà phát minh những vũ khí giết người hàng loạt
thì đó là tàn phá, hỗn loạn, hủy diệt.
Nhưng
trên thực tế, dù các tôn giáo, các tổ chức từ thiện,
các nhà hiền triết, từ lâu đã lớn tiếng kêu gọi các
lãnh tụ trên thế giới hãy thương yêu nhau, hãy tương trợ
lẫn nhau, chiến tranh đến ngày nay vẫn còn lan tràn, hết
khu vực này lại sang khu vực khác, ngay trong 1 nước hoặc
trong nhiều nước. Đau thương, tang tóc vẫn sờ sờ trước
mắt. Như đã nói, bao lâu khổ đau còn dày vò chúng sanh
thì pháp Quán Thế Âm còn phải được hành trì liên tục,
không gián đoạn. Pháp Quán Thế Âm chính là cứu khổ,
cứu nạn, pháp vô úy cần phải được phổ biến khắp nơi,
khắp chốn. Sở dĩ chúng sanh đau khổ là vì lục căn
còn nhiễm lục trần, vì tâm của chúng sanh còn bị nhiễm
ô, còn bị cuốn bởi ngoại cảnh.
Nhưng
muốn cho lục căn khỏi bị nhiễm ô thì chúng ta phải tu tập
pháp nhỉ căn viên thông của Bồ Tát Quán Thế Âm vốn là
1 pháp dễ hành nhứt, dễ giúp đạt kết quả nhanh nhứt.
Trong 6 căn chỉ có nhỉ căn là căn có nhiều công đức hơn
hết, đúng như lời nhận xét của Bồ Tát Văn Thù khi Ngài
chọn lấy pháp này làm pháp tu chánh yếu cho chúng sanh mai
sau trong số 25 pháp tu chứng của các vị A La Hán và Bồ Tát.
Nhưng
để cho thích hợp với người đời nay, Chân sư chúng tôi
không ngần ngại gọi nó dưới 1 cái tên khác, đó là pháp
lắng nhìn, lắng nghe vô sở thọ. Nói cách khác, đó
là pháp nghe như không nghe mà lại nghe như thật, pháp thấy
như không thấy mà lại thấy như thật.
Tuy
chúng ta sống trong đời, lúc nào cũng nghe, cũng thấy, nhưng
chúng ta không khổ, không lo, không sợ, đó là vì chúng ta
biết cách nghe, biết cách thấy theo pháp môn của Bồ Tát
Quán Thế Âm. Nếu chúng ta không khổ, không lo, không
sợ tức là chúng ta đã được giải thoát khỏi các phiền
não đang trói buộc người đời. Mà giải thoát được
tức là chúng ta đả được an vui và hạnh phúc ngay trong đời
này, chớ không cần phải đợi đến lúc lâm chung, lìa bỏ
thân xác mới trở về cõi Cực Lạc hay Thiên Đàng để được
hưởng hạnh phúc đời đời như các tôn giáo thường dạy.
An
vui, hạnh phúc khổ đau, sầu thảm, tất cả đều ở nơi
tâm mình. Nếu tâm mình đã vô sở thọ, đã vô trụ rồi
thì đâu còn phân biệt an vui hay khổ đau ?
Vì
thế mới nói rằng thành tựu được pháp lắng nhìn, lắng
nghe vô sở thọ rồi thì chúng ta liền được tự tại, tức
là được tự do trong hiện tại, chúng ta liền được an nhiên
trước mọi diễn biến của cuộc đời.
Song
song với việc hành pháp bất nhiễm như trên, chúng ta còn
phải chiếu soi nội tâm để kịp thời giác các tạp niệm
và vọng niệm luôn xẹt ra trong đầu.
Áp
dụng chơn lý Ngũ uẩn giai không, nói cách khác, vọng tức
chơn, chúng ta mới thấu rõ vọng niệm, tạp niệm cũng đều
là chơn niệm. Áp dụng thường xuyên chơn lý đó, chúng
ta lần hồi sẽ chứng ngộ vô phân biệt trí, bình đẳng
tánh trí. Mà chứng ngộ như thế là chúng ta đã hòa
nhập được Chơn Như, đã hoàn tất lộ trình đi từ Sắc
trở về Không.
Lộ
trình này tuy dài và khó nhưng chúng ta không nên ngại núi
e sông, chúng ta hãy vững tâm từng bước, từng bước tiến
lên bằng cách phát huy tâm Từ, Bi, Hỉ, Xả của Bồ Tát Quán
Thế Âm qua pháp Phổ Môn cứu khổ cứu nạn của Ngài.
Chúng ta không cần phải đợi đến khi hòa nhập được Chơn
Như hoàn tất lộ trình tu Huệ, mới phát đại nguyện độ
sanh, bởi lẽ thế giới, đất nước khổ đau đang chờ đôi
bàn tay cứu vớt của chúng ta. Chỉ cần tỏ ngộ được
Phật tâm nơi lòng thì chúng ta có thể bắt đầu song tu Phước
Huệ. Phước ở đây không phải là báo mà người đời
thường mong cầu khi họ bố thí, giúp người, trái lại song
tu phước huệ có nghĩa là song tu công đức và trí huệ.
Công
đức ở trong Chơn Như mà Chơn Như thì vô hình, vô tướng,
trùm khắp vũ trụ bao la, nên công đức cũng vậy, cũng vô
biên, không bờ, không bến, không thể suy lường.
Nhưng
muốn tạo dựng công đức và trí huệ, chúng ta phải giữ
tâm vô sở thọ, vô trụ khi đối cảnh, đối pháp, khi làm
việc hay rảnh rỗi nghĩa là tâm chúng ta lúc nào cũng bình
thường, không loạn động.
Mà
hễ tâm không loạn động, được bình thường thì huệ khai,
trí huệ hiện bày. Nhờ vậy mà chúng ta có thể tùy
duyên ứng phó mọi việc trên đời để đem lại lợi lạc
cho người.
Vì
thế chúng ta mới thấy rằng công đức tức là trí huệ.
Tuy phân tách làm hai nhưng công đức và trí huệ chỉ là 1
mà thôi. Lúc đầu khi chúng ta còn chấp thì việc tu phước
chỉ nhằm mục đích hưởng phước báo. Nhưng khi 1 niệm
đã ngộ, tâm không còn chấp nữa, thì phước báo năm xưa
liền biến thành rừng công đức.
Hành
pháp Phổ Môn cứu khổ, cứu nạn của Bồ Tát Quán Thế Âm
với tâm vô trụ tức là song tu Phước huệ, song tu công đức
và trí tuệ.
Sau
cùng, nếu muốn gia tốc việc xây dựng, củng cố và hoàn
mãn công đức, chúng ta không thể không hành trì Mật Tông
với các câu chú của Bồ Tát. Tùy sở thích, chúng ta
có thể trì niệm 1 thần chú mà thôi như thần chú Bát Nhã
hay thần chú Chuẩn Đề. Thành tựu 1 thần chú tức là
chúng ta sẽ thành tựu tất cả bài chú còn lại của Ngài,
bởi lẽ lúc đó chúng ta đã có đủ thần lực để có thể
thành tựu mọi thần chú khác. Lúc đó lực tâm của
chúng ta đã hòa nhập cùng với lực của vũ trụ, cả 2 lực
nay thành 1 lực.
Dù
không móng tâm mong cầu thần thông, nhưng lúc đó chúng ta
có thể diệu dụng Chơn Như, nghĩa là chúng ta có thể hiển
bày các đại thần thông tam muội, khó thể nghĩ bàn.
Chúng
tôi nghĩ rằng trong thời kỳ đấu tranh dai dẳng như hiện
nay, thời kỳ mà nhân loại còn đang chìm đắm trong đau khổ,
quyển sách nhỏ này sẽ đem lại nhiều lợi lạc cho những
ai đã nuôi sẵn chí hướng giải khổ cho mình và cho người,
chí hướng tự độ và độ tha.
HẾT.
10
ĐIỀU TÂM NIỆM CỦA
NGƯỜI
TU ĐẠI THỪA
Người
tu Đại Thừa cần phải hiểu biết đúng Phật pháp vì có
hiểu biết đúng mới hành động đúng, mà hễ hành đúng
thì đạt kết quả đúng, tức là được an vui và hạnh phúc,
được giải thoát khỏi các phiền não, khổ lụy ngay trong
kiếp sống hiện tại. Do đó, chúng ta cần phải nhớ
và thực hành 10 điều căn bản sau đây:
Điều
1. Lìa đời để đi tìm đạo giác ngộ là 1 hành động vô
bổ giống như đi tìm sừng thỏ, lông rùa. Vì thế xuất
gia tâm cần thiết hơn xuất gia tướng.
Điều
2. Quy y Tam Bảo có nghĩa là nương theo Phật, Pháp, Tăng nơi
lòng mình, mà Phật, Pháp, Tăng chính là Pháp thân, Báo thân
và Hóa thân, cũng là Giới, Định, Huệ và cũng là Không,
vô tướng, vô tác.
Điều
3. Vạn Pháp đều lá Phật pháp, là pháp giải thoát vì chúng
hiển thị lẻ diệu của Pháp Hoa. Khi đối cảnh, đối
pháp mà mình có cái nhìn bình đẳng, không hai, vô phân biệt,
không chấp chánh, tà, lành dữ, vui buồn thì ngay lúc đó tâm
mình đã được bình thản, rỗng rang, tự tại thoát khỏi
sự lôi cuốn của ngoại cảnh, lục căn của mình không còn
nhiễm lục trần. Tâm đó chính là tâm vô trụ nơi các
pháp, trong tư duy, lời nói và việc làm.
Điều
4. Tâm vô trụ, tâm không chỉ có thể thành tựu được khi
mình đã thực hành lâu ngày pháp tu nhĩ căn viên thông còn
gọi là pháp lắng nhìn, lắng nghe vô sở thọ.
Điều
5. Khi tâm đã thật sự vô trụ rồi thì liền đó 4 trọng
giới Dâm, Sát, Đạo, Vọng đều vắng lặng, tâm không bị
loạn động, luôn ở trong Định bởi lẽ mình đã thâm nhập
diệu lý vạn pháp đều không, đều lưu xuất từ chỗ CHƠN
KHÔNG MÀ DIỆU HỮU. Giới, Định, Huệ lúc đó được
tròn đầy.
Điều
6. Chấp ngã là chấp thân tâm này là Ta thật để rồi suốt
đời lao tâm nhọc trí tìm cách củng cố cái Ta và phát triển
những gì thuộc về Ta. Muốn dứt trừ tâm chấp ngã,
chúng ta cần phải hành chánh niệm tức là thường xuyên trì
niệm chơn ngôn hoặc niệm 6 chữ Di Đà.
Chánh
niệm không phải chỉ gồm đơn thuần những niệm lành Từ,
Bi, Hỉ, Xã, trái lại nó còn có nghĩa là khi khởi niệm tưởng
các việc đã qua để làm dữ kiện cho tư duy hiện tại, thì
đừng để cho tất tình khởi theo niệm tưởng đó. Như
thế mới gọi là niệm mà vô niệm.
Ngoài
ra, mình còn phải chánh giác, luôn tỉnh táo để kịp thời
biết được các tạp niệm vừa mới xẹt ra trong đầu.
Điều
7. Chánh kiến là tỏ ngộ và thâm nhập 4 đặc tánh Thường
hằng, Năng sanh, Chiếu soi và Thanh tịnh của Chơn Như, từ
đó mới thấy được vạn pháp như thật, viên dung tướng
tánh và không còn mê mờ trước các ảo ảnh, ảo giác của
cuộc đời.
Điều
8. Ngồi mãi để trụ tâm, quán tịnh là bệnh, không phải
là Thiền. Định, Huệ hay Thiền là chiếu soi nội tâm.
Pháp chiếu soi chính là pháp chiếu kiến ngũ uẩn giai không.
Điều
9. Cần phát huy hạnh nhẩn nhục đối với mọi người vì
nó có công năng dứt trừ tâm phân biệt. Đừng bao giờ
phản đối, tranh cải với bất cứ ai, đừng chấp chặt
ý kiến của mình để áp đặt lên người khác, bởi lẽ
những điều thấy, nghe, hay, biết của mình chưa chắc là
đúng, mà dù cho có đúng cũng chưa chắc gì được dễ dàng
chấp nhận.
Điều
10. Kiến tánh là thấy được ánh sáng của Đạo trong đời
sống, thấy được tánh năng sanh, năng hóa của Chơn Như tức
là sự diệu dụng không thể nghĩ bàn của pháp giới nhằm
thúc đẩy sự tiến hóa chung của vạn vật và muôn loài chúng
sanh.
Ðảnh
Chú Đại Bi
(Maha
Karuna Dharani) Vô Ngại Đại Bi Tâm DALANI
“
Nay con xin sám hối tất cả tội lỗi mà con đã gây nên từ
trước đến giờ bởi tham, sân, si, và thân, khẩu, ý.
Con thành tâm nguyện tiêu trừ hết, không còn tái phạm. “
Nay
con xin nguyện cầu Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi độ cho
con được…
Nam
mô Hội Thượng Phật, Thiên thủ, Thiên nhãn,
Bồ Tát Quán Thế Âm, quảng đại, viên mãn, vô
ngại Đại Bi tâm Ðàlani.
1.
Namah Ratnatrayaya.
43.Sara Sara.
2.
Namo Arya-
44.Siri Siri.
3.
VaLokitesvaraya.
45.Suru Suru.
4.
Bodhisattvaya
46.Bodhiya Bodhiya.
5.
Mahasattvaya.
47.Bodhaya Bodhaya.
6.
Mahakaruniakaya.
48.Maitriya.
7.
Om.
49.Narakindi.
8.
Sarva Rabhaye.
50.Dharsinina.
9.
Sudhanadasya.
51.Payamana.
10.Namo
Skrtva i Mom Arya- 52.Svaha.
11.Valokitesvara
Ramdhava. 53.Siddhaya.
12.Namo
Narakindi.
54.Svaha.
13.Herimaha
Vadhasame. 55.Maha Siddhaya.
14.Sarva
Atha. Dusubhum. 56.Svaha.
15.Ajeyam.
57.Siddhayoge
16.Sarva
Sadha.
58.Svaraya.
17.Namo
Vaga.
59.Svaha.
18.Mavadudhu.
Tadyatha. 60.Narakindi
19.Om.
Avaloki.
61.Svaha.
20.Lokate.
62.Maranara.
21.Karate.
63.Svaha.
22.Ehre.
64.Sirasam Amukhaya.
23.Mahabodhisattva.
65.Svaha.
24.Sarva
Sarva.
66.Sarva Maha Asiddhaya
25.Mala
Mala
67.Svaha.
26.Mahe
Mahredhayam. 68.Cakra
Asiddhaya.
27.Kuru
Kuru Karmam.
69.Svaha.
28.Dhuru
Dhuru Vajayate. 70.Padmakastaya.
29.Maha
Vajayate.
71.Svaha.
30.Dhara
Dhara.
72.Narakindi Vagaraya.
31.Dhirini.
73.Svaha
32.Svaraya.
74.Mavari Samkraya.
33.Cala
Cala.
75.Svaha.
34.Mamavamara.
76.Namah Ratnatrayaya.
35.Muktele.
77.Namo Arya-
36.Ehe
Ehe.
78.Valokites-
37.Cinda
Cinda.
79.Varaya
38.Arsam
Pracali.
80.Svaha
39.Vasa
Vasam
81.Om. Siddhyantu
40.Prasaya.
82.Mantra
41.Huru
Huru Mara.
83.Padaya.
42.Huru
Huru Hri.
84.Svaha.
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam
Mô Thiên thủ, Thiên nhãn, Bồ Tát Tự Tại Quán
Thế Âm.
Ðảnh
Chú Đại Bi
(Maha
Karuna Dharani) Vô Ngại Đại Bi Tâm DALANI
“
Nay con xin sám hối tất cả tội lỗi mà con đã gây nên từ
trước đến giờ bởi tham, sân, si, và thân, khẩu, ý.
Con thành tâm nguyện tiêu trừ hết, không còn tái phạm. “
Nay
con xin nguyện cầu Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi độ cho
con được…
Nam
mô Hội Thượng Phật, Thiên thủ, Thiên nhãn,
Bồ Tát Quán Thế Âm, quảng đại, viên mãn, vô
ngại Đại Bi tâm Ðàlani.
Namo
ratnatràyàya.
Namo
Aryà valokiteshvaràya Bodhisattvaya Mahasattvaya Mahàkarunikàya.
Om.
Sarva rabhaye Sudhanadàsya.
Namo
Skritva I mom Aryà Valokitesvara Rambhava.
Namo
Narakindi Herimahà Vadhàsame.
Sarvà
athas Dusubhum ajeyam sarva sarva namovarga Mavàdudhu. Tadyathà.
Om.
Avaloki lokite karate.
Ehre,
Mahà bodhisattva Sarva Sarva, Mala Mala.
Mahe
Mahredhayam kuru kuru karman.
Dhuru
Dhuru, vajàyate Mahà vajayate.
Dhara
Dhara, Dhirini Svaràya.
Chala
Chala, Mamavamara Muktele
Ehe
Ehe, Cinda Cinda. Arsam prachali.
Vasa
Vasam, prasàya Huru Huru Mara.
Huru
Huru Hri, Sara Sara, Siri Siri, Suru Suru.
Bodhiya
Bodhiya, Bodhaya Bodhaya.
Maitreya,
Narakindi Dharsinina.
Payamana
svaha, Siddhaya svàhà.
Maha
Siddhàya svaha.
Siddhayoge
Svaraya svaha. Narakindi svàhà.
Marànarà
svaha. Sirasam Armukhàya svaha.
Sarva
Mahà Asiddhaya svaha. Chakra Asiddhaya svaha.
Padmakastaya
svaha. Narakindi Vagaraya svaha.
Mavari
Samkraya svaha.
Namo
Ratnatràyàya.
Namo
Aryàvalokiteshvaraya svaha.
Om,
Siddhyantu mantra pàdàya. Svàhà.
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam
Mô Thiên thủ, Thiên nhãn, Bồ Tát Tự Tại Quán
Thế Âm.
TÂM
CHÚ LỤC TỰ ĐẠI MINH
Om
Ma Ni Pad Me Hum
PHẬT
MẨU CHUẨN ĐỀ THẦN CHÚ
Phần
Qui Kính
Khởi
thủ quy y Tô Tất Đế
Đầu
diện đảnh lễ Thất Cu Chi
Ngã
kim xưng tán Đại Chuẩn Đề
Duy
Nguyện từ bi thường gia hộ.
(1
lạy)
Tâm
Chú
Namo
saptanam samyak sambodhi Kothinam Tadyatha.
Om
chale chole chunde svaha. Bhrum.
KỆ
HỒI HƯỚNG
Quán
Thế Âm tức Diệu Âm,
Từ
Bi cứu khổ che trăm vạn người.
Thế
Âm tuy ở xa vời.
Bao
trùm khắp cõi như Triều Hải Âm.
Thế
Âm cũng tức Phạm Âm.
Yêu
thương sanh chúng ngàn năm dạy đời.
Pháp
Ngài như ngọc sáng ngời,
Hành
trì khuya sớm chẳng dời đổi tâm.
Cốt
sao làm chủ hai tâm,
Sanh
sanh diệt diệt âm thầm truy ra.
Những
mong khắp chốn, khắp nhà,
Phổ
Môn tu tập Ta Bà độ sanh.
Nam
Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam
Mô Thiên thủ, Thiên nhãn, Bồ Tát Tự Tại Quán
Thế Âm.
Avalokiteshvara
Mandala
Nam
Mô Thiên thủ, Thiên nhãn, Bồ Tát Tự Tại Quán
Thế Âm
WP:
Nguyên Tín và Tịnh Hương