Đây là bộ luận mà trong thiền môn nói
riêng, giới xuất gia nói chung, coi như kinh của Phật. Thế nên ai xuất
gia vào chùa, trong thời gian đầu học làm Sa Di, đều phải học thuộc
lòng ba quyển gọi là Phật Tổ Tam Kinh; Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Kinh
Di Giáo, Qui Sơn Cảnh Sách.
Hai quyển đầu là lời Phật dạy được gọi là
kinh thì đúng. Quyển Cảnh Sách của Ngài Qui Sơn đáng lý phải gọi là
luận, tại sao lại gọi là kinh? Các vị thuở xưa thấy lời chỉ dạy sách
tấn của Ngài rất thiết yếu, vừa thích hợp với chân lý, vừa phù hợp với
căn cơ mọi người, nên các vị xem như lời Phật dạy, vì vậy mà gọi là
kinh. Quyển Qui Sơn Cảnh Sách đối với tất cả những người xuất gia còn
trẻ, trong thời tập sự đã phải học thuộc lòng rồi. Nhưng hôm nay tôi
đem ra giảng, vì đây là tác phẩm của một thiền sư (Tổ Qui Sơn) thuộc
đời thứ tư sau Lục Tổ:
1.Nam Nhạc Hoài Nhượng
2.Mã Tổ Đạo Nhất
3.Bá Trượng Hoài Hải
4.Qui Sơn Linh Hựu
Ngài sinh năm 771 tịch năm 853. Quyển sách
này ra đời vào khoảng cuối thế kỷ thứ tám hoặc đầu thế kỷ thứ chín.
Ngài giáo hóa trên núi Qui, nơi đây có hơn 1500 thiền sinh qui tụ tu
tập, nên Ngài có lời cảnh sách để răn nhắc chung toàn chúng. Lời Ngài
chẳng những có giá trị về đạo lý, mà còn có giá trị về văn chương, nên
được trong thiền môn dùng để sách tấn toàn thể Tăng Ni. Bởi có giá trị
như thế nên sau này có nhiều nhà giải thích:
1.Đời Tống, Ngài Thủ Toại chú đề tựa là
“Qui Sơn Cảnh Chú” (1 quyển)
2.Đời Minh, Ngài Đạo Bá giải đề tựa là “Qui
Sơn Cảnh Sách Chỉ Nam” Quyển này nằm trong bộ Phật Tổ Tam Kinh (1
quyển)
3.Đời Minh, Ngài Hoàng Tán chú, Ngài Khai
Quýnh ký, đề tựa là “Qui Sơn Cảnh Sách Cú Thích Ký” (2 quyển). Tập
sách này được các chùa đặc biệt dùng, vì cho lời giải của hai vị này
đầy đủ nhất.
4.Đời Minh, Ngài Đại Hương chú giải đề tựa
là “Cảnh Sách Chú” (1 quyển).
Dịch từ Hán sang Việt , có các vị:
1.Hòa Thượng Hành Trụ dịch từ quyển “Qui
Sơn Cảnh Sách Cú Thích Ký” của Ngài Hoàng Tán và Khai Quýnh.
2.Pháp sư Kiểu dịch bản “Qui Sơn Cảnh Sách
Chỉ Nam” của Ngài Đạo Bá.
3.Hòa Thượng Trí Quang dịch đề tựa là “Qui
Sơn Cảnh Sách Văn” in trong tập luật Sa di và Sa di ni.
4.Thầy Hoàn Quan dịch trong Phật Tổ Tam
Kinh.
Chánh văn “Qui Sơn Cảnh Sách” vừa cô đọng
vừa có âm điệu, nên ở đây tôi giảng chánh văn để quí vị thấy giá trị
văn chương và ý nghĩa cô đọng trong lời Ngài dạy.Trước giải thích tên
luận .
Phần 1
Qui Sơn Cảnh Sách
“Qui Sơn” là ngọn núi Qui, nơi Thiền Sư
Linh Hựu giáo hóa bốn chúng. “Cảnh Sách” . Cảnh là đánh thức những
người đang mê chưa ngộ. Người tu chúng ta tuy đã phát tâm xuất gia học
đạo, song còn mê say trong dục lạc, thường quên lãng việc tu hành. Nên
Ngài dùng phương tiện đánh thức chúng ta nhớ lại bổn phận và trách
nhiệm củangười xuất gia để nổ lực tiến tu, đó là cảnh. Sách nghĩa là
roi da. Thường người cỡi ngựa muốn cho ngựa chạy nhanh, dùng roi da
tróc tróc cho nó chạy. Cũng vậy, muốn sách tấn thúc đẩy người ta cũng
phải dùng lời đểrăn nhắc cho tiến. Tông chỉ của bộ luận này, chủ yếu
của Tổ là đánh thức người tu chúng ta nổ lực tiến tới chổ cứu cánh của
người xuất gia.
Chánh Văn:
“Phù nghiệphệ thọ thân , vị miển hình lụy.
Bẩmphụ mẫuchi di thể, giả chúng duyên nhi cộng thành. Tuy nãi tứ đại
phù trì, thường tương vi bội. Vô thường lão bịnh bấtdữ nhân kỳ. Triêu
tồn tịch vong, sát na dị thế. Thí như xuân sương, hiểu lộ, thúc hốt
tức vô; ngạn thọ, tỉnh đằng, khởi năng trường cửu. Niệm niệm tấn tốc,
nhất sát na gian, chuyển tức tức thị lai sanh. Hà nãi yến nhiên không
quá?”.
Dịch:
Bởi do nghiệp trói buộc mà có thân, tức
chưa khỏi khổ lụy về thân. Bẩm thụ tinh cha huyết mẹ, tạm mượn các
duyên hợp thành. Tuy nhờ tứ đại giử gìn, nhưng chúng thường trái
nghịch.Vô thường, già, bịnh chẳng hẹn cùng người. Sáng còn tối mất,
chỉ trong khoảng sát na đã qua đời khác. Ví như sương mùa xuân, mốc
sáng sớm, phút chốc liền tan. Cây bên bờ vực, dây trong miệng giếng há
được lâu bền. Niệm niệm qua nhanh, chỉ trong khoảng sát na, chuyển hơi
thở đã là đời sau, sao lại an nhiên để ngày tháng trôi suông vô ích?.
Giảng:
“Phù nghiệp hệ thọ thân, vị miển hình lụy”.
Do nghiệp trói buộc lôi cuốn nên chúng ta phải thọ nhận thân này. Sau
khi thọ nhận thân này rồi thì sao? “Vị miển hình lụy”, tức chưa khỏi
được cái khổ lụy về thân. Ngài nói có sự trùng hợp với Lão Tử: “Ngô
hữu đại hoạn vị ngô hữu thân”, vì ta có thân nên có họa lớn. Lão Tử
thấy do có thân nên có họa, song chưa nói đến nguyên do nào mà có
thân.Tổ Qui Sơn nhìn theo con mắt của nhà tu Phật. Ngài thấy thân
chúng ta sở dĩ có đây không phải ngẩu nhiên mà có, mà là do nghiệp
chướng buộc lôi kéo chúng ta ra đây thì không thể nào tránh khỏi đau
khổ. Đó là Ngài chỉ rõ nguyên nhân của sự đau khổ khi mang thân này.
Nhưng tại sao nghiệp lôi mình được và sao mình dại dột để cho nghiệp
lôi? Vấn đề này tôi sẽ dẫn vài thí dụ nhỏ để quý vị thấy. Đây là chúng
ta tìm tột cùng cái nguyên nhân thuở trước, khi chúng ta chưa có thân
này, do cái gì thúc đẩy lôi cuốn chúng ta có thân? “ Cái thúc đẩy lôi
cuốn” trong nhà Phật gọi là “ nghiệp”. Nhưng nó lôi cuốn bằng cách
nào? Kinh Phật nói, con người có ba nghiệp là thân nghiệp, khẩu nghiệp
và ý nghiệp. Thân, miệng, ý tạo tác thành nghiệp rồi, thì nghiệp thúc
đẩy lôi cuốn chúng ta phải thọ thân sau và tùy theo nghiệp thiện hay
ác mà dẫn chúng ta đến chỗ tốt hay xấu. Vậy nghiệp là gì? Nghiệp là
động tác của thân, miệng, ý; động tác ấy lập đi lập lại nhiều lần
thành thói quen, và khi đã thành thói quen, thì nó có sức mạnh chi
phối, dắt dẫn con người theo nó. Với mắt phàm tục thì không thấy biết
nghiệp, nhưng đối với bậc thánh giả thì thấy có bạchnghiệp và hắc
nghiệp. Nên khi nhìn người, bậc thánh giả biết người ấy có chủng
nghiệp lành hay dữ. Do trước kia tạo nghiệp lành hay dữ, khi sanh thân
hoặc khổ hoặc vui; đó là nói theo tương đối thế gian. Còn nói theo đây
thì dù cho thân sang hèn nghèo giàu gì cũng đều khổ hết, đó là tinh
thần khổ đế của đạo Phật. Như vậy, do tạo nghiệp mà phải thọ thân sau,
nên quí vị không lấy làm lạ, khi nghe các vị tu hành đắc đạo nói quá
khứ, vị lai của một người nào đó, là do mắt huệ của các Ngài thấy được
thiện nghiệp hay ác nghiệp của vị đó, và cũng không làm lạ đối với
những nhà tướng số, căn cứ trên phước tướng nhiều ít mà đoán đúng hậu
vận của con người. Thế nên nhiều người cho rằng mình có sẵn số mạng
như thế nên thầy coi trúng. Nhưng trúng với ai và trật với ai? Chỉ
trúng với những người dung thường, khi sanh ra họ cứ theo nghiệp cũ mà
sống, không biết chuyển đổi nghiệp. Nhưng đối với những người hơi phi
thường thì số mạng có đổi; chẳng hạn như những người xuất gia. Tử vi
của mọi người chung chung là lớn lên lập gia đình có con cái, có chức
phận v.v… Nhưng với người khoảng 15 tuổi xuất gia thì không có gia
đình, không có con, không có chức phận, như vậy là đã cải số rồi. Nếu
cho số mạng là cái định sẵn mà mọi người phải y theo đó để sống, không
thể chuyển đổi thì quá lầm lẫn. Nghiệp có thể chuyển được, chuyển từ
nghiệp dữ thành nghiệp lành và ngược lại. Thế nên có lắm người trước
thì say mê trong dục lạc, sau bừng tỉnh xa lìa dục lạc trở thành người
cao thượng, và cũng có người tốt, gặp duyên bạn bè hư đốn quyến rủ
chạy theo làm điều xấu ác. Nói đến nghiệp là nói đến động tác của
thân, khẩu, ý và động tác ấy có thể chuyển đổi từ xấu trở thành tốt và
từ tốt trở thành xấu.
Nay nên biết nghiệp chi phối lôi kéo con
người như thế nào? Thí dụ một người có thói quen mở radio nghe nhạc,
vào mỗi tối lúc 8 giờ, đêm nào cũng thế, thành thói quen. Bỗng một hôm
radio hư không nghe được nhạc, người ấy cảm thấy buồn buồn, ngay lúc
đó nhà hàng xóm mở radio, thói quen thúc đẩy người ấy tìm tới để nghe
nhạc. Thói quen (nghiệp) không có hình tướng nhưng có sức mạnh thúc
đẩy, chi phối con người làm theo nó. Đó là thói quen của tai. Bây giờ
là thói quen của miệng, có ngườikhi nghe nhạc thì miệng huýt sáo ca
hát, tay chân nhịp theo điệu nhạc. Một hôm đến chỗ trang nghiêm. Lý
đáng phải ngồi nghiêm chỉnh, nhưng ngồi một hồi cảm thấy buồn bèn nhịp
đùi huýt sáo, vì đã thành thói quen rồi. Còn có những thói quen tệ hơn
nữa là hút thuốc, ăn trầu, uống rượu, hút á phiện v.v… Vậy động lực
nào bắt con người hút thuốc, ăn trầu, uống rượu? Có phải tại thói quen
chăng? Thói quen trở thành tập nhiễm và có sức mạnh thôi thúc khiến
con người làm theo nó. Nhà Phật gọi đó là nghiệp, chính nghiệp mình
tạo rồi trói buộc và mình đi thọ sanh mà mình không hay biết, tưởng lý
do này lý do kia bắt mình sinh ra đời, bắt mình chịu khổ. Tất cả chỉ
là cái duyên bên ngoài, mà động lực chính là nghiệp lành hay nghiệp dữ
khiến cho mình khổ hay vui. Điều mà mọi người phải ghi nhớ là thân
không tạo nghiệp ác mà tạo nghiệp thiện, miệng không nói lời hung dữ
mà nói lời lành, ý không nghĩ ác mà nghĩ thiện; cứ như thế mà chuyển
nghiệp thì mình làm chủ được mình không bị nghiệp sai sử. Và chúng ta
có đủ can đảm, đủ sức mạnh xây dựng, sắp đặt cho cuộc sống ngày mai
của chính mình và chịu đựng những gì xảy đến, mà không than trách ai
cả. Nếu không hiểu như thế cứ để cho dòng định mệnh lôi cuốn tới đâu
thì tới. Người hiểu rõ nghiệp và biết tu thì phải gắng mà chuyển
nghiệp, người tu là những con thuyền vững lái, gió mặc gió, nước mặc
nước, chúng ta cứ nhắm đích mà tiến, chớ để gió dập nước cuốn. Nói đến
nghiệp là nói đến sức mạnh tự chủ, không phải là thái độ yếu đuối phó
mặc cho số mệnh, để rồi việc không xong, hỏng thì đổ thừa cho nghiệp.
Đây, Tổ Qui Sơn chỉ cho chúng ta thấy cái
nhân có thân này là do nghiệp, hoặc nghiệp lành nghiệp dữ; nếu thọ
thân trong cảnh tốt được sung sướng an vui là do tạo nghiệp thiện, còn
thọ thân trong cảnh xấu chịu khổ đau là do tạo nghiệp ác. Biết được
khổ vui là do nghiệp mình tạo, để gan dạ chịu, không than oán khi gặp
khổ, và cố gắng chuyển nghiệp ác thành nghiệp thiện, nếu ta còn luân
hồi. Hoặc gan dạ cắt dứt mọi trói buộc của nghiệp để được tự tại trong
tam giới, đó là tu. Ngược lại biết rõ nghiệp, mà vẫn đầu hàng, phó mặc
cho nó chi phối lôi trì, là không biết tu vậy. Còn taọ nghiệp là phải
thọ thân, mà có thân thì khổ, vì thân này vô thường hoại diệt, dù là
vua chúa hay ăn mày cũng không thoát khỏi vô thường, nên gọi là hình
lụy. Có thân là có đủ các nỗi khổ nào là sanh, già, bịnh, chết, thương
yêu xa lìa, thù oán gặp gỡ… Chỉ khi nào cắt dứt nghiệp thì không thọ
thân và dứt luân hồi sanh tử. Không thọ thân không có nghĩa trở thành
hư không, mà lúc ấy muốn độ ai thì tùy nguyện đến cứu giúp họ. Khi làm
xong việc rồi đi một cách tự tại, chớ không bị nghiệp chi phối ép
ngặt.
“Bẩm phụ mẫu chi di thể, giả chúng duyên
nhi cộng thành”. Chúng ta do nghiệp mà có thân. Vậy có thân bằng cách
nào? Do sự luyến ái giữa cha mẹ, mà tinh cha huyết mẹ hợp lại thành
bào thai, rồi do nghiệp thúc đẩy thần thức gá vào bào thai. Bào thai
ấy nhờ tứ đại bên ngoài bồi bổ từ từ qua sự hô hấp ăn uống của mẹ, lớn
dần thành hình tướng, đầy đủ các bộ phận. Và sau khi ra khỏi lòng mẹ,
lại cũng nhờ tứ đại bên ngoài bồi bổ nuôi dưỡng lớn lên.
“Tuy nãi tứ đại phù trì, thường tương vi
bội”. Tuy rằng thân này do tứ đại phụ giúp để nó được tồn tại. Nhưng
trong khi gìn giữ nó vẫn thường trái nhau. Vì đất không ưa gió, nước
không ưa lửa, lửa gặp nước lửa tắt, đất gặp gió đất rung rinh. Nếu bốn
đại mất quân bình thì thân không an. Khi gió thạnh thì thân đau nhức,
khi đất thạnh thì hơi không thông, khi nước nhiều lửa ít thì thân ốm
gầy… Con người tuy có nhiều bịnh, song chỉ do bốn đại bất hòa mà ra.
Muốn cho thân an ổn phải điều hòa bốn đại, nếu thấy đại nào mạnh thì
hạn chế, đại nào yếu thì bồi bổ thêm, khéo điều hòa thì nó tồn tại,
không khéo điều hòa thì nó tan rã. Trong sự chung hợp đó luôn có sự
chống trái nhau, không bao giờ an ổn, chẳng khác nào kẻ nuôi giặc
trong nhà. Đã nuôi giặc trong nhà thì dù chúng ta có khôn ngoan thế
mấy, cũng không tránh khỏi chuyện nổi loạn. Vì vậy mà từ xưa đến nay
có nhiều người Ấn Độ tập Yoga, và ở Trung Hoa thì vận khí công luyện
đơn, để giữ cho thân này sống lâu. Tuy mọi người cố duy trì mạng sống
lâu dài, nhưng chẳng mấy ai được như ý. Nếu khéo giữ lắm chỉ được vài
trăm năm rồi cũng mất. Biết là giặc trong nhà mà muốn giữ nó còn mãi
mãi, thì đó là quan niệm sai lầm. Chúng ta chẳng khác nào kẻ đi biển
bị chìm thuyền, vớ được gốc cây mục, nương theo nó để vào bờ. Nếu nghĩ
rằng nhờ gốc cây này mà mình khỏi chết chìm, rồi ôm gốc cây giữnó mãi,
đó là quan niệm sai lầm. Đạo Phật không có quan niệm đặt nặng thọ mạng
dài ngắn, mà chỉ biết ngày nay có thân, phải biết lợi dụng nó tiến tu
cầu giải thoát. Chỉ cần nương nó để tới bờ an ổn, khi tới bờ rồi nó
trở thành vô nghĩa. Chúng ta phải hiểu rõ đạo Phật lấy giác ngộ làm
chính, chớ không phải giữ thân sống lâu làm chính. Còn những pháp tu
ngoại đạo thì đặt nặng sự duy trì thọ mạng lâu dài, nên ai cũng thích,
nhưng đâu ngờ ái thân là gốc của luân hồi. Thế nên đạo Phật không bao
giờ đề cập đến sống lâu, mà cốt làm sao cho giác ngộ, nghĩa là phải
dứt ái, vì gốc của ái là chấp ngã. Nên trong khi tu nếu bị bệnh, nhờ
cái bịnh đó thấy thân này sắp hư hoại, không còn luyến ái nó, sẽ được
thoát khỏi luân hồi. Đó là chủ yếu của sự tu hành. Vì thế, mở đầu Tổ
Qui Sơn chỉ cho chúng ta thấy có thân là có khổ, vì nó là cái bại
hoại.
“Vô thường lão bịnh bất dữ nhân kỳ”.Vô
thường ở đây chỉ cho già bịnh chết. Cái già, cái bịnh, cái chết nó
chẳng hẹn với người. Chẳng hạn như tôi đây lo tu, lo làm Phật sự nhìn
lại thì đầu đã bạc, răng đã rụng! Hòa Thượng Giám Đốc cũng đã từng
nói: Tôi còn hai việc phải làm là sửa sang lại Đại Tòng Lâm và xây
dựng cơ sở phiên dịch, thế mà tuổi tác không cho phép tôi làm. Ngài
muốn làm lắm, song thấy vô thường sắp đến không còn làm kịp, vô thường
chẳng hẹn với ai cả. Hiện tại tôi hứa hướng dẫn quí vị tu học ba năm,
nhưng biết đâu nửa chừng bị ngã bịnh, hoặc cái chết nó đến. Đã biết rõ
vô thường không hẹn, thế nên hôm nay làm được việc gì hãy làm, chớ hẹn
ngày mai. Đừng nghĩ tôi mới hai mươi tuổi vội gì tu, tôi có thể sống
tám mươi tuổi kia mà, chừng già tu cũng chẳng muộn. Nhưng có ngờ đâu
mới ba mươi tuổi lăn đùng ra chết, chết rồi làm sao tu? Trong kinh Tứ
Thập Nhị Chương Phật nói điều này rất rõ ràng. Phật hỏi một vị Tỳ
Kheo:
-Mạng người sống được bao lâu?
Tỳ Kheo trả lời:
-Mạng người sống được vài hôm.
Phật nói:
-Ông chưa rõ đạo.
Phật hỏi vị khác, vị ấy trả lời:
-Mạng người sống chừng bữa ăn.
Phật cũng nói:
-Ông chưa thấy đạo
Phật lại hỏi vị khác nữa, vị ấy trả lời:
-Mạng người chỉ trong hơi thở
Phật nói:
-Ông đã thấy đạo.
Chúng ta thở ta hít vô được thì còn sống,
nếu thở ra mà không hít vô thì chết ngay. Đó là một lẽ thật, tất cả
mọi người đều chết như vậy. Trong nửa chừng bữa ăn, nếu thở ra mà
không hít vô cũng ngã ra chết, thì đâu trọn bữa ăn. Thường chúng ta
nghĩ cuộc sống là chặng đường dài bảy tám mươi năm, nếu ngắn nhất là
đôi ba ngày hoặc chừng bữa ăn. Nhưng dưới mắtPhật, mạng sống chỉ trong
hơi thở. Thế nên còn thở ra hít vô được, thì chúng ta ráng tu, kẻo
ngày nào đó thở ra mà không hít vô, thì tu không kịp. Nếu cứ lo tính
chuyện trăm năm là kẻ si mê không thấy đạo, đức Phật đã chỉ cho chúng
ta một lẽ thật. Thấy được lẽ thật là tỉnh giác, không thấy lẽ thật là
si mê. Mạng người đã không lâu bền tại sao chúng ta lại hẹn? Nên nhớ
rằng vô thường không hẹn với mình, thì mình cũng không có quyền hẹn
với ai hết. Ngày nào còn sống là ngày đó phải hạ thủ công phu để tự
lợi, lợi tha cho đầy đủ. Chớ nói ba năm nữa hãy bắt đầu làm việc này
việc nọ đó là si mê. Chúng ta phải luôn luôn giác ngộ lẽ này.
“Triêu tồn tịch vong, sát na dị thế. Thí
như xuân sương, hiểu lộ, thúc hốt tức vô; ngạn thọ, tỉnh đằng khởi
năng trường cửu”. Ngài diễn tả cảnh vô thường sớm còn chiều mất, chỉ
trong khoảng sát na, đã qua đời khác giống như sương mùa xuân buổi
sáng long lanh trên ngọn cỏ, nhưng nắng vừa lên là đã tan rồi. Sự sống
của chúng ta chẳng khác chi sương đọng trên đầu cành, mới long lanh đó
liền khô mất. Ví như cây dựa vực thẳm; có những cây đứng sát bờ sông
sâu, chỉ một cơn gió là lật nhào xuống nước, chẳng có chút gì bảo đảm.
Mạng sống lại giống như dây bò qua giếng. Trong kinh, Phật dụ có một
người phạm tội, bị vua xử voi giày. Khi voi rượt, người ấy cắm đầu
chạy, đến một cái giếng liền nhảy xuống vì sợ voi đạp. Giếng sâu người
ấy thấy sợi dây mọc qua thành giếng, liền nắm dây tuột xuống, giữa
chừng, lại gặp ba con rồng phun lửa lên hừng hực, đành bám chặt sợi
dây ở lưng chừng. Người ấy tính dựa vào thành giếng để có điểm tựa bảo
đảm, song nhìn thấy có bốn con rắn độc lè lưỡi. Bấy giờ kẻ tử tội chỉ
đeo sợi dây lơ lửng, lên xuống qua lại đều chẳng được. Oái oăm thay có
hai con chuột một trắng một đen thay nhau gặm sợi dây, sắp đứt. Mạng
sống của người tử tội thật mong manh làm sao! Thế mà, trong khi bối
rối, người ấy ngửa mặt lên bỗng có năm giọt mật rơi vào miệng, vị ngọt
của mật làm cho người ấy thích thú quên hết nỗi nguy nan khổ sở mà
mình đang đối diện. Thử hỏi người ấy mê đến bực nào? Phật dùng ví dụ
này để diễn tả sự say mê của chúng sanh. Voi rượt kẻ tử tội, dụ cho
hành khổ và hoại khổ, tức là vô thường đang bức bách con người đi đến
cái chết. Sợi dây bên giếng, dụ cho mạng sống con người quá mỏng manh.
Ba con rồng phun lửa, dụ cho ba độc tham, sân, si đang thiêu đốt con
người. Bốn con rắn độc, dụ cho bốn đại, đất, nước, gió, lửa không hòa
hợp rã tan bất cứ lúc nào. Hai con chuột đang gặm mòn sợi dây, dụ cho
ngày và đêm; mỗi giây phút trôi qua là sinh mạng mòn dần…Năm giọt mật
dụ cho ngũ dục lạc là tài, sắc, danh, thực, thùy, mà người đời đang
say đắm, quên đi cái khổ vô thường to lớn đang bức bách con người. Chư
Phật và Bồ Tát mười phương nhìn thấy chúng sanh say mê ngũ dục, không
nhớ vô thường đang bức bách hoành hành, các Ngài khởi lòng từ bi
phương tiện tế độ. Trong kinh Pháp Hoa dụ chúng sanh say mê ngũ dục,
như những trẻ con đang ở trong nhà lửa cháy hừng hực, mà cứ mãi mê vui
đùa không chịu ra. Ông cha muốn cứu các con khỏi nạn lửa, bèn dụ bằng
các món đồ chơi đẹp lạ, các con vì ham đồ chơi, mới chịu ra khỏi nhà
lửa. Ở thế gian này có ai nhận thấy mình đang say mê, hay vẫn cứ vỗ
ngực xưng ta là người tri thức khôn ngoan? Đang si mê mà chẳng biết
mình si mê mới thật là đại si mê. Nếu si mê mà biết mình đang si mê,
thì khả dĩ lóe được chút ít trí tuệ. Mạng sống của con người mong manh
chẳng khác chi sương đầu ngọn cỏ, cây đứng bên vực sâu, dây bò qua
thành giếng, chẳng có chi lâu bền mà tự đắc vui sướng trong cảnh đó.
Kẻ nào tự đắc và hài lòng trong cảnh ấy là kẻ đại si mê, không mảy may
thức tỉnh. Thế nên Tổ đánh thức cái mê lầm ngàn đời của chúng ta.
“Niệm niệm tấn tốc, nhất sát na gian,
chuyển tức tức thị lai sanh. Hà nãi yến nhiên không quá”. Mỗi niệm mỗi
niệm qua nhanh, chỉ trong thời gian ngắn nhất là một sát na (một
niệm), nếu chuyển hơi thở là qua đời sau rồi. Thở ra mà không hít vào
thì thân hiện tại này không còn hoạt động nữa; gió (hơi thở) làm cho
cơ thể hoạt động, gió ngừng, hoạt động cũng theo gió mà đứng, tim
không đập, máu ngừng chảy, thế là qua một đời. Vậy mà người đời cứ
ngồi yên để cho ngày tháng trôi qua. Tổ sách tấn chúng ta: biết rõ
cuộc đời là vô thường, mạng sống chỉ trong hơi thở, phải nổ lực tiến
tu, chẳng lẽ ngồi chơi nhàn nhã cho qua ngày tháng, chẳng làngu dại
lắm ư!
Tóm lại, Tổ chỉ cho chúng ta thấy rõ nguyên
nhân đưa đẩy con người sanh ra đời, là do nghiệp dẫn, nên không thể
tránh khỏi sự đau khổ về nỗi vô thường hư hoại của thân. Sở dĩ con
người có ra và tồn tại là nhờ các duyên chung hợp, bốn đại hỗ tương.
Nhưng bốn đại vẫn chống đối nhau khiến thân này tiêu mòn dần…chỉ trong
khoảng sát na, một hơi thở ra không hít vào là đã qua đời khác. Vậy
thì: “Đâu thể an nhiên để ngày tháng qua suông vô ích”. Lời trách cứ
này của Tổ, chẳng khác nào ngọn roi quất mạnh, khiến chúng ta thức
tỉnh mà cố gắng tu.
Phần 2
Chánh Văn:
“Phụ mẫu bất cung cam
chỉ, lục thân cố dĩ khí ly, bất năng an quốc trị bang, gia nghiệp đốn
quyên kế tự. Miến ly hương đảng, thế phát bẩm sư. Nội cần khắc niệm
chi công, ngoại hoằng bất tránh chi đức. Huýnh thoát trần thế, ký kỳ
xuất ly”
Dịch:
Đối cha mẹ chẳng dâng
ngon ngọt, với lục thân chí quyết bỏ lìa. Không thể an nước trị dân,
nghiệp nhà trọn không nối dõi. Xa làng biệt xóm, cắt tóc theo thầy.
Trong thường nhớ nghĩ công phu. Ngoài rộng mở hạnh hòa kính. Thoát hẳn
thế trần, mong cầu giải thoát.
Giảng:
Đoạn này Tổ trách
những người xuất gia không nỗ lực cố gắng tu.
“Phụ mẫu bất cung cam
chỉ”, đối với cha mẹ chúng ta không nuôi dưỡng món ngon vật lạ.
“Lục thân cố dĩ khí
ly”. Lục thân là chỉ cho thân bằng quyến thuộc. Theo sách Nho hồi xưa
chia ra làm sáu: cha, mẹ, anh, em, vợ, con. Câu này nói đối với thân
bằng quyến thuộc lại cố xa lìa.
“Bất năng an quốc trị
bang. Gia nghiệp đốn quyên kế tự”. Không thể an nước trị dân, sự
nghiệp gia đình chúng ta đều buông bỏ, không nối giòng kế tự
“Miến ly hương đảng”,
tức là xa lìa làng xóm.
“Thế phát bẩm sư”, tức
là cạo tóc theo Thầy học đạo.
Đoạn này Tổ chỉ cho
chúng ta thấy cái gan dạ siêu xuất của người xuất gia. Thông thường,
theo Nho giáo thì cho rằng trách nhiệm lớn lao của người con hiếu là
nuôi dưỡng cha mẹ, kế tục sự nghiệp gia đình. Bây giờ chúng ta đi tu
là bỏ cha mẹ, bỏ quyến thuộc bạn bè. Đối với quốc gia chúng ta không
phải là tôi trung, đối với gia đình thì không sanh con để nối nghiệp.
Bỏ lìa tất cả để cạo tóc theo Thầy học đạo, tức là chúng ta không muốn
làm theo hạnh nghiệp thế gian mà muốn cái siêu xuất thế gian. Nhưng
vào chùa một thời gian, chúng ta lại đi kết tình chị em với người này,
kết tình cha mẹ với người kia. Buông cái này bắt cái kia, bỏ cha mẹ
ruột để kết tình cha mẹ nuôi với thí chủ. Như vậy xuất gia để cầu cái
gì? Có phải cầu luân hồi hay không? Có người lại đi xin một đứa nhỏ về
nuôi làm con. Thật vô lý làm sao! Cha mẹ đã không nuôi, con không sanh
lại đi nuôi con của người rồi xưng là con mình. Tình chân chính đối
với cha mẹ đã cắt đứt, lại đi kết ái từ đâu đâu… Thành ra vào chùa một
thời gian lại trở thành thế tục. Như vậy, thật là phản bội với ý
nguyện xuất gia của mình, phản bội với lý tưởng cao siêu giải thoát.
Mà cái sai lầm này hầu như đầy khắp cửa chùa. Đó là cái vô minh từ vô
thỉ đến giờ nó đang che mờ chúng ta. Đã biết cuộc đời là vô thường, ái
là gốc luân hồi sanh tử. Tại sao vô chùa lại cột thêm dây ái khác, để
rồi cũng buồn, giận, khóc, than? Như huynh đệ lâu lâu giận nhau cũng
khóc… Cứ như vậy ngày qua tháng lại thì tu được cái gì? Giải thoát chỗ
nào mà dám xưng ta đây là Thích tử, là người xuất gia, dạy đạo giải
thoát, trong khi mình đang bị cột hằng trăm mối phiền não? Quí vị phải
nhận thức kỹ điều này. Đừng phản bội lại lý tưởng siêu thoát của mình.
Cạo tóc theo thầy học đạo, thì phải làm sao cho xứng đáng!
“Nội cần khắc niệm chi
công”tức bên trong phải ghi nhớ phương pháp tu của mình, không bao giờ
lơi lỏng. Như trong kinh Bát Nhã dạy hàng giờ hàng phút dùng Trí huệ
Bát Nhã quán chiếu thấy ngũ uẩn lục trần đều không thật để đừng mê
lầm.
“Ngoại hoằng bất tránh
chi đức”, tức là bên ngoài mở rộng đức không tranh. Đối với đại chúng
phải sống theo tinh thần lục hòa, sống lục hòa mới đúng tư cách của
người xuất gia. Bây giờ chúng ta xét lại coi có mấy ai được như thế?
Bên trong thì tính đủ chuyện lăng xăng là đã mất “khắc niệm chi công”.
Còn bên ngoài thì chỉ hai huynh đệ ở chung nhau cũng không hòa, như
vậy thì đâu còn “vô tranh” nữa, mà là “hữu tranh” rồi. Trong loạn
tưởng ngoài đấu tranh, sống như thế, thì đạo lý ở chỗ nào? Thế nên
người xuất gia chúng ta phải nhớ bên trong không xao lãng tu, bên
ngoài sống đúng lục hòa… được vậy thì Tăng đoàn mới vững mạnh lâu dài
và đời tu của mình mới có y nghĩa. Chỉ một câu này thôi cũng quá đầy
đủ cho chúng ta tu hành. Chúng ta phải luôn luôn nhớ: Mạng người trong
hơi thở, thì có gì đâu mà tranh nhau! Chuyện gì cũng nên xí xóa cho
nhau để tu, thời gian đâu có đợi mà ở đó tranh hơn thua, thế mới là
người thức tỉnh. Còn ngược lại ở trong chùa mà người ta nói hơn một
tiếng cũng không được, thấy ai hành động có vẻ khinh mình là không ưa,
cứ chống chọi nhau hết cả thời giờ. Tuy mang hình thức xuất gia mà tâm
niệm hoàn toàn thế tục. Tu hành lơ láo như thế, thì dù một trăm năm
cũng chẳng ra gì.
Trong kinh A-Hàm đức
Phật có nói bài kinh “Tứ niệm xứ” tức là bốn chỗ nhớ niệm:
1.Quán thân bất tịnh.
2.Quán thọ là khổ.
3.Quán tâm vô thường.
4.Quán pháp vô ngã.
Phật nói bốn pháp đó
nếu người nào luôn niệm không quên, thì trong một tháng chứng quả
A-La-Hán, trong bảy ngày chứng quả A-Na-Hàm, trong một ngày chứng quả
Tư-Đà-Hàm, người nào trong một giờ không quên cũng chứng được quả
Tu-Đà-Hoàn. Theo tinh thần Bát Nhã, ở đây tôi có thể nói, người nào
hằng nhớ Trí tuệ Bát Nhãmột tháng không quên, tức đã vào Thánh địa,
một ngày không quên đã bước vào bực Tam thiền, người nào một giờ không
quên đã bước vào Chánh vị. Vì thế, tu là phải luôn luôn như chữ khắc
vào đá không mờ, thì tu mới tiến được. Còn chúng ta thì chợt nhớ chợt
quên, một ngày trôi qua chỉ thoáng nhớ vài ba khắc là cùng, vì thế mà
tuy tu đã lâu, rốt cuộc cũng chỉ loanh quanh trong phiền não mà thôi.
“Huýnh thoát trần thế,
ký kỳ xuất ly”,”Huýnh thoát” là ra khỏi, “ký kỳ” là hẹn ngày. Nghĩa là
chúng ta nhất định có ngày thoát khỏi cõi trần. Hai câu trước nói bổn
phận của người xuất gia, hai câu này khuyên chúng ta lập chí giải
thoát, nhất quyết tu đời này cho liễu ngộ, đừng nói rằng: Thôi tu được
bao nhiêu hay bấy nhiêu, đời sau tu tiếp nữa. Còn hẹn lần hồi như, đấy
là người chưa hiểu đạo. Phải nhất quyết đời này thoát khỏi luân hồi
sanh tử. Chúng ta nói thế có cao vọng lắm không? Nhiều người cho rằng:
Trong kinh Phật nói phải tu ba A tăng kỳ kiếp, còn mình tu một đời này
chắc gì giải thoát? Nghĩ như vậy rồi thối tâm, cứ tu lơ là cho qua
ngày, sợ ráng tu quá thì đổ nghiệp. Vì thế, khuya thức dậy tụng một
thời công phu, kế xuống lo ăn uống, ăn xong lo đi thăm tín đồ hoặc đi
lo vài công việc trong chùa, chừng về mệt quá mở radio nằm nghe một
hồi, rồi ngủ một giấc, thức dậy lại ăn cơm, ăn xong lại ngủ v.v… Cứ
thế mà tiếp diễn ngày này qua ngày khác cuộn tròn trong vòng say mê
ấy, hỏi chừng nào mới giải thoát? Trong kinh Pháp Hoa, Phật đã nói:
Ngài cùng Bồ Tát Di-Lặc xuất gia tu hành một lúc, mà Ngài thì tinh tấn
nên sớm thành Phật, còn Bồ Tát Di-Lặc cứ mãi la cà những nơi sang
giàu, nên lần khần mãi đến nay cũng còn là Bồ Tát. Nhờ tinh tấn mà
vượt qua bao nhiêu số kiếp, còn giải đãi thì không biết đến chừng nào?
Thuở Phật còn tại thế, cũng có một số Tăng sĩ thấy mình không kham
tiến tu được nên xin hoàn tục. Đối với những vị ấy, tuy sống trong
thời chánh pháp mà chẳng khác chi mạt pháp, vì không tiến được. Còn
chúng ta ngày nay tuy sống trong đời mạt pháp, mà y theo lời Phật Tổ
dạy nỗ lực tiến tu, khắc một chữ Tử trên trán, không sợ chết, quyết
định tu một đời này cho liễu ngộ, ấy là chúng ta đã chuyển mạt pháp
thành chánh pháp. Chánh pháp hay mạt pháp cũng gốc tại lòng mình.
Quyết chí tiến tu, ấy là chánh pháp, khởi lòng lui sụt, ấy là mạt
pháp. Phật đâu không từng nói: “Người tuy ở xa ta ngàn dặm mà nghe lời
ta dạy y cứ tu hành thì chẳng khác nào ở cạnh ta”. Như vậy chúng ta
tuy cách Phật hơn 2.500 năm mà y theo lời Phật dạy thực hành thì cũng
giống như được sống trong thời có Phật. Sở dĩ nói thời mạt pháp khó
tu, là vì chúng ta giải đãi là một, ý chí yếu hèn là hai. Nếu ở thời
mạt pháp mà chúng ta lập chí cho vững, tinh tấn không dừng thì mạt
pháp đã trở thành chánh pháp.
Thí dụ: xứ mình là xứ
nóng, nhưng người xứ lạnh sang đây ở, họ trang bị phòng có máy lạnh
thì họ đâu còn thấy nóng nữa. Như vậy họ đã chuyển nóng thành mát, đổi
xấu thành tốt. Đó là nói về vật chất huống nữa là tinh thần. Như trong
thời khó tu nếu ý chí chúng ta mạnh thì có thể đổi hết. Người có chí
việc khó biến thành dễ, người không có chí việc dễ biến thành khó. Vì
thế quí vị không nên than phiền, mình sống trong thời mạt pháp khó tu,
mà chỉ nên than phiền sao chúng ta lười biếng đua đòi! Như thấy người
ta sắm radio nghe vui vui, mình cũng bắt chước sắm theo; đua đòi như
thế tất bị chi phối, khi đã bị chi phối rồi thì việc tu càng ngày càng
bê trể, đó là bệnh của chúng ta chớ không phải bệnh của thời đại. Thời
đại cũng là một yếu tố làm cho chúng ta khó tu,song biết đâu nếu chí
chúng ta mạnh thì đó cũng là cái hay giúp chúng ta tiến tu. Đừng bi
quan vì nghĩ là đời mạt pháp, mà chỉ nên tự thẹn mình không có chí. Vì
thế, Tổ dạy chúng ta phải lập chí giải thoát, nhất định chúng ta sẽ ra
khỏi cõi trần một ngày gần đây, chớ không để đắm chìm mãi mãi. Chúng
ta phải luôn luôn nhớ áp dụng bốn câu này vào đời tu của mình, mới
thật là người xuất gia chân chánh.
Phần 3
Chánh Văn:
“Hà nãi tài đăng giới
phẩm, tiện ngôn ngã thị Tỷ Kheo. Đàn việt sở tu, khiết dụng thường
trụ, bất giải thổn tư lai xứ, vị ngôn pháp nhĩ hiệp cúng. Khiết liễu
tụ đầu huyên huyên, đãn thuyết nhân gian tạp thoại. Nhiên tắc nhất kỳ
sấn lạc, bất tri lạc thị khổ nhân. Nẵng kiếp tuẩn trần, vị thường phản
tỉnh. Thời quang yểm một, tuế nguyệt sa đà, thọ dụng ân phồn, thí lợi
nùng hậu. Động kinh niên tải, bất nghĩ khí ly. Tích tụ tư đa, bảo trì
huyễn chất. Đạo sư hữu sắc, giới húc Tỷ Kheo, tiến đạo nghiêm thân,
tam thường bất túc. Nhân đa ư thử, đam vị bất hưu, nhật vãng nguyệt
lai, táp nhiên bạch thủ. Hậu học vị văn chỉ thú, ưng tu bác vấn tiên
tri, tương vị xuất gia quí cầu y thực”.
Dịch:
Sao lại vừa mới lên
giới phẩm, liền xưng: Ta là Tỳ Kheo. Dùng của thí chủ, ăn của Thường
trụ, không biết xét nghĩ của ấy tự đâu đem đến, lại nói càng: lẽ
(đương nhiên) phải hiến cúng. Ăn rồi dụm đầu ồn náo, chỉ nói toàn
chuyện tạp thế gian. Song, một thuở đua vui, không biết vui ấy là nhân
của khổ. Nhiều kiếp theo trần, chưa từng tỉnh lại. Thời giờ mất mát,
năm tháng dần dà. Thọ dụng càng nhiều, thí chủ càng được lợi. Hết năm
này sang năm khác chẳng chịu trừ bỏ. Chất chứa càng nhiều chỉ để giữ
gìn thân huyễn. Đấng đạo sư có lời dạy, răn nhắc Tỳ Kheo: “Tiến đạo
nghiêm thân, ba việc thường chớ đủ”. Người nay phần nhiều mê đắm không
thôi, ngày lại tháng qua thoạt nhiên đầu bạc. Kẻ hậu học chưa nghe chỉ
thú, phải nên rộng hỏi bậc tiên tri. Chớ nói xuất gia trọng cầu ăn
mặc.
Giảng:
“Hà nãi tài đăng giới
phẩm, tiện ngôn ngã thị Tỳ Kheo”. Đến đây Tổ cho một roi quá đau. Thọ
giới rồi xưng Tỳ Kheo vì sao lại bị quở? Tổ quở đây là quở bịnh ngã
mạn. Là người xuất gia phải luôn giữ vững ý chí, bổn phận của mình,
bên trong ghi nhớ pháp tu, bên ngoài mở rộng đức lục hòa, luôn luôn có
ý chí cầu siêu thoát thế gian. Tại sao mới vừa thọ giới lại xưng ta là
Tỳ Kheo, có ý tự cao ngã mạn? Vì thế mà Tổ quở… Rồi thì:
“Đàn việt sở tu, khiết
dụng thường trụ”. Tiêu dùng của thí chủ bao nhiêu cũng không hài lòng,
không biết xấu hổ, tiết kiệm, vì xưng ta là Tỳ Kheo nên mặc tình thọ
hưởng của thường trụ. Như vậy thật là trái đạo, đã phản bội ý chí siêu
thoát rồi. Đã không biết bổn phận lại nghĩ rằng: Mình thọ giới cao thì
có quyền thọ nhận nhiều, mà không biết xấu hổ, không lo nỗ lực tu
hành. Đây Tổ lại tiếp tục quở:
“Bất giải thổn tư lai
xứ, vị ngôn pháp nhĩ hiệp cúng”. Không biết xét nghĩ của ấy từ đâu đem
đến, lại bảo rằng: lẽ tự nhiên phải dâng cúng cho mình. Phật dạy Tỳ
Kheo ăn cơm phải “Tam đề ngũ quán”. Nhưng thường chúng ta thấy phần
đông chỉ quán lấy lệ, chỉ có hình thức bên ngoài chứ chẳng thật tâm
quán tưởng. Ngũ quán tức năm điều quán tưởng, đó là:
1.Xét công mình tu hành
được nhiều hay ít, và xét của ấy từ đâu đem đến cúng dường, xem mình
có xứng đáng nhận thọ hay không? Nếu không xứng mà thọ công khó nhọc
của người thì mang nợ. Vì thế, chúng ta phải luôn luôn nhớ, hổ thẹn mà
cố gắng tu hành làm sao cho xứng đáng.
2.Xét lại đức hạnh của
mình, được những điểm ưu nào, còn những điểm khuyết nào để sửa.
3.Xét ngừa tâm tham của
mình, không để nó xâm lấn. Giả sử lên bàn ăn thấy toàn rau muống luộc
rồi sanh ngán, nghĩ đến món ăn ngon. Như vậy là có lỗi tham ăn. Chúng
ta phải nhớ ngừa tâm tham ấy chớ đòi hỏi, ăn sao cũng được miễn sống
để tu hành là quí rồi.
4.Nên xem việc ăn uống
chỉ là món thuốc để trị bịnh. Như khi đói quá thì tay chân rũ liệt,
không muốn nói cũng không muốn đi, đó là bịnh chớ gì? Rồi sau khi ăn
vài chén cơm thấy khỏe… Vậy cơm là thuốc trị bịnh. Mà đã là thuốc thì
dù thuốc đắng thuốc ngọt gì cũng uống, uống cốt để trị bịnh thôi, đừng
chê khen gì cả. Nếu chúng ta ăn mà nghĩ ngon dở tức là đã lệ thuộc vào
cái lưỡi, chứ không phải ăn để trị bịnh. Nếu ăn để trị bịnh thì dù
đắng cay ngon dở gì cũng được, miễn trị được bịnh đói thì thôi.
5.Nghĩ mình tu là quyết
định thành đạo nghiệp. Tức phải thể nhập bản thể của mình, kế đó thực
hành công hạnh viên mãn, cho nên mới ráng mà thọ món ăn này, chớ chẳng
phảino đủ để vui chơi. Chúng ta thấy có rất nhiều người lầm khi nói:
ăn thứ này bổ có thể lên cân, ăn thứ kia lâu ngày sẽ sụt ký… Như vậy
đó là chúng ta vì mập ốm chứ chẳng phải vì đạo nghiệp mà ăn. Chúng ta
ăn cốt để tu hành thành đạo độ sanh, đó là ý nghĩa mà Phật bắt phải
quán trước khi ăn. Thế mà hiện nay có người dám tuyên bố trước đại
chúng rằng: “Ăn chay đã quá lắm rồi, tại sao lại phải “tam đề ngũ
quán?” Nghe như vậy tôi cảm thấy thực buồn. Bởi vì chúng ta đã sẵn
bịnh buông lung, nếu không hằng xét mình thì dễ bị nghiệp lôi, nên
Phật bắt chúng ta trong tất cả hành động đều phải tỉnh giác, không để
cho thói xấu xâm nhập. Khi ăn chúng ta khởi Tam đề ngũ quán là để xứng
với tư cách của người cầu giải thoát. Nếu chúng ta không xét, không
nghĩ, vừa ăn vừa cười hỷ hả nói chuyện nhảm nhí thế gian, thì thực là
trái đạo. Có người bảo rằng: “Tín đồ cúng là lẽ đương nhiên, tôi tu họ
phải cúng cho tôi ăn”. Lý luận như vậy thật là không chịu nổi. Họ có
thiếu nợ mình đâu mà phải cúng cho mình ? Sở dĩ họ cúng là vì họ muốn
châm một ít dâù vào ngọn đèn Tam Bảo, để soi sáng thế gian cho mọi
người thoát khỏi mê lầm. Vì chúng ta là những người nhân danh Tăng
Bảo, giữ cho Phật pháp thường còn ở thế gian. Tín đồ giúp chúng ta là
muốn cho Phật pháp được lâu dài, để chúng sanh được cứu giúp khỏi vòng
sanh tử, chớ chẳng phải họ giúp chúng ta ăn chơi. Nhận của tín thí thì
phải đủ tư cách của người giải thoát. Bằng tu mà tính chuyện tầm phào,
bắt người cúng dường cho mình là chuyện không thể được. Đó chỉ là lý
luận của kẻ si mê lầm lạc. Đến câu:
“Khiết liễu tụ đầu
huyên huyên, đãn thuyết nhân gian tạp thoại”. Là ăn xong rồi nhóm ba
hợp bảy nói chuyện ồn náo, toàn những chuyện tạp nhạp ở thế gian. Tổ
quở chúng ta không lo khắc niệm bên trong, ngoài tuyên dương pháp lục
hòa mà chỉ nói toàn chuyện thế gian. Tệ đoan ấy hầu như đã lan tràn
khắp chùa chiền. Chúng ta ít nghe bàn chuyện giải thoát mà chỉ bàn
chuyện lẩn quẩn đâu đâu. Nếu chúng ta cứ bàn chuyện thế gian, mà
chuyện thế gian là chuyện trong sanh tử thì làm sao chúng ta thoát
khỏi sanh tử được. Chúng ta phải cố gắng làm sao thoát khỏi vòng sanh
tử, để rồi chèo thuyền Bát Nhã cứu vớt chúng sanh, đó mới là bản hoài
của người tu.
“Nhiên tắc nhất kỳsấn
lạc. Bất tri lạc thị khổ nhân” Song, một thuở đua vui, không biết vui
ấy là nhân của khổ. Trong lúc đuổi theo cái vui, chúng ta đâu biết
rằng vui ấy là nhơn đau khổ. Hiện tại chúng ta tưởng bàn nói nhảm nhí,
cười đùa đó là vui, nhưng đâu ngờ rằng chính đuổi theo cái vui tạp
nhạp ấy là nhân khổ sau này.. Chúng ta chạy theo cái vui sanh diệt thế
gian tức không tránh khỏi cái khổ sanh tử ở ngày mai. Nhân sanh diệt
tức quả sanh diệt, mà sanh diệt tức khổ não vậy.
“Nẵng kiếp tuẫn trần,
vị thường phản tỉnh”. Nhiều kiếp rồi chúng ta đã chạy theo trần tục
chưa từng có phút giây phản tỉnh. Nếu chúng ta biết phản tỉnh thì đâu
đến nỗi phải lang thang trong sáu nẻo luân hồi bao nhiêu kiếp, rồi nay
lại bị nghiệp lôi cuốn mà sanh ra đây nữa? Nếu vì nguyện độ sanh mà có
ra đây thì đâu có mê muội như thế này? Đã trôi giạt tự bao lâu nay mà
không chịu thức tỉnh, cứ chạy theo cái vui thế tục ấy, thì biết bao
giờ mới thoát khỏi luân hồi? Ngang đây, quí vị phải cố gắng đừng chạy
theo ngoại cảnh sanh diệt mà phải hằng tỉnh giác luôn luôn.
“Thời quang yểm một,
tuế nguyệt sa đà”. Thời quang yểm một là thời giờ mất mát, năm tháng
dần dà. Ý nói chúng ta không biết phản tỉnh, buông mặc cho thời gian
trôi qua, thật đáng tiếc!
“Thọ dụng ân phồn, thí
lợi nùng hậu”. Thọ dụng của thí chủ càng nhiều, thì lợi của thí chủ
càng lớn. Đây là lời cảnh tỉnh lớn lao của Tổ. Nếu chúng ta thọ nhận
của thí chủ càng nhiều thì thí chủ được lợi lớn, mà phần mình thì bị
tổn giảm. Như trong kinh A-Hàm có đoạn nói: Một hôm Ngài A-Nan nằm
mộng thấy có một cái hầm lớn, dưới hầm toàn là người tu, trên miệng
hầm có một tấm ván bắt ngang, những người cư sĩ thong thả qua lại trên
ấy. Bấy giờ Ngài A-Nan mới đem điềm chiêm bao nhờ Phật giải thích,
Phật dạy: “Sau nay đệ tử của ta không biết giữ gìn giới pháp, chẳng
gắng tu hành, thọ dụng của thí chủ quá nhiều mà không tu nên phải đọa,
tức rơi xuống hầm. Còn những người thí chủ phát tâm làm phước cúng
dường nên được sanh lên cõi lành, đó là hình ảnh của những người qua
lại trên cầu”. Quí vị thấy như vậy có tủi không? Chúng ta tu là để độ
thí chủ, đằng này trái lại người tu đi xuống, thí chủ đi lên. Họ phát
tâm cúng dường thì họ có phước, còn mình không chịu tu thì họa tự
mang. Chúng ta phải nên nhớ kỹ điều này. Ở đây Tổ muốn chỉ cho chúng
ta thấy, nếu người được nhiều người dâng cấp rồi cho là mình có phước,
ỷ lại vào phước báu của mình buông lung xài lớn, không biết xét nét,
chẳng kể nổi khó khăn khổ nhọc của đàn na, thọ dụng càng nhiều thì thí
chủ càng được lợi mà chính mình lại tổn hại. Thí như người mài dao và
viên đá mài. Dao của người mài càng ngày càng bén, mà đá bị mài càng
ngày càng mòn. Người thí chủ dụ cho con dao được mài, còn người tu
chẳng khác nào viên đá, người nào đến mài dao cũng bén, còn viên đá
thì thiệt thòi. Thế nên, đừng tưởng người ta cúng nhiều là vinh hạnh,
mà phải thấy đó là tiêu mòn phước đức của mình.
Nói như vậy thì sao?
Mình có nên thọ cúng không, hay nên tự túc? Đây là chổ cần chú ý. Có
lắm người nghe nói như vậy liền nghĩ: Thôi bây giờ mình phải tự làm để
ăn, rảnh lúc nào tu lúc nấy cho khỏi thọ của tín thí, khỏi mang tội,
trầm luân. Lý luận như vậy có đúng không? Hình như đa số chấp nhận là
đúng. Chúng ta nên cẩn thận, phải hiểu cho tường tận điều này để không
quanh quẩn lầm lạc. Đạo Phật chủ trương đi tu là làm khất sĩ làm kẻ ăn
mày. Ăn mày đây không có nghĩa là rút rỉa đồng bào, sâu mọt của bá
tánh. Ăn mày đây là cốt gây duyên lành cho chúng sanh, chớ không phải
vì muốn rút rỉa khiến cho người phải khổ. Bởi vì muốn độ người thì một
là mình ban ơn cho họ, hai là họ ban ơn cho mình, đó là kết duyên với
nhau. Nếu mình và người không liên hệ gì thì khó mà độ được. Vì là
người tu, chúng ta không có của cải để ban ơn cho họ, thì trước mình
nhận ăn của họ bằng cách thọ đồ cúng dường, nhưng sau đó mình phải đem
giáo pháp của Phật mà bố thí lại. Như thế họ giúp mình cơm áo, mình
giúp họ đạo lý, tuy một mặt mình thọ ân, nhưng một mặt mình cũng ban
ân. Như vậy trên đường tu tuy thấy mình như thiếu nợ mà thật sự không
thiếu. Điều này Phật đã nói rõ trong kinh A-Hàm qua câu chuyện Bà Dì
Mẫu xin xuất gia: Di Mẫu Ma-Ha Ba-Xà Ba-Đề xin Phật xuất gia, Phật
không cho. Bà rất buồn khổ. Thấy vậy Ngài A-Nan bạch Phật: “Thuở xưa,
Thế Tôn được sanh ra mới 7 ngày, Mẫu hậu đã mất. Từ đó một tay Di Mẫu
nuôi nấng Thế Tôn cho đến lớn khôn, biết bao nhọc nhằn vất vả. Bây giờ
Bà xin xuất gia mà Phật không cho, chẳng lẽ Ngài không nhớ ơn sao?”.
Phật trả lời: “Chính vì nhớ ơn mà ta đã dạy Bà thọ Tam quy ngũ giới,
thế cũng đủ trả ơn rồi”. Như vậy chúng ta thấy cách trả ơn của người
tu không phải là đem tiền tài đáp lại, mà chỉ làm sao khiến người biết
đạo, mến đạo rồi phát tâm tu hành đó gọi là đền ơn. Thí chủ giúp ta
tài sản, ta giúp lại bằng pháp. Cả hai bố thí lẫn nhau.
Giả sử nay chúng ta
thọ nhận của người mà chưa từng bố thí pháp cho họ, lỡ họ chết mất
chúng ta có nợ họ hay không? Nếu nợ thì làm sao trả đây? Chúng ta nên
nhận rõ điều này để tránh khỏi lo âu. Chúng ta nên ý thức rằng chúng
ta là kẻ nợ của tất cả chúng sinh, chẳng phải nợ riêng của một người
cúng dường ta mà thôi. Vì sao vậy? Khi quí vị tuyên bố xuất gia tức là
đã gánh vác cái nợ lớn lao của toàn thể chúng sanh rồi. Vì bản nguyện
của người xuất gia là tự cầu giải thoát và cứu độ chúng sanh. Tức
chúng ta là người gánh vác đưa đón chúng sanh qua khỏi biển trầm luân,
cho nên ai cũng là chủ nợ của mình hết. Vì thế mà tôi dám tuyên bố một
câu mạnh mẽ rằng: “Tôi là kẻ nợ của tất cả. Song, lười trả lắm! Ai
biết đòi mới trả”. Nhưng cái nợ của người tu khác người thế gian.
Ngoài thế gian nợ thì họ kéo lưng, níu áo. Còn nợ của người tu, thì
chuyển làm Thầy trò. Như vậy Phật tử cúng dường Tăng Ni, nếu họ chưa
được độ trong hiện tại thì trong vị lai họ cũng sẽ được độ, vì họ đã
có gieo duyên với Tam Bảo, đã có duyên thì thế nào cũng gặp nhau qua
nghĩa Thầy trò, làm Thầy để độ trò, để cứu vớt họ qua khỏi luân hồi
sanh tử. Thế nên, nếu là kẻ thực tu, quyết chí cầu giải thoát thì nợ
của thí chủ bao nhiêu cũng không sợ, vì đó là gây duyên để độ người.
Chỉ những ai nhát nhúa muốn an phận thì mới sợ lẽ đó, rồi nghĩ rằng:
thôi mình làm tự túc sống, chẳng dính dáng gì đến ai hết. Phật gọi đó
là ích kỷ chứ không phải vì chúng sanh. Nói tóm lại nợ hay không nợ
cũng tại nơi mình. Chúng ta có thể là kẻ nợ chịu nhiều thống khổ nếu
chúng ta không thực tu hành, không nhất tâm cầu giải thoátNgược lại,
chúng ta có thể là người độ thoát chúng sanh nếu chúng ta quyết chí tu
hành giải thoát.
Có lắm người quan niệm
rằng, phải tu gấp rồi nguyện sanh về một nơi nào đó (cõi Cực Lạc) yên
ổn hơn để tu nữa, còn trở lại Ta Bà khổ quá tu không được. Lý luận này
rất hay đối với người không nghĩ rằng mình là kẻ nợ của chúng sanh,
hoặc tự thấy mình bất lực với hiện tại. Nhưng đối với người có tâm
niệm dũng mãnh, nhất tâm giải quyết sanh tử ngay trong đời này và thệ
nguyện cứu vớt chúng sanh, thì thấy việc cầu xin về Cực Lạc là chưa
cần thiết. Vì không hợp với tâm nguyện cao đẹp của Bồ Tát, như Ngài
Địa Tạng nguyện xuống địa ngục, nếu địa ngục chưa hết người. Ngài thề
không thành Phật (địa ngục vị không thệ bất thành Phật). Và có ai gan
dạ bằng Ngài A-Nan, Ngài nguyện: Nếu còn một chúng sanh chưa thành
Phật, Ngài sẽ không nhập Niết Bàn. Chúng ta là Phật tử, học giáo lý
Đại thừa, thì ít ra cũng phải nguyện ở nơi Ta Bà, nếu chưa độ hết
chúng sanh thì không về Cực Lạc (hay nhập Niết Bàn). Còn như chạy gấp
về bên ấy, còn ai ở bên này chịu khổ cũng mặc kệ, thì mình yếu đuối
quá. Chúng ta đừng thấy trong sử ghi là có những vị Thiền sư đời sau
trở lại làm tướng, làm quan, làm vua hay làm người nữ… Như trường hợp
ông Tô Đông Pha trước là Thiền sư sau trở lại làm Tể quan, rồi cho đó
là lui sụt. Đâu không nhớ trong kinh Phổ Môn nói’ “Ưng dĩ Tể quan thân
đắc độ giả tức hiện Tể quan thân nhi vị thuyết pháp.Ưng dĩ Phạm Vương
v.v…”Bồ Tát luôn luôn tùy tha nguyện cầu độ mà các Ngài tùy hình
tướnghiện ra để độ, đó là tùy nguyện độ tha, chứ chẳng phải các Ngài
lui sụt. Có một số người lầm lẫn sợ sệt, kiếp này không độ được thí
chủ thì làm sao đây? Chẳng ngờ rằng mình đã nguyện tự giác và độ hết
chúng sanh mới thành Phật đạo, thì có gì phải sợ, chỉ sợ chúng ta
không dõng mãnh tiến tu, chớ một khi bước vào dòng đạo rồi thì dù cho
có thọ của thí chủ bao nhiêu cũng không đến nỗi đọa. Vì thế các Thiền
sư thường nói: “Dù thọ mỗi ngày một lượng vàng ròng cũng chẳng sao”.
Song, chúng ta cũng có thể đọa dù thọ nhận rất ít, nếu chúng ta buông
lung tâm ý chẳng tự giác ngộ.
“Động kinh niên tải
bất nghĩ khí ly. Tích tụ tư đa bảo trì huyễn chất”. Trải qua nhiều năm
mà chẳng nghĩ lìa bỏ (việc thọ dụng quá nhiều). Chứa nhóm như thế để
làm gì, chẳng qua cũng chỉ bảo trì thân hư giả này. Chúng ta đã thấy
thân này tự tánh nó là không, duyên hợp giả có, thế mà trong chùa khi
được đủ gạo ăn lại kiếm thêm mớ tiền, đủ tiền ăn năm này lại lo năm
tới, để đau thì có tiền uống thuốc, đi đâu thì có tiền xe, tiền xài cứ
thế lo hoài, lo mãi cho thân này mà sự tiến tu thì không có. Chẳng
khác nào những kẻ mê lầm ở thế gian, lo cho có sự nghiệp lớn lao, chợt
khi vô thường đến ăn năn không kịp, thật là đáng tiếc. Vì thế chúng ta
phải hằng thức tỉnh, đừng nghĩ phải làm sao cho sung túc, chỉ cốt làm
sao sống tạm qua ngày. Hãy nhớ đến hình ảnh đức Phật khi xưa, một bình
bát trên tay, đến đâu thì vào xóm làng khất thực, ai có cho thì ăn,
không cho thì bụng trống về ngủ, ngồi thiền cho qua ngày đó, hôm sau
lại đi khất thực. Chẳng riêng gì Phật mà cả mấy ngàn Tăng cũng đều như
thế. Các Ngài sống không có ngày mai, nhờ thế mà các Ngài luôn nghĩ
đến giải thoát. Còn chúng ta vì có ngày mai, tháng tới, năm sau… cho
nên quên mất chuyện giải thoát. Chúng ta bây giờ không thể theo hạnh
khất thực như xưa mà chúng ta phải tìm kế sống. Vì hoàn cảnh ngày nay
khác ngày xưa. Nhưng chúng ta phải sống thế nào cho hợp lẽ. Chỉ cần
nghĩ hôm nay có sống, ngày mai có sống là đủ rồi đừng nghĩ đến sang
năm nữa mà rối loạn, tâm không an định, tâm đã không an thì tu hành
khó mà tiến bộ. Đây là chỗ cần yếu phải ghi nhớ.
“Đạo sư hữu sắc, giới
húc Tỷ Kheo. Tiến đạo nghiêm thân, tam thường bất túc”. Đạo sư đây là
chỉ đức Phật, Phật có lời răn dạy: “Các Thầy Tu muốn tiến tu đạo
nghiệp, trang nghiêm pháp thân thì ba việc thường phải chẳng đủ. Ba
việc là ăn, mặc và ngủ. Chẳng đủ là hơi thiếu một chút, chớ không phải
không ăn không mặc, không ngủ. Đôi khi chúng ta hiểu lầm nghe nói
chẳng đủ rồi thức hoài không ngủ, hoặc nhịn đói không ăn…đó chỉ là gốc
bịnh. Người thế gian thì ngày ba bữa lại thêm các món ăn chơi, chúng
ta ăn ít hơn họ một chút thì sáng ăn sơ sài gọi là tiểu thực. Trưa ăn
đầy đầy một chút gọi là ngọ trai. Chiều uống chút bột cho ấm bao tử,
ngồi thiền khỏi xót ruột, ấy là thiếu đó. Nếu chiều ăn một bữa đầy
bụng thì dư rồi. Thiếu một chút đó là để mình “tiến đạo nghiêm thân”.
Mặc cho thế gian quần này áo nọ, chúng ta chỉ vài bộ vải bô cho ấm
thân thôi. Về ngủ, người thế gian bảo phải ngủ 8 tiếng mới đủ sức
khỏe, thì chúng ta ngủ khoảng 7 tiếng thôi. Ăn, mặc, ngủ ta đều bớt
thì sự tu hành mới dễ tiến. Trên đường tu chúng ta phải luôn nhớ hạn
chế bớt ba việc này.
“Nhân đa ư thử đam vị
bất hưu, nhật vãng nguyệt lai táp nhiên bạch thủ”. Người đời đa số đối
với ba việc ăn, mặc, ngủ thường mê thích không thôi. Ngày qua tháng
lại, sực nhớ thì tóc đã bạc rồi! Người thế gian đối với việc ăn thì
chạy đua tìm món ngon vật lạ. Còn mặc thì nay quần này, mai áo nọ thay
đổi luôn luôn. Ngủ thì phải làm sao cho êm ấm, ngủ cho ngon. Suốt cả
cuộc đời chỉ lo ăn, mặc, ngủ! Có nhiều người nói có vẻ cao thượng, nào
là lo cho gia đình, xã hội v.v… nhưng chung qui cũng vì bản thân mình
trước đã, mà vì bản thân mình cũng là vì cái ăn. Nói thế nghe tầm
thường quá, song quí vị thử xét lại rồi sẽ thấy trên thế giới này,
người ta đã gieo rắc bao thống khổ cho nhau, cũng chỉ vì miếng ăn mà
ra cả. Nhân loại vì tranh ăn mà phải đắm chìm trong chiến tranh khổ
não chẳng những riêng loài người mà tất cả chúng sanh đều như thế. Hầu
hết nguyên nhân các cuộc đấu tranh đều là vì miếng cơm manh áo. Người
đời vì say mê theo đó để ngày tháng trôi qua, phút chốc bạc đầu. Còn
chúng ta là người thức tỉnh thì phải khác hơn chứ đừng như thế. Nếu cứ
mãi lo ăn mặc ngủ mà không chịu tiến tu thì thật đáng hổ thẹn!
“Hậu học vị văn chỉ
thú, ưng tu bác vấn tiên tri, tương vị xuất gia quí cầu y thực” Đến
đây Tổ quất cho một roi đau điếng. Những người học đạo sau này nếu
chưa nghe, chưa hiểu lý đạo thì nên rộng hỏi những vị biết trước mình,
để chỉ bày cho mình rõ đạo lý; chứ không phải suốt ngày chỉ lo ăn,
mặc, ngủ để đến già chẳng hiểu mảy may. Nếu như thế ấy sẽ bị bảo là
người xuất gia mà chỉ vì cầu ăn mặc chẳng ích chi cho mình, cũng chẳng
lợi cho người. Vì thấy người tu không ý thức bổn phận của mình, nên
Ngài quở trách để chúng ta ráng vươn lên, đừng mãi lẩn quẩn trong vòng
ăn mặc như người đời, mà mất hết đạo nghiệp.
Phần 4
Chánh Văn:
“Phật tiên chế luật khởi
sáng phát mông. Quỹ tắc oai nghi tịnh như băng tuyết. Chỉ trì tác phạm
thúc liễm sơ tâm, vi tế điều chương cách chư ổi tệ. Tỳ ni pháp tịch
tằng vị thao bồi, liễu nghĩa thượng thừa khởi năng chân biệt. Khả tích
nhất sanh không quá, hậu hối nan truy. Giáo lý vị thường thố hoài,
huyền đạo vô nhân khế ngộ”.
Dịch:
Phật trước tiên chế
luật để mở mang hạng sơ cơ. Phép tắc oai nghi sạch như băng tuyết. “
Chỉ trì tác phạm” để kềm thúc kẻ sơ tâm, điều luật chi li để cải sửa
những điều dở tệ. Trường giới luật chưa từng học hỏi thì liễu nghĩa
thượng thừa làm sao lãnh hội? Đáng tiếc, một đời luống qua, sau rồi ăn
năn đâu kịp. Giáo lý chưa từng để lòng, đạo huyền nhân đâu khế ngộ?
Giảng:
“Phật tiên chế luật
khởi sáng phát mông”. Tổ dạy chúng ta muốn tu học đúng tư cách người
tu phải đầy đủ ba môn học: Giới, định, huệ. Trước, Phật chế luật để mở
mang chỉ bày cho kẻ sơ cơ (mông, là kẻ đồng mông, tức sơ cơ).
“Quỹ tắc oai nghi tịnh
như băng tuyết”. Chúng ta mới thọ giới thì bao nhiêu oai nghi giới
luật Phật chế ra phải cố giữ gìn đúng đắn, trong sạch như băng tuyết.
“Chỉ trì tác phạm thúc
liễm sơ tâm”. Thế nào là chỉ trì, tác phạm? Chỉ là trì, là gìn giữ.
Tác là phạm. Như trong năm giới của người tại gia, giới thứ nhứt là
không được sát sanh. Không sát sanh gọi là trì giời, có nghĩa là ngưng
việc ấy không làm, tức “chỉ trì”. Còn nếu làm việc ấy gọi là phạm
giới, tức “tác phạm”. Vì người mới vào đạo, tâm còn buông lung nhiều
nên phải nhờ giới luật để kềm chế, chẳng khác nào dùng lồng để nhốt
con khỉ không cho nó chạy nhảy tứ tung. Đây gọi là “thúc liễm sơ tâm”.
“Vi tế điều chương
cách chư ổi tệ”. Vi tế điều chương là những phần giới luật nhỏ nhiệm.
Thí dụ giới của Phật tử tại gia, Phật cấm nămđiều; còn giới của Sa di
đến mười điều. Mười giới này nhỏ nhiệm hơn năm giới trước, như giới
không đeo tràng hoa, ướp nước hoa. Việc làm này có hại ai đâu, nhưng
sao Phật lại cấm? Vì đối với Phật tử tại gia Phật chỉ cấm tà dâm, còn
đối với hàng xuất gia Phật cấm hẳn việc dâm dục. Nếu còn đeo tràng
hoa, ướp nước hoa, còn trang sức, tức nói lên lòng ái nhiễm vẫn còn.
Mà lòng ái còn thì tuy giới thô không phạm, nhưng ái vi tế trong tâm
có phạm. Lỗi tế không tránh được thì lỗi thô một ngày nào đó có thể sẽ
phạm. Phật muốn người xuất gia không phạm giới thô mà cả giới tế cũng
không phạm, nên mới chế ra những điều luật nhỏ nhiệm. Tu càng cao thì
giới càng vi tế, cốt để tẩy sạch những tâm niệm xấu xa. Như khi mình
ăn mặc dơ bẩn thì thấy mình cũng tầm thường thôi, nhưng khi ăn mặc
sang trọng, ướp nước hoa thơm phức thì lúc đó thấy mình sang đẹp quá,
phải không? Chính khi khởi niệm đẹp và sang trọng đó là nhiễm ái đã
sanh. Cho nên chúng ta đừng coi thường những giới luật Phật chế ra,
cho rằng không có gì hại lắm. Sở dĩ Phật cấm là để ngừa tâm ái nhiễm
của chúng ta, để chúng ta hằng xét lại mình vậy.
“Tỳ ni pháp tịch tằng
vị thao bồi, liễu nghĩa thượng thừa khởi năng chân biệt”. “Tỳ ni” là
chỉ cho luật. “Pháp” là chỉ cho pháp, “tịch” là chiếc chiếu. “pháp
tịch” nghĩa là hội nghe pháp ngồi dưới chiếu. Câu này ý nói trường
giảng luật mình chưa từng đến thưa hỏi thực hành, thì đối với “liễu
nghĩa thượng thừa” làm sao rành rẽ được. Chúng ta bước chân vào đạo,
trước phải lấy giới luật làm sợi dây để cột tâm buông lung vọng tưởng
phần nào, kế đó mới đem những giáo lý cao siêu ra ứng tu hành để thoát
khỏi mê lầm. Vì thế, ở đây tuy là một Thiền Viện, song cũng phải giữ
tối thiểu 10 giới làm căn bản. Có nhiều vị cho rằng tu thiền cần gì
giữ giới? Quan niệm của tôi thì không như vậy. Nếu tâm chúng ta được
nhất như thì giới luật cũng bằng thừa. Nhưng tâm còn xao động, còn
đang chạy theo sáu trần mà không có giới luật làm sao ngăn nó nổi?
Giới luật chẳng khác nào hàng rào của Tu viện vậy. Hàng rào có cổng
khóa đàng hoàng thì trong khó ra, mà ngoài cũng khó vào, nhờ vậy mà
hạn chế được tâm phóng túng. Sau đó mới học cách tọa thiền ngồi yên
một chỗ. Đến khi nào tất cả trong chúng đây tâm tâm niệm niệm lúc nào
cũng ứng dụng Bát Nhã, hoặc dùng Bát Nhã chiếu soi chẳng phút giây
quên, hoặc hằng sống với tâm nhất như không bao giờ loạn động, thì lúc
đó có hàng rào của Tu viện cũng bằng thừa. Còn bây giờ tâm mình còn
loạn, ngồi lại thì nhớ người này, nghĩ việc nọ, nên phải cần có hàng
rào để ngăn chận, bớt những cái nghĩ tưởng sằng bậy của chúng ta. Cũng
vậy, giới luật là hàng rào để gìn giữ thân tâm. Muốn đạt đến chỗ cao
siêu trước phải lấy giới luật làm căn bản lúc sơ cơ, sau ứng dụng liễu
nghĩa thượng thừa mới dễ thành tựu.
“Khả tích nhất sanh
không quá hậu hối nan truy”. Đáng tiếc một đời luống qua,về sau hối
hận khó kịp. Nếu chúng ta vào chùa mà cứ chạy theo ăn mặc, ngủ nghỉ,
không học luật cũng chẳng hiểu đường lối tu hành, cứ để một đời trôi
qua, sau ăn năn khôngkịp. Vì thế, nay khi còn khỏe mạnh đầy đủ sức
lực, chúng ta phải nghĩ đến sự giải thoát cho chính mình và cứu độ
chúng sanh mà nổ lực tiến tu. Như vậy dù sống 40,50 tuổi thôi cũng có
giá trị . Còn trái lại dù sống đến 100 tuổi cũng không có ý nghĩa gì.
“Giáo lý vị thường thố
hoài, huyền đạo vô nhân khế ngộ”. Giáo lý chưa từng học hỏi huân tập,
thì huyền đạo làm sao mà khế ngộ được. Ở trước, Tổ quở chúng ta không
học luật giữ giới, đến đây Tổ quở chúng ta không học giáo lý (tức kinh
điển của Phật). Bởi vì có lắm người cạo tóc xuất gia vào chùa, mà chỉ
biết có việc đầu hôm Tịnh độ khuya công phu, cho đó là đủ. Như thế để
ngày tháng dần qua, chỉ lấy việc công quả bình thường cho là tròn bổn
phận, đâu ngờ cái đó chỉ là việc lơ láo qua ngày. Đến phút tắt hơi mới
thấy mình mờ mịt chẳng rõ lối đi. Vì thế, người có chí xuất gia trước
phải hiểu rành luật lệ của Phật dạy, kế đến hiểu sâu giáo lý thì mới
mong tiến trên con đường cao siêu giải thoát. Chữ “huyền đạo” đây có
nghĩa giáo lý cao siêu của Phật, mà cũng có nghĩa là tông chỉ của
Thiền Tông. Tu học có ba môn giới, định và huệ. Giới, định, huệ là ba
môn then chốt, người vào đạo không thể thiếu được, thiếu ắt không rõ
đường đi. Đây Tổ trách chúng ta về lỗi không tu học.
Phần 5
Chánh Văn:
“Cập chí niên cao lạp
trưởng, không phúc cao tâm, bất khẳng thân phụ lương bằng duy tri cứ
ngạo, vị am pháp luật, tập liễm toàn vô, hoặc đại ngữ cao thanh xuất
ngôn vô độ. Bất kính thượng trung hạ tọa, Bà la môn hội tụ vô thù. Oản
bát tác thanh thực tất tiên khởi. Khứ tựu quai giác, tăng thể toàn vô,
khởi tọa chung chư động tha tâm niệm. Bất tồn ta ta quỹ tắc, tiểu tiểu
uy nghi, tương hà thúc liễm hậu côn, tân học vô nhân phỏng hiệu”.
Dịch:
Đến lúc tuổi đời đã
cao, tuổi hạ cũng lớn mà bụng rỗng tâm cao, chẳng chịu nương gần bạn
lành chỉ biết một bề kiêu ngạo. Chưa thông kinh luật, sự thúc liễm
trọn không, hoặc lớn tiếng to lời nói năng vô độ. Chẳng kính thượng
trung hạ tọa, khi tụ họp giống Bà la môn không khác. Khua bát ồn ào,
ăn rồi dậy trước. Đi đứng ngang càn, Tăng thể trọn không, ngồi đứng
lăng xăng khiến người động niệm. Chẳng gìn mảy phép tắc, chút oai
nghi. Lấy gì thúc liễm hậu sanh, tân học nương đâu bắt chước?
Giảng:
“Cập chí niên cao lạp
trưởng, không phúc cao tâm”. Tổ quở người xuầt gia mà không chịu học
đạo nên mắc phải lỗi lớn là “bụng rỗng tâm cao”, tức ngã mạn. Nghĩ
mình ở chùa lâu nên xem thường những kẻ mới xuất gia trong khi mình
thì “bụng trống”. Nhưng lỡ lớn tuổi rồi nếu đi học với người nhỏ thì
mắc cở. Vì thế mà:
“Bất khẳng thân phụ lương
bằng duy tri cứ ngạo”. Không chịu gần gũi những bằng hữu tốt, chỉ biết
một bề kiêu ngạo. Tóm lại, tuy ở trong chùa lâu, mà không hiểu rành
Kinh luật, không rõ đường lối tu hành, nhưng đi học với người khác thì
sợ đệ tử cười, nên chỉ ôm lòng ngạo nghể chứ không chịu gần gũi học
hỏi với ai cả.
“Vị am pháp luật tập
liễm toàn vô”. Vì chưa hiểu pháp, không thông luật nên không biết
phương cách để tự thúc liễm. Do không biết thúc liễm lấy mình thì:
“Hoặc đại ngữ cao
thanh xuất ngôn vô độ”. Tức là lớn tiếng to lời, nói năng vô độ. Tổ
quở những người xuất gia ở chùa mà nói năng rổn rảng, ưng nói gì thì
nói, không biết dè dặt chừng mực, không biết nói lời đức độ khiêm
nhường… Do cái lỗi không chịu học luật nghe pháp vậy.
“Bất kính thượng
trung hạ tọa Bà la môn hội tụ vô thù”. Không biết kính những bậc
thượng trung hạ tọa, khi tụ họp lại giống Bà la môn không khác. Khi
xưa, các vị Bà la môn mỗi khi tụ họp thì ai đến trước ngồi trước ai
đến sau ngồi sau, không biết kính người lớn cũng chẳng tôn trọng người
đức hạnh, gặp đâu ngồi đó không có thứ tự. Trong nhà Phật thì không
thế. Người có giới đức thì ngồi trên người ít giới đức hơn. Vì sao đạo
Phật chủ trương bình đẳng mà ở đây lại phân cao thấp, thứ lớp như vậy?
Đạo Phật bình đẳng trên lý nhân quả, chớ không phải bình đẳng bằng sự
ép buộc hay khỏa bằng ai cũng như ai. Người nào có nhân tốt hơn tức
được quả tốt hơn. Thí dụ ở thế gian một ông thợ rèn rèn được 5 con dao
thì được 50 đồng, còn một ông khác cần mẫn hơn rèn được 7 con dao thì
được 70đồng, nhơn như thế thì quả như thế, đó là bình đẳng. Cũng vậy,
một vị tu 10 năm thực sự có giới đức phải trên người chỉ tu có 7 năm,
tùy theo nhơn quả mà đoán định. Đôi khi chúng ta chấp vào hai chữ bình
đẳng rồi thấy trong chùa bất bình đẳng, nhưng thật sự trong chùa căn
cứ trên nhân quả mà sự sắp đặt có sai biệt, tuy sai biệt mà bình đẳng,
bình đẳng mà sai biệt. Chủ trương của đạo Phật là như vậy. Nếu chúng
ta không học giới luật, không biết đạo thì làm sao chúng ta biết kính
người có đức hạnh, do đó mà khi tụ hội chẳng có thứ lớp giống như Bà
la môn. Tổ lại tiếp tục quở:
“Oản bát tác thanh
thực tất tiên khởi”. Khi ăn thì khua chén bát nghe rổn rảng, lua húp
ào ào, ăn xong buông chén đứng dậy đi không có trật tự, không chờ đợi
ai hết.
“Khứ tựu quai giác,
tăng thểtoàn vô”. “Khứ” là đi, “tựu” là đến. “Quai giác” là trái chọi
nhau. Nghĩa là đi đứng trái lẽ, ngang càn không đúng pháp, không có đủ
tư cách của một ông Tăng. Lại thêm:
“Khởi tọa chung chư
động tha tâm niệm”. Thuở xưa ở Trung Hoa các Thiền viện (còn gọi là
Thiền đường hay Tăng đường) là chỗ ở của chư Tăng, trong đó có kê
giường san sát nhau để nằm nghỉ, và khuya đến giờ thức chúng thì toàn
chúng đều thức dậy và ngồi thiền trên đơn của mình. Ngồi thiền phải
ngồi cho hết giờ, nếu nữa chừng mà xả ra đứng dậy khua lộp cộp, thì
làm động niệm người bên cạnh. Sở dĩ có những hành động thô tháo như
trên đây là do không rành luật lệ, chẳng biết oai nghi nên:
“Bất tồn ta ta quỹ
tắc, tiểu tiểu oai nghi. Tương hà thúc liễm hậu côn, tân học vô nhân
phỏng hiệu”. Không còn một chút phép tắc, một mảy may oai nghi thì lấy
gì dạy dỗ kẻ sau, người mới học nương đâu bắt chước? (Nếu có bắt chước
cũng chỉ toàn những chuyện sai lầm) Tự mình đã không có tư cách phép
luật thì làm sao dạy dỗ người khác được? Thế mà:
Phần 6
Chánh Văn:
“Tài tương giác sát, tiện
ngôn ngã thị sơn Tăng. Vị văn Phật giáo hành trì, nhất hướng tình tồn
thô tháo. Như tư chi kiến, cái vị sơ tâm dung đọa, thao thiết nhân
tuần, nhẩm nhiễm nhân gian toại thành sơ dã. Bất giác lủng chủng lão
hủ, xúc sự diện tường. Hậu học tư tuân vô ngôn tiếp dẫn. Túng hữu đàm
thuyết bất thiệp điển chương. Hoặc bị khinh ngôn, tiện trách hậu sanh
vô lễ, sân tâm phẫn khởi, ngôn ngữ cai nhân”.
Dịch:
Vừa mới được người
cảnh giác liền xưng: Ta là “Sơn Tăng”. Chưa nghe lời Phật dạy để hành
trì, cứ một bề giữ tánh thô tháo. Sở dĩ thấy biết như vậy, chỉ vì tâm
ban đầu biếng nhác và theo thói ham ăn mê ngủ. Dần dà theo đời hóa
thành thô kệch. Chẳng hay lóng cóng yếu già, gặp việc xây mặt vào
vách. Hậu học thưa hỏi không biết lời chi hướng dẫn. Dẫu có giảng nói
cũng không hợp với kinh điển. Nếu bi khinh chê liền trách hậu sanh vô
lễ. Tâm sân nổi dậy, lớn tiếng nạt người.
Giảng:
“Tài tương giác sát,
tiện ngôn ngã thị sơn Tăng”. Ở Trung Hoa tăng sĩ có hai thành phần.
Một là những vị sư ở kinh đô vì gần Vua và dân chúng đông đảo nên giữ
oai nghi nghiêm chỉnh. Hai là những vị sư ở núi vì ít người lai vãng
nên tự do, không giữ gìn oai nghi. Vừa được người nhắc nhở liền xưng
“Ta là Sơn Tăng” mà không chịu nhận lỗi để sửa. Đó là lỗi chồng thêm
lỗi.
“Vị văn Phật giáo hành
trì, nhất hướng tình tồn thô tháo”. Bởi chưa từng nghe lời Phật dạy để
tu hành nên trong lòng còn giữ một bề thô tháo. Chỉ tính toán chuyện
thế gian, tuy xuất gia mà chẳng hợp đạo tí nào.
“Như tư chi kiến, cái
vị sơ tâm dung đọa, thao thiết nhân tuần”. Sở dĩ có thấy biết như vậy
chỉ vì ban đầu lười biếng, không chịu học luật, học giáo lý, chẳng
biết tu hành mà chỉ lo ăn, ngủ. Thật là tệ hại!
“Nhẫm nhiễm nhân gian
toại thành sơ dã”. Nghĩa là dần dà theo đời, hóa thành quê kệch. Hai
câu này nếu dịch thoát văn một chút thì tôi nói là xách dù đi lang
thang, chuyên đến những nhà thế tục bèn thành kẻ quê mùa. Vì mãi đi
lang thang xóm này, làng nọ thì giờ đâu mà học hỏi giáo lý, thì giờ
đâu mà thúc liễm thân tâm? Nói đến đạo lý thì mù tịt, không phải quê
mùa dốt nát là gì?
“Bất giác lủng chủng
lão hủ, xúc sự diện tường”. Bất chợt cái già lụm cụm đến, gặp việc
liền xây mặt ngó vào vách.
“Hậu học tư tuân vô
ngôn tiếp dẫn. Túng hữu đàm thuyết bất thiệp điển chương”. Hậu học
thưa hỏi không có lời gì tiếp dẫn. Nếu có nói ra cũng không hợp với
kinh điển. Vì ở chùa lâu được tôn xưng là Thượng tọa, Sư bà. Bấy giờ
được người thưa hỏi thì không biết lời gì để giải đáp. Đôi khi túng
quá, không nói, sợ nó cười, nên nói đại nói càn chẳng hợp với kinh
điển. Thế mà:
“Hoặc bị khinh ngôn,
tiện trách hậu sanh vô lễ. Sân tâm phẫn khởi, ngôn ngữ cai nhân”. Hoặc
bị khinh chê liền trách hậu sanh vô lễ. Tâm sân nổi dậy, lớn tiếng át
người. Kẻ hậu sanh vì thấy hàng tu lâu là thông suốt nên đến hỏi,
chẳng ngờ mình nói bậy, nó biết nên nói : “Thầy nói vậy e lầm chăng?”.
Vừa nghe thế liền nổi giận trách liền: “Hậu sanh vô lễ”. Đã“Sân tâm
phẫn khởi” thì “ngôn ngữ cai nhân” là mắng nạt đuổi đi. Đoạn này Tổ
nhằm vào cái khuyết điểm của người xuất gia không lo tu học mà quở
trách. Đây, Tổ nói tiếp hậu quả của người không tu học.
Chánh Văn:
“Nhất triêu ngọa tật tại
sàng, chúng khổ oanh triền bức bách, hiểu tịch tư thổn tâm lý hồi
hoàng. Tiền lộ mang mang, vị tri hà vãng. Tùng tư thỉ trihối quá, lâm
khát quật tỉnh hề vi”.
Dịch:
Một mai bịnh nằm trên
giường, mọi thứ đau đớn doanh vây bức bách. Sớm tối lo nghĩ, trong
lòng lo sợ bồi hồi. Đường trước mịt mờ chưa biết về đâu. Bấy giờ mới
biết hối hận ăn năn, đợi khát đào giếng sao kịp?
Giảng:
Đến đây Tổ dùng lời
trách thật thống thiết. Một hôm đau nặng nằm liệt giường, lúc ấy các
khổ dồn đến ép ngặt: thân thể đau nhức, cổ họng tắt nghẽn… chừng ấy
mới suy nghĩ lại mấy chục năm nay mình đã làm những gì? Tu tiến thế
nào? Có lợi ích gì cho ai? Thì chỉ thấy mình là con số không. Bấy giờ
trong tâm hoảng sợ, đường trước mịt mờ nào biết về đâu? Thật là khổ!
Chừng ấy mới biết ăn năn nhưng đã muộn rồi, đợi đến khát nước mới lo
đào giếng thì sao cho kịp? Vì thế bây giờ còn trẻ có duyên tốt xuất
gia, lại may mắn gặp những nơi giảng kinh dạy đạo thì phải ráng nỗ lực
học hỏi tu hành, khả dĩ mới tránh khỏi lỗi lầm này.
Chánh Văn:
“Tự hận tảo bất dự tu,
niên vãng đa chư quá cựu. Lâm hành huy hoắc, phạ bố chương hoàng. Hộc
xuyên tước phi thức tâm tùy nghiệp. Như nhân phụ trái, cường giả tiên
khiên. Tâm tự đa đoan, trọng xứ thiên trụy”.
Dịch:
Hận mình sớm chẳng lo
tu, đến lúc tuổi già nhiều điều tội lỗi. Khi sắp rời bỏ cuộc đời sự
sống tan rã nhanh chóng, trong lòng khiếp sợ kinh hoàng. (Giống như)
lụa thủng chim bay, (cũng vậy) tâm thức theo nghiệp. Như kẻ mắc nợ, ai
mạnh kéo trước, trong tâm nhiều mối, nặng đâu sa đó.
Giảng:
Đến đây tôi giải thích
kỹ cho toàn thể quí vị nghe và nhận được yếu chỉ tu hành, để đến phút
chót mình cố tự chủ. Đối với người thường không biết tu hành chỉ lo
chạy theo danh lợi, khi sắp chết họ tự kiểm điểm thấy mình không có
phước đức, nên tâm hoảng sợ không biết mình sẽ ra sao? Đi về chỗ nào?
Tâm hãi hùng tay chân co rút, không làm chủ được mình. Khi ấy nếu tắt
thở, thì thần thức nơi thân liền xuất ra.
Chữ “Hộc xuyên” Phật
ví dụ như cái hủ ngoài có tấm lụa bịt miệng, trong hủ có con chim. Nếu
tấm lụa thủng thì con chim sẽ bay ra chỗ nào nó thích. Cái hủ bịt
miệng ấy dụ cho thân tứ đại của chúng ta, khi thân sắc uẩn hư hoại.
Tâm thức liền tùy nghiệp mà đi, nghiệp nào nặng thì lôi mình đi trước.
Thế thì thái độ của người tu khi chết phải làm thế nào? Trong kinh
Phật dạy: khi sắp chết phải được tự chủ.Nếu tu về pháp môn niệm Phật
thì nhớ niệm Phật, tu pháp môn trì chú thì nhớ câu chú. Còn chúng ta
tu thiền thì sao? Lúc ấy không nhớ gì hết phải không? Nếu không nhờ
phương tiện gì cả thì lúc ấy hoảng hốt làm sao tự chủ? Thực sự, nếu
người tham thiền đầy đủ nghị lực, khi chết họ sẽ cười. Chỉ có người
chưa đủ nghị lực mới sợ. Cũng như người niệm Phật khi đến chỗ nhất tâm
bất loạn rồi, thì khi chết sẽ vui tươi, vì thấy mình đầy đủ công đức,
nhắm mắt là được Phật rước. Người tham thiền cũng thế, khi thấy được
tánh, đạt được đạo thì có gì mà sợ hãi? Như Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ
khi có người hỏi:
-Đối với vấn đề sanh
tử Ngài nghĩ sao?
Ngài đáp:
“Trường không túng sử
song phi cốc
Cự hải hà phòng nhất
điểm âu?”
Dịch:
“Giữa trời phỏng có
đôi vành chuyễn
Biển cả ngại gì hòn
bọt con”.
Với hư không vô cùng
tận thì hai vành xe trong ấy nào có nghĩa gì? Một hòn bọt nào có đáng
gì với biển cả mênh mông! Hai vành xe dụ cho sanh tử, khi chúng ta đã
đạt được pháp thân thì vấn đề sanh tử trở thành vô nghĩa. Lại nữa,
pháp thân chẳng khác nào biển cả, còn sắc thân huyễn hóa này chẳng
khác nào hòn bọt. Bọt tan trở về biển nào có lo gì? Vậy thì có gì sợ
hãi? Chỉ ngại chúng ta biết bọt mà không biết biển thì mới lo sợ. Vì
thế mà đa số Thiền sư ngộ đạo rồi, đối với vấn để sanh tử các Ngài xem
như trò chơi. “Ư chư sanh tử bất quan hoài”, đối với vấn đề sống chết
chẳng còn để lòng nữa. Lúc đó là xong, cần gì phải nghĩ mình đi đâu.
Đây là chủ yếu của Thiền Tông. Tổ Qui Sơn khi sắp tịch, có người hỏi:
-Hòa Thượng sau khi
tịch về đâu? Ngài đáp:
-Ta sẽ làm con trâu
dưới núi, trên lưng có đề 4 chữ “QUI SƠN LINH HỰU”. Khi ấy gọi Qui Sơn
là phải, hay gọi con trâu là phải?
Quí vị chưa thông hiểu
thiền lý, nghe chuyện này ắt hoảng hốt sanh nghi. Ông già tu hành bao
năm đã được tôn làm Tổ, mà chết làm trâu thì nguy quá, tu hành như
mình chẳng biết sẽ ra sao? Thông thường chúng ta quan niệm người tu
chết thì phải về cõi Phật hoặc thành Thánh mới được, ai ngờ Ngài nói
sẽ làm con trâu Ngài Nam-Tuyền cũng nói tương tự như vậy. Chúng ta lúc
nào cũng thấy trên là Thánh dưới là phàm, muốn bỏ phàm theo Thánh, mà
còn thấy Thánh là còn thấy hai. Sự thật thì không hai, đấy chỉ là
phương tiện giả lập trong vòng tương đối mà thôi. Vì thế đối với những
vị đạt đạo thấy Phàm Thánh không hai thì nói thế nào? Thôi, làm con
trâu vui vậy. Nhưng nói thế chớ các Ngài có làm trâu đâu, chỉ cốt để
phá cái chấp phàm Thánh của chúng ta thôi. Bọt tan về biển, chớ hỏi về
đâu? Vừa khởi nghĩ hỏi là đã sai rồi. Nếu còn có chỗ về tức là còn hòn
bọt, bởi vì bọt mới trôi giạt Đông Tây, chứ khi bọt tan đồng với biển
cả thì ai thấy được chỗ về? Nếu thực tình chúng ta đã gột sạch bản
ngã, dứt được tâm phàm Thánh thì có lo gì, chỉ ngại chúng ta không dứt
được mà thôi. Chẳng những Thiền sư nói bọt tan về biển mà chính đức
Phật đã từng giải thích về điều này: Có một vị Tỳ Kheo chứng A-La-Hán,
khi vị này tịch, một Tỳ Kheo khác hỏi Phật:
-Bạch Thế-Tôn, vị Tỳ
Kheo này sau khi tịch sẽ đi về đâu?
Phật đáp:
-Vị này sau khi tịch
chẳng khác nào như củi hết lửa tắt.
Thật đơn giản. Chính
chỗ củi hết lửa tắt này khiến lắm người không hiểu và đâm hoảng, nghĩ
rằng đến đây rồi chẳng còn gì nữa. Thật sự, ở đây củi là dụ cho
nghiệp, lửa dụ cho sanh tử.Nếu nghiệp đã hết thì sanh tử đâu còn. Bậc
đã chứng A-La-Hán, dứt sạch nghiệp thì đâu còn sanh tử, đó là giải
thoát, nên nói: như củi hết lửa tắt. Chính đức Phật khi còn tại thế có
người đặt câu hỏi: “Bạch Thế-Tôn, sau khi tịch rồi, Ngài còn hay không
còn?”. Phật không đáp mà gác qua một bên cho rằng câu hỏi vô lý. Tại
sao vô lý? Vì theo quan niệm của thế gian thì hoặc là có hoặc là
không. Nếu có thì phải có hình tướng, nếu không thì là không ngơ. Cho
nên Phật không đáp còn hay không, vì nếu đáp còn thì người ta sẽ nghĩ
đến hình tướng thế nay thế nọ, mà Phật là đấng đã giác ngộ thoát khỏi
vòng luân hồi sanh diệt thì đâu có hình tướng. Còn nếu đáp không, thì
họ sẽ tưởng là không ngơ, cả hai đều là bịnh, bịnh chấp “thường”, chấp
“đoạn” chúng sanh luôn thấy có hai, còn bậc giác ngộ thì không còn
thấy có hai nữa. Đối với hàng Thánh giả mà hỏi sau khi tịch đi về đâu
là điều vô lý. Vì một khi thể nhập pháp thân rồi thì tràn đầy pháp
giới, tùy duyên ứng hóa, đâu hạn cuộc chỗ nơi nào, không thấy đi cũng
không thấy có chỗ để đi, đây mới thật là giải thoát. Chỉ những người
còn lẩn quẩn trong vòng sanh tử, thì Phật mới thọ ký cho họ sau khi
chết sẽ về chỗ nào đó trong lục đạo, tùy theo nghiệp của mỗi người.
Nếu còn chỗ đi ấy là còn luân hồi. Nay quí vị hỏi: Tu Thiền chết đi về
đâu? Nếu tôi nói chết đi về đâu tức tôi chỉ quí vị luân hồi. Mà ở đây
tôi muốn quí vị làm sao thể nhập được pháp thân, tùy duyên ứng hóa.
Điểm thiết yếu của người tu là cốt được vô sanh, vô sanh tức nhập
Niết-bàn. Niết-bàn thì không có hình tướng, nhưng đừng nghĩ là nó
không ngơ, nói không ngơ là rơi vào đoạn mà nói có tướng tức lạc vào
thường. Cả hai đều là bịnh. Chỉ có người thể hội được mới rõ, chứ
không thể giải thích theo lối chấp hai của thế gian mà hiểu được.
Ở đây tôi giải thích
thêm một điểm ngờ vực nữa của người thế gian. Người thế gian cho rằng
mọi người đều riêng có một linh hồn là cái tính linh khôn ngoan sáng
suốt, mà đã khôn ngoan thì sao lại chịu vào nơi khổ? Ai cũng nghĩ rằng
sau khi chết linh hồn mình sẽ sinh ra làm người nữa và chấp chặt cho
linh hồn đó là mình. Đạo Phật thì gọi đó là tâm thức. Cái tâm thức này
tùy theo chỗ huân tập thiện ác mà đến, chứ không cố định. Vì không cố
định nên nó không phải là cái khôn ngoan biết lựa chọn, mà chỉ tùy
nghiệp mà thôi. Tâm thức khác linh hồn ở chỗ đó. Nếu nói chúng ta có
linh hồn thì sẽ tưởng như đó là một tinh thần duy nhất, nếu là duy
nhất cố định thì thiện ác, mãi mãi không thay đổi. Nhưng, tâm thức
chúng ta luôn luôn biến chuyển, gần người lành thì hấp thụ điều lành,
gần kẻ ác thì hấp thụ điều ác. Như vậy, tâm thức là một dòng thiện ác,
sinh diệt, chính dòng thiện ác đó sẽ đưa chúng ta đến chỗ lành hay dữ,
nghiệp nào nặng sẽ lôi mình trước, đó là ý nghĩa “trọng xứ thiên
trụy”.
Tóm lại, Tổ chỉ cho
chúng ta thấy người tu nếu không tu đến nơi đến chốn, mà một bề chạy
theo danh lợi, khi lâm chung thần thức vừa ra khỏi thân liền bị nghiệp
lôi, nghiệp nào nặng thì sẽ lôi mình trước. Nếu thiện mạnh thì sẽ lôi
mình đến chỗ lành, nhưng hưởng phước lành hết thì sẽ rơi vào chỗ dữ.
Nếu ác mạnh sẽ lôi đến chỗ dữ trước, trả hết nghiệp ác rồi mới tới chỗ
lành, đấy là tuần tự mà trả nợ, nhưng tùy chủ nợ mạnh yếu mà lôi kéo
chúng ta đến trước hay sau. Đây là chỗ chúng ta cần lưu ý.
Phần 7
Chánh Văn:
“Vô thường sát quỉ, niệm
niệm bất đình, mạng bất khả diên, thời bất khả đãi”.
Dịch:
Vô thường sát hại,
niệm niệm không dừng. Mạng sống không thể kéo dài, thời gian không thể
chờ đợi.
Giảng:
Đây nói quỉ vô thường
giết người mỗi niệm mỗi niệm không dừng. Mạng sống không thể kéo dài
hơn, cũng không thể chờ đợi được. Như bây giờ quí vị lỡ làm một công
việc gì đó chưa xong, nay hấp hối sắp chết thì quí vị có thể hẹn với
quỉ vô thường rằng: “ Làm ơn đình lại cho tôi làm xong việc rồi sẽ
chết” được không? Nhất định là không thể hẹn. Nhưng có một chuyện hơi
lạ tôi kể lại cho quí vị nghe chứ không phải phê phán. Có một Thiền sư
trong hội Ngài Diên Quang làm chức tri sự vì bận quá nhiều việc nên
Ngài không có thời giờ tu tập. Hôm đó bất chợt quỷ vô thường đến mời
Ngài đi. Ngài bèn nói: “Mấy năm nay tôi bận lo việc chúng không có thì
giờ tu, nay ông làm ơn cho tôi hẹn bảy ngày lo xong việc của tôi,
chừng ấy ông đến tôi sẽ sẵn sàng đi. Quỷ bảo: “Để tôi về thưa lại với
Diêm chúa nếu được tôi không trở lại, bằng không tôi trở lại rước Ngài
liền”. Suốt trong 7 ngày đó Ngài nỗ lực tu, hết hạn quỷ vô thường đến
tìm Ngài mà không thấy. Câu chuyện này tôi không thể phê bình thật hay
không thật, nhưng kể ra cho quí vị thấy trong trường hợp này có thể
đình nhưng cũng chỉ hẹn 7 ngày thôi.
Chánh Văn:
“Nhân thiên tam hữu ưng
vị miễn chi, như thị thọ thân phi luận kiếp số”.
Dịch:
Ba cõi trời người chưa
thoát khỏi thì cứ như vậy thọ thân số kiếp không thể tính bàn.
Giảng:
Ấy chỉ vì lỗi không nỗ
lực tu hành, mãi tạo nghiệp cho nên phải chìm đắm trong luân hồi, lang
thang trong sáu nẻo.
Chánh Văn:
“Cảm thương thán nhạ, ai
tai thiết tâm, khởi khả giam ngôn, đệ tương cảnh sách. Sở hận đồng
sanh tượng quý, khứ Thánh thời diêu, Phật pháp sanh sơ, nhân đa giải
đãi, lược thân quảng kiến dĩ hiểu hậu lai. Nhược bất quyên căng, thành
nan luân hoán”.
Dịch:
Cảm thương than thở,
đau xót cực lòng, đâu thể im lời nên cùng nhau nhắc nhở. Tủi vì sanh
vào thời mạt pháp, cách Hiền Thánh đã xa. Phật pháp lôi thôi người tu
đa số biếng nhác. Thế nên, lược bày chỗ thấy cạn hẹp của mình để
khuyên bảo người sau. Nếu không bỏ tánh kiêu căng, thì thật khó mong
chuyển đổi.
Giảng:
Sau khi chỉ rõ lỗi lầm
xong, đến đây Tổ nhắc nhở sách tấn chúng ta tu hành. Ngài thấy chúng
ta si mê quá nên lòng rất thương xót nói lên những lời thật thống
thiết để cảnh tỉnh chúng ta, thật là lòng từ vô hạn. Người xưa phần
đông đều dõng mãnh chỉ có một ít không cố gắng mà Ngài còn than trách
như thế. Huống là chúng ta ngày nay đa số đều giải đãi, ngồi thiền có
một giờ đồng hồ, mà đã loạn cuồng cả lên, đâu sánh được với người xưa
cả ngày đi, đứng, ngồi nằm đều Thiền. Đôi khi lại hiểu Phật pháp hết
sức sơ sài rồi đem những tà thuyết ra truyền bá, khiến cho Phật pháp
ngày càng lu mờ. Xưa Phật làm một đàng, giờ chúng ta đi một ngả. Tôi
nói đây không phải để kích bác, mà cốt để xây dựng những cái lệch lạc
của đa số người tu hiện tại. Như đức Phật hồi thuở xưa Ngài đâu có đi
đám ma, chẳng riêng đức Phật mà ngay cả 1250 vị đệ tử của Ngài, Ngài
cũng chưa từng bảo ai đi đám ma cả. Thế mà các chùa ngày nay thì đi
đám liên miên. Như một chùa có 1000 tín đồ, thỉnh thoảng có người này
đau, người kia chết, rồi phải đi thăm, đi đám, cúng 49 ngày…hết gia
đình này đến gia đình khác. Cứ loanh quanh như thế làm sao có thì giờ
gạn lọc tâm tư, thì giờ đâu tu tập thiền quán? Thấm thoát một đời qua,
sự nghiệp tu hành nhìn lại nào có gì đâu??? Đến chừng sắp chết thì kêu
thiên hạ độ mình, còn ngày thường thì mình mắc “độ thiên hạ”! Là Phật
tử, chúng ta đi con đường của Phật hay đi con đường nào? Đây là sự
thật khá đau lòng. Tôi cũng biết Phật giáo ngày nay đã mang nặng màu
sắc “tín ngưỡng”, nhưng chúng ta cũng nên đặt tín ngưỡng đúng chỗ
thanh cao thì hay, còn để cho tín ngưỡng đi quá đà nó sẽ thành những
hình thức khô khan, biến Tăng sĩ thành những ông Thầy cúng. Đây là
điều lầm lẫn của chúng ta vậy. Nếu chúng ta thật tâm cầu giải thoát
thì phải tạo cho mình một khung cảnh đơn giản, tránh bớt những xả giao
phiền toái, giữ gìn những nghi lễ trang nghiêm mới đúng tinh thần Phật
pháp. Như vậy mới là người vì đạo, thương mình và dẫn dắt tín đồ. Nếu
không được như thế thì e rằng mình đã lầm lại làm lầm lây cho người.
Đến đây Ngài nói thật
khiêm nhường. Ngài lược bày chỗ thấy nhỏ hẹp của mình để mà nhắc nhở
người sau, mong người sau dẹp trừ tánh kiêu căng ngã mạn để tự sửa thì
mới có thể tiến được. Bằng không dẹp trừ tánh ngã mạn thì không thể
chuyển hướng được.
Chánh Văn:
“Phù xuất gia giả, phát
túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long Thánh chủng, chấn nhiếp
ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu”.
Dịch:
Phàm người xuất gia là
cất bước đến phương trời cao rộng, tâm hình khác tục. Nối thạnh giòng
Thánh, hàng phục quân ma, nhằm đền trả 4 ân, cứu giúp 3 cõi.
Giảng:
“Phù xuất gia giả,
phát túc siêu phương”. Chữ “phương” nghĩa hẹp là chỉ cho địa phương,
nghĩa rộng là chỉ cho tam giới. Nghĩa là khi đã phát tâm xuất gia
chúng ta phải ý thức rằng mình sẽ thoát ra khỏi tam giới, không còn
kẹt trong vòng sanh tử nữa.
“Tâm hình dị tục”. Mấy
chữ này thật vô cùng cô đọng. Hình dị tục thì chúng ta dễ nhận rồi như
đầu trọc, mặc áo nhuộm… Còn tâm dị tục là thế nào? Người thế gian thấy
tư tưởng là thật, thân này là thật, tất cả cảnh vật chung quanh đều là
thật, nên họ mê lầm và đắm chìm trong ấy. Còn người xuất gia thì
thường dùng trí tuệ Bát nhã quán chiếu thân tứ đại là không, ngoại
cảnh sáu trần đều huyễn hóa…Hoặc giả với tinh thần Nhị thừa thấy tất
cả sự vật hiện có đều là vô thường, khổ, không v.v…đó là “tâm dị tục”.
Tâm người thế gian và người xuất gia khác nhau là như vậy. Nhưng bây
giờ có lắm người xuất gia mà tâm không dị tục, nghĩa là cũng thấy thân
cảnh đều thực, cho nên cũng muốn kinh doanh, tạo sự nghiệp gì đó ở
đời. Như thế, thân tuy xuất gia mà tâm chẳng khác người thế tục. Cho
nên người xuất gia chúng ta phải nhìn lại mình, thấy thân đã khác tục
thì phải cố gắng làm sao cho tâm cũng khác tục. Nếu chỉ khác hình thức
mà tâm không khác thì chưa phải là người xuất gia. Tổ chỉ dùng bốn chữ
cô đọng “tâm hình dị tục”, nhưng đã nói lên được hoài bảo của người tu
là vượt ra khỏi tam giới để:
“Thiệu long Thánh
chủng” tức nối tiếp hạt giống giác ngộ. Người xuất gia là người thắp
sáng ngọn đuốc chánh pháp, soi đường cho kẻ lầm mê, vì thế phải có tâm
giác ngộ, khác hẳn thế tục mới có đủ khả năng làm cho hạt giống Thánh
được tiếp nối và hưng thạnh nữa.
“Chấn nhiếp ma quân”
là nhiếp phục ma quân, khiến chúng khiếp đảm. Chữ “ma quân” có nhiều
người hiểu lầm, tưởng là con ma có hình tướng, có nanh vuốt dễ sợ lắm.
Nhưng ma quân trong nhà Phật thì có nhiều thứ. Ở đây tôi lược nói hai
thứ thôi, đó là nội ma và ngoại ma. Nội ma là những gì làm chướng ngại
tâm thanh tịnh của mình như tham, sân, si đều gọi là ma. Thí dụ đang
ngồi thiền bỗng nhớ khi nãy cô kia nói mình một câu nặng quá. Cái nhớ
đó là ma, nó làm mình mất thanh tịnh. Ngay khi đó mình dừng lại không
cho nó nghĩ tiếp đó là hàng phục ma. Hoặc thấy của rơi mà không lấy ấy
là nhiếp phục ma tham. Hoặc có ai vô cớ trêu chọc, sắp nổi nóng lên
liền nghĩ: nóng giận là bậy, nghĩ vậy nên nén xuống bỏ qua, đó là
nhiếp phục được ma sân. Vì thế chúng ta ngồi thiền trông im lìm nhàn
hạ mà thật sự khi ấy chúng ta đã tranh đấu một cách mãnh liệt với ma
quân, khi ấy chúng ta là người dũng sĩ lâm trận chứ đâu phải ngồi chơi
thong thả như người lầm tưởng. Một cuộc chiến vô hình mà vô cùng phức
tạp gay go. Như thế gian đánh giặc họ dàn trận ra, hai bên thấy nhau
trận chiến là lẽ thường. Còn giặc của chúng ta là ẩn núp chẳng có nơi
chốn gì cả, chỉ đợi chúng ta sơ hở một tí là nhảy vô liền. Vì thế cuộc
chiến đấu thật trường kỳ chẳng biết bao giờ mới thái bình. Giặc quá
nhiều mà chúng ta lại không biết rõ mặt mũi chúng, những chú giặc ấy
hoặc quá khứ, hoặc vị lai, nào chuyện mới, chuyện cũ… cứ hàng hàng lớp
lớp nhảy ra tấn công mình. Vì thế chúng ta phải gan dạ và chăm chăm
nhìn nó, nếu lơ là nó sẽ chiếm mất gia bảo của mình. Cho nên người xưa
nói: “Việc xuất gia chẳng phải là việc của tướng võ có thể làm được”.
Như vậy người xuất gia đánh giặc hơn cả tướng cầm quân chứ đâu phải
thường. Giả sử muốn cất một ngôi chùa mấy vị phải đi quyên góp tiền
bạc suốt ba bốn tháng trường mới tạo được ngôi chùa, như vậy cũng nhọc
nhằn đấy, song đâu có khó bằng ngồi thiền tranh đấu với chúng ma. Có
người thấy ngồi thiền im lìm một chỗ cho là tiêu cực yếm thế chẳng
giúp ích gì được cho ai, họ đâu biết chính lúc ấy phải tranh đấu hết
sức gay go. Vì vậy mà phải có thế ngồi thật vững chắc, để nhìn nó mới
thắng nó nổi. Nếu lơ là nó sẽ tràn ra mãi, rồi có ngày chúng ta sẽ mất
quyền làm chủ. Muốn khôi phục lại ngôi vị của mình thì phải đánh hết
bọn ma ra ngoài. Đó là nhiếp phục nội ma. Giờ nói đến ngoại ma. Ngoại
ma có nhiều thứ như: tử ma, ma ngũ dục, thiên ma v.v…Nhưng ngoại ma
không nguy hiểm bằng nội ma. Sở dĩ ma ngoài xâm nhập tâm của chúng ta
được cũng do bọn ma bên trong móc nối. Thí dụ ngoại ma là ngũ dục:
tài, sắc, danh, thực, thùy. Nếu tâm chúng ta không còn nhiễm ái, không
còn tham tiền, không ham ăn uống, ngủ nghỉ thì ma ngoài dù có rủ rê
cũng không được. Lòng tham dục lắng xuống tức thời ma ngoài tự tiêu.
Kế đến là loại ma vì nghiệp phải làm quỷ. Loại ma này thường nhiễu hại
người tu bằng cách khi chúng ta ở nơi vắng vẻ, nó liền hiện hình hay
biến tướng lạ để quấy phá. Khi thấy những tướng quái lạ ấy chúng ta
phải làm sao? Như trong đoạn đối đáp của vua Trần Thánh Tông với Tuệ
Trung Thượng Sĩ, có câu:
“Kiến quái bất kiến
quái
Kỳ quái tất tự hoại”.
Nghĩa là thấy quái đến
mà mình không quái thì quái tự tiêu. Đến đây chúng ta nhớ lại chuyện
Phật trị ma dưới cội Bồ-đề trước giờ thành đạo. Ngài chẳng dùng ấn chú
gì hết. Khi ma hiện trăm thứ kỳ quái, Ngài chỉ giữ tâm an nhiên không
động, một hồi lâu ma tự xấu hổ rút lui. Tâm không động là thắng ma,
còn sợ hãi thì ma thắng mình. Trong khi ngồi thiền nếu trường hợp ma
hiện đến, mở mắt thấy sợ thì nhắm mắt lại, nếu còn thấy sợ nữa thì nên
quán tưởng thân này do tứ đại hợp thành, mà thể tánh của tứ đại là
không, sáu trần đều huyễn hóa thì sợ cái gì? Tưởng một hồi thì tự
nhiên nó mất, chẳng cần bùa chú gì cả. Sở dĩ có một số người ngồi
thiền phát điên cuồng là do thấy những tướng lạ đâm hoảng hốt, sợ hãi.
Giả sử đang ngồi thiền an tịnh, bỗng có ai thình lình đi tới, lúc đó
nghe tim đập thình thịch muốn xuất mồ hôi hột. Vì lúc ngồi yên những
tiếng động bên ngoài có tác động gấp mười lần khi chúng ta đang động.
Thế nên khi ngồi yên mà phát sợ thì nó tác động tinh thần, nếu động
quá độ sẽ loán lên mà phát cuồng. Quí vị nên nhớ kỹ điều này, để tránh
tai hại trong khi tu thiền. Một trường hợp nữa cũng có thể điên được,
như khi đang ngồi thiền bỗng thấy Phật đến xoa đầu thọ ký rằng: “Ông
sẽ thành Phật một ngày gần đây”. Bấy giờ mừng quá la lên, cũng thành
cuồng loạn. Tâm động thấy Phật thấy ma gì cũng là bịnh. Nên trong nhà
thiền thường nói: “Phùng ma sát ma, phùng Phật sát Phật” là ý này.
Thấy ma thấy Phật gì cũng đều tưởng đó là bóng dáng không thật, tưởng
như vậy thì hình ảnh ấy sẽ biến mất, không nên phát tâm mừng rỡ hay
kinh sợ, mà chỉ giữ tâm an tịnh. Đa số người ngồi thiền thường ở trong
trạng thái nửa tỉnh nửa say, lúc ấy vọng tưởng dấy lên thành những
giấc chiêm bao với những hình ảnh tạp nhạp, rồi cho là ngồi thiền thấy
này, thấy nọ…đó là trạng thái sắp ngủ gục. Nếu lúc ấy sực tỉnh, mở mắt
sáng lên thì những hình ảnh ấy sẽ mất, nếu là ma thật thì mở mắt vẫn
còn thấy. Vì thế điểm cốt yếu là chúng ta phải nhiếp phục ma trong,
thì ma ngoài không nhiễu hại được. Nếu ma trong không dẹp, thì dù có
bùa chú gì vẫn bị ma dẫn đi như thường. Chi bằng ta dẹp sạch ma trong,
tâm an định thì dù ma có đến cũng mặc nó, ta vẫn là ta, ấy là hay
nhất. Chinh phục ngoại cảnh đâu bằng chinh phục nội ma, chinh phục
mình mới là điều gay go nhất. Ngồi thiền là để tự chinh phục ma, lũ ma
vọng tưởng đã dẫn dụ chiếm đoạt cái ngôi vị làm chủ của mình từ bao
nhiêu kiếp.
“Dụng báo tứ ân, bạt
tế tam hữu”. Nhiếp phục được ma quân rồi, mới có thể đem công đức tu
hành mà đền đáp bốn ân, cứu giúp chúng sanh trong ba cõi. Nếu việc
mình chưa xong mà lo đền ơn đáp nghĩa…thì chưa chắc đã đền đáp được
gì, đôi khi còn chướng ngại đường tu nữa. Tóm lại, Tổ nhắc nhở người
xuất gia trước phải lập chí giải thoát, tâm chớ giống người thế tục,
kế làm sáng tỏ chánh pháp và nhiếp phục ma quân. Người như thế mới khả
dĩ trên đền đáp bốn ân, dưới cứu giúp ba cõi.
Phần 8
Chánh Văn:
“Nhược bất như thử, lạm
xí tăng luân, ngôn hạnh hoang sơ, hư triêm tín thí”.
Dịch:
Nếu chẳng như thế, xen
lẫn trong chúng tăng, ngôn hạnh hoang sơ, luống hao của tín thí.
Giảng:
Nếu chẳng làm được
những điều kể trênthì chỉ là kẻ lẫn lộn, làm ô danh chúng tăng, chứ
chẳng phải là người chân chánh xuất gia. Chữ “lạm xí” có nơi giải
thích là “điểu thử Tăng” tức ông thầy chim chuột. Nghĩa là dụ như con
dơi gặp chim thì nó xòe cánh ra, bảo: tôi đây là chim, gặp chuột thì
hắn xếp cánh lại nói: tôi đây là chuột. Ông thầy chim chuột là ông
thầy cạo đầu mặc áo nhuộm trông giống người tu mà tâm chí thì lạng
quạng gặp chim làm theo chim, gặp chuột làm theo chuột. Sống như thế
đó gọi là “lạm xí tăng luân”. Phần đông tu sĩ bây giờ là thế ấy,
thường là “điểu thử tăng” hay có chỗ gọi là “phóc cư sĩ” tức là ông cư
sĩ trọc đầu. Tuy đầu trọc mà tâm niệm thì thế tục, làm tăng mà không
có tâm hạnh của người xuất gia, lời nói việc làm không phù hợp chánh
pháp, nên gọi là cư sĩ trọc đầu. Người như thế chỉ luống ăn tiêu của
tín thí mà chẳng lợi ích gì cho đạo. Hãy tự kiểm vậy!
Chánh Văn:
“Tích niên hành xứ, thốn
bộ bất di, hoảng hốt nhất sanh, tương hà bằng thị”
Dịch:
“Chỗ đi năm trước, tấc
bước không rời, lơ láo một đời, lấy chi nương tựa”.
Giảng:
Chúng ta thấy có người
xuất gia được 20 năm, 30 năm rồi, thế nhưng năm thứ nhứt thì Phật tại
tiền, năm thứ hai Phật thăng thiên, đến năm thứ ba, thứ tư…cho đến năm
30 thì chẳng còn thấy Phật. Thế là càng tu càng lùi. Tôi thường nói
rằng người tu giống như kẻ chèo thuyền ngược nước, ngược gió. Trong
trường hợp đó phải thế nào? Nếu quí vị có cảm thấy quá mệt mỏi thì nên
cắm sào bỏ neo đậu lại, đợi nghỉ ngơi cho khỏe rồi tiếp tục chèo, chớ
chẳng nên buông chèo mặc nó trôi giạt đến đâu cũng được. Như vậy đâu
có ý nghĩa chèo thuyền ngược dòng nữa. Chúng ta là kẻ đi ngược dòng
đời, thế gian mê ta tỉnh, thế gian đắm chìm trong ái dục, chúng ta là
người giải thoát khỏi dòng ái dục. Vì thế, chúng ta phải luôn cần mẫn,
vững tay chèo mới có cơ tiến nổi, bằng chúng ta lơ là ắt dòng đời như
thác lũ kia sẽ kéo phăng chúng ta trở lại dòng sanh tử. Chúng ta phải
tự xét lại coi, từ khi xuất gia đến giờ trải qua 5,10 năm rồi đã tiến
được bao nhiêu hay vẫn còn nguyên chỗ cũ? Có người thậm chí còn lùi
nữa, thì than ôi, đời tu nào có ra gì! Thật đáng hổ thẹn! Thật là :
“Lơ láo một đời, lấy chi nương tựa?” Tổ cho một roi đau điếng như vậy
để chúng ta hổ thẹn, nhớ lại bổn phận của mình mà cố gắng.
Chánh Văn:
“Huống nãi đường đường
tăng tướng, dung mạo khả quan. Giai thị túc thực thiện căn, cảm tư dị
báo. Tiện nghĩ đoan nhiên củng thủ, bất quí thốn âm. Sự nghiệp bất
cần, công quả vô nhân khắc tựu. Khởi khả nhất sanh không quá, ức diệc
lai nghiệp vô tì.”
Dịch:
Huống nãi đường đường
tăng tướng, (sáu căn đầy đủ) dung mạo dễ xem. Sở dĩ được như thế là do
đời trước đã gieo trồng căn lành nên đời này mới cảm quả báo thế ấy.
Lại chỉ biết ngồi sửng khoanh tay, chẳng tiếc thì giờ. Đạo nghiệp
không nổ lực chuyên cần thì công quả do đâu thành tựu? Chẳng những đời
nay luống qua, đời sau cũng sẽ vô ích.
Giảng:
“Huống nãi đường đường
tăng tướng, dung mạo khả quan, giai thị túc thực thiện căn cảm tư dị
báo”.
Chúng ta ngày nay được
mang thân người, sáu căn đầy đủ, lại được xuất gia hình tướng như
Phật. Đó là do đời quá khứ đã gieo trồng căn lành, đời nay mới cảm
được quả báo tốt như vậy. Nhìn quả hiện tại biết nhân quá khứ. Cũng
vậy, nhìn nhân hiện tại, biết quả vị lai. Thế nên đời nay đã được
duyên lành thì phải làm sao nữa, chứ chẳng lẽ:
“Tiện nghĩ đoan nhiên
củng thủ bất quý thốn âm, sự nghiệp bất cần công quả vô nhân khắc
tựu”. Chỉ biết ngồi sửng khoanh tay ngu ngơ qua ngày tháng, thì chẳng
những đời này không lợi ích mà đời sau cũng không chỗ tựa nương. Ngài
Hiếp tôn giả suốt đời lưng không dính chiếu, Tổ Bá Trượng: “Nhất nhật
bất tác, nhất nhật bất thực”. (Một ngày không làm, một ngày không ăn).
Chúng ta ngày nay vào chùa thọ lãnh của thí chủ thì nhiều mà không
siêng tu phước huệ, không biết tiếc thời giờ, một mai cởi áo cà sa,
lui mất thân người, thì thật là đáng tiếc!
“Khởi khả nhất sanh
không quá, ức diệc lai nghiệp vô tì”. Đời này không có công đức gì làm
sao đời sau được tốt đẹp, Tổ Qui Sơn có tâm lão bà tha thiết, Ngài quở
rầy xong lại quở rầy. Thật là đắng miệng khô môi, chỉ vì muốn cho con
cháu đời sau được nên người xứng đáng.
Chánh Văn:
“Từ thân quyết chí phi
tri, ý dục đẳng siêu hà sở. Hiểu tịch tư thổn, khởi khả thiên diên quá
thời”.
Dịch:
Từ giả thân quyến,
quyết chí mặc áo nhuộm là ý muốn vượt đến chỗ nào? Sớm tối lo nghĩ,
đâu thể dần dà để thời giờ qua mất.
Giảng:
Đây Tổ nhắc lại bổn
phận của người xuất gia, nhắc lại ước nguyện ban đầu của mình khi từ
bỏ cha mẹ, anh em vào chùa mặc áo nhuộm để chi? Chúng ta xuất gia là
vì lý tưởng cao siêu giải thoát, chớ đâu có ai nghĩ vào chùa để tìm
chỗ an thân! Thế nhưng, dần dà chúng ta quên mất bổn phận của mình. Vì
vậy, ở đây Ngài nhắc chúng ta phải sớm tối suy nghĩ, phải thường tự
hỏi: “Tại sao mình đi tu?” Thường nghĩ nhớ lại tâm nguyện xuất gia ban
đầu để nổ lực vươn lên, chứ không nên bỏ lửng, ăn rồi giỡn cười để
ngày giờ qua mất.
Chánh Văn:
“Tâm kỳ Phật pháp đống
lương, dụng tác hậu lai qui cảnh. Thường dĩ như thử, vị năng thiểu
phần tương ưng!”
Dịch:
Lòng tự hẹn làm rường
cột cho Phật pháp, gương mẫu cho đời sau. Thường xét nghĩ như thế mà
còn chưa được chút phần tương ưng.
Giảng:
Tổ nhắc chúng ta nên
xét lại ý nguyện xuất gia của mình. Khi xuất gia là trong lòng đã kỳ
hẹn làm rường cột cho Phật pháp, gương mẫu cho đời sau, chứ không phải
để ăn tiêu của tín thí, không phải để làm con mọt đục chùa. Hằng xét
nét như thếmà còn chưa phù hợp được một phần nhỏ của sự xuất gia thay,
huống là tu bao nhiêu năm mà không biết mình phải làm cái gì, thì thật
là tệ! Mà muốn thực hiện được ý nguyện đó thì phải:
Chánh Văn:
“Xuất ngôn tu thiệp ư
điển chương, đàm thuyết nãi bạng ư kê cổ, hình nghi đĩnh đặc, ý khí
cao nhàn”.
Dịch:
Nói ra phải hợp với
kinh điển, luận bàn phải noi theo gương mẫu người xưa, hình dung đĩnh
đạc, ý chí cao nhàn.
Giảng:
Nếu thực tình chúng ta
muốn làm rường cột cho Phật pháp, làm mẫu mực cho người sau, thì nói
ra lời gì cũng phải phù hợp với kinh điển, với lời Phật ý Tổ. Phải nói
đúng đắn chân thật, chẳng nên nói bướng, nói đùa hay đặt điều nói bậy.
Về thân tướng thì phải trang nghiêm, đi đứng chỉnh tề; ý chí phải
thênh thang siêu thoát, chẳng nên có những ý tưởng thấp thỏi, tầm
thường. Tổ chỉ dạy thật tường tận từ ngôn ngữ, hình nghi cho đến ý
chí…Chúng ta phải cố gắng như lời Tổ dạy mới xứng đáng là Sa Môn Thích
tử, là người chơn chánh xuất gia.
Chánh Văn:
“Viễn hành yếu giả lương
bằng, sác sác thanh ư nhĩ mục, trú chỉ tất tu trạch bạn, thời thời văn
ư vị văn. Cố vân, sanh ngã giả phụ mẫu, thành ngã giả bằng hữu”.
Dịch:
Đi xa cần nương bạn
lành để thường gạn lọc tai mắt. Trú ở cần nên chọn bạn, thường được
nghe điều chưa nghe. Nên nói: sanh ta là cha mẹ, tác thành nên ta là
bạn bè.
Giảng:
Chúng ta ra đi tìm
Thầy học đạo cốt phải nhờ bạn lành, Thầy tốt khiến tai mắt chúng ta
được trong sạch, được nghe lời hay, thấy được cái đẹp. Khi dừng ở cần
phải chọn bạn chọn Thầy, gần được Thầy hay bạn tốt, chúng ta mới nghe
được điều lợi ích chưa từng nghe, Bằng gần ông Thầy không hơn mình,
bạn lại chẳng tốt thì dầu ở chung ngàn năm cũng chẳng lợi gì, đôi khi
lại còn lui sụt. Nên người tu cần phải chọn thầy, chọn bạn là như thế.
“Sanh ta là cha mẹ, làm nên ta là Thầy bạn”. Đây là sự thật không nghi
ngờ gì hết. Vì chúng ta có được hình vóc vẹn toàn này là từ cha mẹ mà
có, nhưng chúng ta có được trí tuệ, hiểu biết những điều siêu xuất thế
gian lại chính nhờ Thầy bạn nuôi dưỡng bồi đắp mà nên. Nhờ Thầy bạn
chúng ta mới thành người hữu ích cho chính mình và cho chúng sanh.
Riêng tôi, nay được biết đạo lý giảng dạy thế này hoàn toàn là nhờ
thầy bạn, chứ cha mẹ thì không thể làm được. Có nhiều người không may
khi phát tâm xuất gia mà không gặp Thầy hay, bạn tốt, nên ở chùa năm,
mười năm hay hai, ba mươi năm rồi, vẫn lẩn quẩn cũng chỉ trong hai
thời khóa tụng, thật là tội nghiệp! Điều này cũng do phước duyên của
mỗi người, chứ thật ra lúc phát tâm đi tu, vào chùa gặp đâu ở đó, có
biết đâu mà chọn. Vì thế, chúng ta có phước duyên được gặp Thầy chỉ
dạy nên người hữu dụng thì công ơn ấy thật vô cùng to lớn.
Phần 9
Chánh Văn:
“Thân phụ thiện giả,
như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận”.
Dịch:
Gần gũi người lành
như đi trong sương móc, tuy không thấy ướt áo mà dần dần thấm nhuần.
Giảng:
Như buổi sáng sớm có
sương chúng ta đi ngoài trời, tuy không thấy sương rơi ướt áo, nhưng
một lát sau cảm thấy hơi sương ướt lành lạnh. Cũng thế, được gần
Thầy lành, bạn tốt, không phải chúng ta được lành tốt ngay, nhưng
sống gần gũi lâu ngày tự nhiên có sự nhuần thấm. Nói đến đây tôi nhớ
lại Thầy tôi là Hòa Thượng Viện Trưởng, Ngài trách tôi: “Thanh Từ
thuở xưa không khác nào cục sắt do tôi mài dũa nay được thành cây
kim, giờ lại không ưng ý làm việc gì hết”. Thật đúng như thế, nay
tôi được hữu dụng cho Phật pháp cũng nhờ công thầy uốn nắn lo lắng
hoàn toàn từ vật chất đến tinh thần. Vì thế, đời tu chúng ta nếu gặp
Thầy lành bạn tốt là điều may mắn, cần thiết cho sự tiến tu của
chúng ta.
Chánh Văn:
“Hiệp tập ác giả,
trưởng ác tri kiến, hiểu tịch tạo ác, tức mục giao báo, một hậu trầm
luân, nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục”.
Dịch:
Gần gũi kẻ ác, thêm
ác tri kiến, sớm tối tạo ác, trước mắt chịu quả báo, chết rồi phải
trầm luân. Một phen mất đi thân người, muôn kiếp khó tìm lại được.
Giảng:
Đây là lời cảnh cáo,
nếu không chịu gần Thầy lành bạn tốt cố gắng tiến tu, mà chỉ gần gũi
kẻ ác thì hậu quả sẽ thảm hại như thế, sẽ mãi mãi trầm luân chịu mọi
thống khổ, một phen mất thân này muôn kiếp khó tìm lại. Tổ thật từ
bi chỉ dạy chúng ta từng li từng tí, chỉ cốt mong sao chúng ta thành
người hữu dụng.
Chánh Văn:
“Trung ngôn nghịch nhĩ,
khởibất minh tâm giả tai? Tiện năng tháo tâm dục đức, hối tích thao
danh, uẩn tố tinh thần, huyên hiêu chỉ tuyệt”.
Dịch:
Lời thẳng trái tai,
há chẳng ghi lòng đó sao? (Có thể) mới hay rửa lòng nuôi đức, ẩn
tích mai danh, chứa nhóm tinh thần, xa lánh ồn náo.
Giảng:
“Trung ngôn nghịch
nhĩ, khởi bất minh tâm giả tai?”. Lời nói thẳng thường trái tai, tuy
trái tai song phải ghi lòng, có thế mới tiến được. Bây giờ Tổ mới
bắt đầu vào việc tu hành.
“Tiện năng
tháo tâm dục đức. Hối tích thao danh, uẩn tố tinh thần, huyên hiêu
chỉ tuyệt”.Người tu trước phải rửa tâm nuôi đức, kế đến ẩn hành tung
chôn vùi tên tuổi để chứa nhóm tinh thần cho trong sạch, muốn thế
phải xa lìa chỗ ồn náo. Sở dĩ chúng ta không thể gội rửa tâm hồn,
nuôi dưỡng đức hạnh cũng chỉ vì, một phần là hiện tướng sờ sờ, hai
là tên tuổi thiên hạ đều biết. Vì hiện tướng sờ sờ nên ai thấy cũng
mời, nay đi chỗ này, mai đi chỗ nọ, đi mãi thì làm sao có ngày giờ
để gội rửa tâm thần? Vì thế người tu thường ở núi rừng xa vắng, cốt
để người không gặp, tên tuổi chẳng ai biết đến, thì mới có cơ hội
uẩn tố tinh thần. Ngay như tôi khi xưa suốt mấy năm lăng xăng làm
việc này việc nọ, lúc ra đây nếu tôi không tuyên bố nhập thất chắc
cũng không làm gì được. Vì ai thấy cũng mời, thì rảnh rang đâu lo
việc của mình? Nhờ ẩn đi không ai biết tên thấy mặt, mới từ từ nuôi
dưỡng cái cao siêu của mình, mới gội rửa dần những cấu bợn nơi mình,
rồi sau mới có thể làm được đôi chút lợi ích thật sự cho người. Cứ
mãi hòa trong cái ngàu đục thì biết đến bao giờ mình mới trong? Vì
thế, bây giờ tôi chỉ xin hẹn với quí vị là ba năm sau đừng ai biết
đến tôi. Vì mấy năm nay những gì tôi dung chứa, gột rửa tôi đã chỉ
hết cho quí vị rồi, thì giờ đây tôi phải tiến nữa chứ không thể dừng
một chỗ được.[1]
Người tu phải khéo sắp đặt cho mình một hoàn cảnh thuận tiện để tiến
tu, chứ không thì mãi lẩn quẩn trong vòng ngàu đục của thế gian mà
chẳng được ích lợi gì.
Chánh Văn:
“Nhược dục tham thiền
học đạo, đốn siêu phương tiện chi môn, tâm khế huyền tân, nghiên cơ
tinh yếu, quyết trạch thâm áo, khởi ngộ chân nguyên”.
Dịch:
Nếu muốn tham thiền
học đạo, là môn vượt ngoài phương tiện, thì trong phải hợp với mé
huyền và nghiên cứu tường tận cái tinh yếu của đạo. Chọn lựa được
chỗ thâm sâu rồi mới có thể khai ngộ được nguồn chơn (tức bản tánh).
Giảng:
Người tham thiền học
đạo trước phải rõ đây là pháp môn vượt ngoài phương tiện. Tại sao
lại thế? Như trong kinh Phật dạy quán sổ tức hoặc quán từ bi hay
quán bất tịnh v.v…thì tất cả phương pháp tu ấy đều có danh ngôn hình
tướng tức là phương tiện. Sao đây lại nói pháp môn không phương
tiện? Tôi xin nói lược rồi sẽ chỉ kỹ ở sau. Tổ Bồ Đề Đạt Ma khi sang
Trung Hoa, Ngài thấy chư Tăng thời ấy chuyên về văn tự mà không rõ
lý đạo, nên Ngài mới dạy một pháp môn gọi là “Giáo ngoại biệt
truyền” là truyền ngoài giáo lý, để dứt khoát không còn kẹt trong
văn tự nữa. Rồi: “ Trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật”. Kiến
tánh là gì? Có phải kiến tánh là thành Phật, là có thần thông…hay
không? Sao có nhiều người nói thấy tánh mà chẳng thấy có thần thông
gì hết? Nếu hiểu như vậy là chúng ta đã bị chữ nghĩa làm rối rắm, sự
thật không phải như vậy. Đây tôi phân tích để quý vị rõ. Như trong
nhà Thiền, khi người học đạo hỏi một câu, được các Thiền sư hoặc
đáp, hoặc đánh, hoặc la hét v.v…nhờ đó người hỏi được ngộ. Vậy “ngộ”
là ngộ cái gì? Có thành Phật chưa?. Chính “ngộ” là thấy đạo hay
“kiến tánh”, tức thấy được chân tánh bất sanh bất diệt của mình.
Nhận ra mình có bản tánh bất sanh bất diệt rồi, nhìn lại thấy rõ
thân này cho đến vũ trụ đều là pháp sanh diệt, huyễn hóa. Đã là
huyễn hóa thì đâu có dại dột gì đắm nhiễm chạy theo.Từ đó tiến tu
mãi không lùi thẳng đến quả vị Phật, chứ không phải kiến tánh là
thành Phật ngay. Kiến tánh là nhơn, thành Phật là quả, thẳng một
đường không trải qua một ngôi vị nào khác, nên gọi giáo lý này là
tối thượng thừa. Phật đã nói: “Ta là Phật đã thành, các người là
Phật sẽ thành”, đó là sự thật. Chỉ vì chúng ta chưa tin được nên
không là “Phật sẽ thành”. Kiến tánh là chủ yếu của người tu. Vì có
kiến tánh mới có thể thành Phật được, nên Tổ chỉ thẳng vào tâm mà
không dùng phương tiện. Chỉ cái nào sanh diệt thì đừng theo, cái nào
không sanh diệt thì hằng sống, đó là không dùng phương tiện. Như
trong kinh Pháp Hoa, Phật nói: Chư Phật ra đời cốt chỉ cho chúng ta
nhận được “tri kiến Phật” của chính mình. Các Tổ Thiền Tông cũng chỉ
cho chúng ta nhận được cái sẵn có đó. Và, chính tôi giảng kinh đây
cũng cốt làm sao cho quí vị nương nơi kinh mà thấy được cái sẵn có
nơi mình, chừng ấy bản hoài của tôi đã trọn. Kinh Lăng Nghiêm nói:
“Kinh là ngón tay chỉ mặt trăng”. Như quí vị mới tập tu vào chùa,
quí Thầy dạy đếm hơi thở, rồi niệm Phật trì chú hay quán bất tịnh
v.v…tất cả cái đó đều là phương tiện. Nếu mình bám chặt phương tiện
mà mình đang theo, rồi chỉ trích pháp “không phương tiện”, đó là lầm
lỗi. Phương tiện ví như cây vịn để vịn tay lần qua cầu, người nào
yếu chân sợ té thì phải nương cây để qua, còn người nào mạnh chân
thì cứ thẳng mà đi, không cần nương vịn. Qua khỏi cầu là phải buông
cây, chứ đâu có nắm hoài. Cũng vậy, niệm Phật đến vô niệm mới là cứu
cánh, khi được nhất tâm rồi thì câu niệm Phật không cần thiết nữa.
Hay như trong kinh A-Hàm Phật dạy: Người nào quán Tứ niệm xứ hoặc
một ngày… cho đến bảy ngày mà không có tạp niệm thì người đó chứng
quả. Còn tôi nói nếu quí vị quán Bát Nhã từ một ngày cho đến bảy
ngày mà không có niệm khác thì sẽ được Bát Nhã hiện tiền. Những lời
nói này đâu có khác. Đến chỗ cứu cánh thì phương tiện không còn. Thế
mà, vì không thực hiểu nên chúng ta chấp cho thế này là hay, thế kia
là dở. Sở dĩ không dung hội được như thế, là vì chúng ta đứng ở một
khía cạnh mà nhận xét. Nếu thật thâm hiểu sẽ thấy ngôi nhà Phật pháp
chỉ có một, mà cửa phương tiện bước vào thì có nhiều.
Ở đây Tổ Qui Sơn nói
pháp môn vượt ngoài phương tiện, lối tu này hơi khác lạ khiến người
càng sợ. Thông thường, sơ cơ thì phải tụng kinh, trì chú hoặc ngồi
thiền chăm bẩm kềm tâm, ngó chừng hễ thấy vọng tưởng dấy lên liền
buông ngay. Luôn cầm kiếm sẵn trong tay vừa thấy ma liền nhiếp phục
nó. Đến khi dẹp hết ma quân rồi thì ngồi chăm bẩm làm chi nữa? Như
trâu đã thuần đâu cần cầm roi kéo mũi, khi tâm đã thuần thì chúng ta
phải vận dụng qua cái khác. Nếu ngồi yên tâm được yên thì phải tập
tu trong động xem nó có thật yên chưa? Chẳng hạn đi nhổ cỏ, cuốc đất
v.v…Nếu trong động mà tâm yên thì mới tiến được chớ chẳng phải ngồi
mãi một chỗ. Có người lầm tưởng ngồi 2 giờ, 4 giờ, 10 giờ…cho đến
ngồi cả ngày quên cơm nước đó là cao, nhưng thực sự không phải vậy.
Ở đây tôi chỉ cho ngồi 2 giờ là tối đa, cho đến lúc nào đó quí vị
thong thả dạo chơi, xem hoa ngắm kiểng, rồi khuya dậy châm trà uống
, khỏi cần ngồi thiền, mà tâm an nhiên không động, đó mới là cao.
Thiền đến chỗ cứu cánh là phải như vậy, phải thiền trong tất cả
thời, chứ không phải ngồi mới gọi là thiền. Bây giờ bắt quí vị ngồi
thiền tạm gọi là dùng phương tiện, đến khi nào vọng tưởng lặng là
xong, chỉ cần biết vọng tưởng không theo là đủ. Nếu chúng ta mượn
câu trì chú hoặc niệm Phật để tu, đến chừng muốn bỏ, bỏ không nổi
thì kẹt. Thành ra tu thiền thấy như khó, vì không có phương tiện,
song đến cứu kính thì thật là dễ, vì không có cái gì để bỏ. Chỉ cốt
vong tưởng dấy lên đừng chấp nhận, vọng tưởng hết thì tâm nhất như.
Nghe như dễ, nhưng lại rất khó. Thật ra chẳng phải dễ hay khó mà chỉ
do chúng ta có chí hay không.
Chánh Văn:
“Bác vấn tiên tri, thân
cận thiện hữu. Thử tông nan đắc kỳ diệu, thiết tu tử tế dụng tâm,
khả trung đốn ngộ chánh nhân, tiện thị xuất trần giai tiệm”.
Dịch:
Rộng hỏi tiên tri,
thân gần thiện hữu. Tông này khó đạt được chỗ nhiệm mầu, cần phải
dụng tâm chính chắn. Nếu trong ấy đạt được chánh nhân, đó chính là
thềm bực giải thoát.
Giảng:
Nếu không khế ngộ
được nguồn chơn thì phải tham vấn các bậc tiên tri. Chữ “tiên tri”
đây có nghĩa là người đã học đã tu trước mình. Vì tông này rất khó
mà đạt được diệu chỉ, nên cần phải dụng tâm cho chính chắn. Nếu ở
trong ấy mà ngộ được chánh nhân rồi thì liền vượt khỏi cõi trần
không cần theo thứ lớp. Đây là chỗ quan trọng của Thiền tông. Thiền
tông là con đường tắt không quanh co, không theo thứ tự, nên khó mà
nhận được yếu chỉ. Nhưng nếu khéo dụng tâm và đạt được bản nhân rồi,
thì tin chắc ngay trong đời hiện tại không còn bị luân hồi lôi kéo
nữa. Song đây không phải là việc dễ, phải khéo cẩn thận. Có nhiều
người tu thiền cầu được những điều hay lạ, tâm chạy theo danh sắc
nên đã lạc lầm đi trong sanh diệt. Có người muốn tu, đến đây nhờ tôi
nói một câu chỉ thẳng yếu chỉ. Tôi biết nói thế nào, chỉ có cách là
học ba năm đi rồi sẽ thấy, chớ chỉ liền không thể được. Vì đây là
chỗ không hình tướng. Tuy không phải là không, nhưng khó thể chỉ
bày. Quí vị chịu khó ngày nay nghe thấm một ít, ngày mai nghe thấm
một ít. Cho đến hôm nào đó, chợt lãnh hội được yếu chỉ, thì sự tu
hành mới bảo đảm không lầm. Dẫu đây là pháp môn không phương tiện,
nhưng trình độ quí vị không thể khai thông liền, nên phải có thời
gian, rồi cơ hội tốt đến, quí vị tự lãnh hội. Đó là điều mà chúng
tôi mong mỏi.
Phần 10
Chánh Văn:
“Thử tắc phá tam giới,
nhị thập ngũ hữu”.
Dịch:
Đây là phá 3 cõi 25
loài.
Giảng:
Kinh Lăng Nghiêm,
Phật chia ra 25 cõi, nên đây nói 25 loài. Chúng ta tu là quyết ngay
đời này phải ra khỏi tam giới, dứt vòng luân hồi. Theo tinh thần
Thiền tông, chúng ta phải thấy mình chỉ là mgười khách qua lại trong
tam giới thôi. Chúng ta không còn bị trói buộc mà chỉ vì tùy nguyện
độ sanh nên đi vào tam giới
Chánh Văn:
“Nội ngoại chư pháp tận
tri bất thật, tùng tâm biến khởi, tất thị giả danh”.
Dịch:
Trong, ngoài các
pháp đều biết không thật.Từ tâm biến khởi, tất thị giả danh”.
Giảng:
Một câu này, quí vị
nếu nhận hiểu rồi, có thể nói tu suốt kiếp cũng chưa xong. “Nội
ngoại chư pháp” là các pháp bên trong và bên ngoài, tức năm uẩn và
sáu trần, đối với các pháp hằng chiếu soi thấy nó không thật ấy là
giải thoát. Như trong kinh nói: giả sử bố thí châu báu nhiều bằng
quả đất cũng chưa chắc được giải thoát. Vì sao? Vì còn thấy mình
thật, người thật, của cải thật thì đó là nhơn luân hồi ( nhưng luân
hồi trong cõi lành) chứ chưa phải giải thoát. Người quyết tâm giải
thoát phải luôn luôn dùng trí tuệ thấy rõ năm uẩn, sáu trần, các
pháp thế gian và xuất thế gian đều không thật. Vì sao không thật? Vì
“từ tâm biến khởi?”. Sở dĩ chúng ta luân hồi trong tam giới là do
nghiệp gây nên, mà gốc nghiệp là thân, miệng, ý. Nhưng xét kỹ thì
thân và miệng chỉ là công cụ của ý, ý chủ động. Ý có nghĩ thân mới
làm, miệng mới nói. Vì thế chúng ta tu là cốt làm sao cho ý dừng
lặng không còn tạo nghiệp thì còn ai lôi chúng ta vào tam giới nữa?
Tất cả phương pháp tu đều quy về chỗ đó. Niệm Phật, trì chú thì phải
đến chỗ nhất tâm, tham thiền phải bặt vọng tưởng, tức ý không còn
hoạt động. Chúng ta không hiểu thấu đáo nên chấp cho rằng tụng kinh
có phước, trì chú có linh nghiệm, tham thiền có công đức v.v…mà
không biết rằng tất cả những phương tiện ấy chỉ cốt để đập tan dòng
ý thức cuộn chảy trong chúng ta. Khi ý thức lặng rồi thì tâm thanh
tịnh nhất như. Có người tu đến chỗ lặng vọng tưởng lặng rồi lại
hoảng hốt, cho rằng: mình đâu mất! Thế là cầu thanh tịnh, được thanh
tịnh lại hoảng sợ ! Chẳng khác nào chàng Cùng tử trở lại quê cha,
đến chừng thấy cha lại hoảng kinh chạy trốn, buộc lòng ông cha phải
dùng phương tiện dẫn dụ về làm những công việc hèn hạ, như hốt rác,
đổ phân thế mà lại hài lòng. Thật đáng thương xót! Cũng vậy, Phật
mượn phương tiện dạy chúng ta tu hành qua thứ lớp. Như tu thiền,
quán tứ đại thì trước quán thủy đại. Quán nước trong thân lần lần
tràn khắp hư không thì được cái định thứ nhứt là sơ thiền, kế đến
quán gió; lửa v.v…cuối cùng xả hết đến Diệt thọ tưởng định là chận
đứng dòng tâm ý. Chỉ vì chúng ta không nhận nổi cái “trực chỉ”, nên
Phật phải dẫn quanh một vòng phương tiện, đến rốt cùng cũng là bặt
tâm ý. Thiền tông thì chỉ thẳng, khiến cho người hoảng hốt tưởng
rằng đến đó là không còn gì nữa. Đây là bịnh do mê lầm mà ra, chứ
không có gì lạ. Vì chúng ta lâu nay hằng sống với cái hư giả mà cho
là thật, còn đối với cái thật thì lại hồ nghi. Ví như kẻ xa quê lâu
ngày muốn về thăm cha mẹ nhưng quên mất số nhà chỉ nhớ loáng thoáng
con đường. Khi đến con đường ấy cứ đi tới đi lui mãi, thậm chí dừng
trước cổng nhà mình mà cũng không biết, lại phải tìm người để hỏi.
Chúng ta cũng vậy, khi vọng tưởng dấy lên cuồn cuộn thì ra sức dẹp,
hết vọng tưởng lại thấy không ngơ, rồi sợ mà không nhận “ cái thật”
trong cái không ngơ đó, nên muốn trở lại vọng tưởng nữa. Cứ lẩn
quẩn, loanh quanh tu mãi chẳng đến đâu. Đó là vì không thấy rõ lối
đi nên bị mắc kẹt, còn nếu chúng ta biết rõ manh mối chánh yếu của
việc tu, thì đi thẳng vào nhà không còn sợ sệt gì nữa. Thế nên, Tổ
dạy người tu thiền trước phải dùng trí tuệ chiếu soi thấy năm uẩn,
sáu trần thảy là không thật, từ tâm biến khởi chỉ có giả danh. Đây
là giai đoạn căn bản bước vào cửa thiền.
Chánh Văn:
“Bất dụng tương tâm
thấu bạc, đản tình bất phụ vật, vật khởi ngại nhân”.
Dịch:
Chẳng cần đem tâm
nương gá, chỉ lòng không gá vật thì vật đâu chướng ngại được người.
Giảng:
Thật là đơn giản, tu
thiền là thế đó. Nếu ngồi thiền mà tâm còn nhớ việc này, nghĩ chuyện
kia goi là “thấu bạc”. Điểm này có người thắc mắc, như chánh tư duy
là dùng một đề tài nào đó suy tới nghĩ lui, nghiền ngẫm cho ra lý,
lâu ngày nảy ra một ý kiến hay nào đó, người ta cho là phát huệ,
phải không? Thiền Tông thì không dùng như vậy. Vì như vậy thì tâm
mãi loạn, ý tạo nghiệp bao giờ mới dừng? Ở đây cốt đánh tan ý. Chẳng
đem đề tài nào suy gẩm cả, mà chỉ không cho vọng tình chạy theo sự
vật bên ngoài. Nếu ngồi thiền mà chợt nhớ ông A, ông B là tình đã gá
vật rồi. “Vật” đây là người, cảnh bên ngoài. Nếu tâm mình chạy theo
vật phải biết mà chận ngay. Đừng để tâm dong ruổi theo cảnh vật, đến
cả danh ngôn cũng vậy, đây là cái dễ làm cho tâm loạn nhất. Lúc đầu
loạn theo cái thô lần lần đến cái tế. Như những lời nói của cổ đức,
hoặc trong kinh sách, cho đó là nghĩ lành nên thường đuổi theo, ấy
là bệnh của người tu thiền hay mắc phải. Chúng ta vừa dấy niệm là
tình đã “phụ vật” rồi. Tất cả những nghĩ tưởng của ta đều không rời
danh ngôn, sắc tướng. Khi ngồi yên không thấy người, cảnh bên ngoài.
Song, nếu chợt nhớ hình ảnh nào đó thì liền hiện ra, như có trước
mắt. Hoặc nhớ câu nói nào đó thì liền nghe vang lên trong tâm thức.
Đó gọi là pháp trần. Những lúc đó chúng ta không gá vào những vật
hiện có trước mặt, nhưng gá vào bóng dáng của vật còn lưu lại trong
tâm thức, như vậy cũng là “phụ vật”, vật từ tâm biến ra. Vì thế chủ
yếu là chúng ta đừng để cho tâm gá vật. Nếu thấy người thấy cảnh mà
tâm không duyên theo thì đâu có gì chướng ngại. Dù ngọc ngà đầy
trước mặt mà tâm không dấy động, thì thử hỏi cái gì chướng ngại
mình? Chướng là do ma bên trong chực sẵn cộng thêm lũ quỷ bên ngoài
nữa, mới làm nội công ngoại kích mà phá tan thành trì giới luật và
Thiền định của chúng ta. Cho nên, khi có người hỏi Thiền sư: “Thế
nào là giải thoát”. Ngài đáp: “Tâm, cảnh không đến nhau là giải
thoát”. Đây chính là nghĩa “tình không gá vật”. Như vậy, chúng ta
thấy rõ giải thoát chẳng phải tìm đâu xa, chẳng phải tu nhiều đời
nhiều kiếp mới được. Mà chỉ “tâm cảnh không đến nhau”, chứ chẳng có
gì là kỳ lạ cả. Chỉ vì tâm cảnh dính nhau nên bị trói buộc, chính
vọng tưởng trói chúng ta vào vòng sanh tử, dứt vọng tưỏng thì nhân
trói buộc đâu còn, đó là giải thoát ngay hiện đời. Sự tu hành đơn
giản chỉ có thế.
Chánh Văn:
“Nhậm tha pháp tánh
châu lưu, mạc đoạn mạc tục. Văn thinh kiến sắc, cái thị tầm thường.
Giá biên na biên, ứng dụng bất khuyết”.
Dịch:
Mặc tình pháp tánh
trùm khắp, chẳng phải đoạn dứt cũng chẳng cần tiếp nối. Nghe tiếng
thấy sắc là việc tầm thường. Bên này bên kia ứng dụng không thiếu.
Giảng:
Đến đây Tổ chỉ cho
chúng ta thấy một cái gì cao siêu rộng khắp:
“Nhậm tha pháp tánh
châu lưu, mạc đoạn mạc tục”. Khi tâm cảnh không dính nhau, chúng ta
khôngcòn lệ thuộc vào vọng tình, cái mà hằng lâu chúng ta chấp cho
nó là mình. Lúc đó cái gì là mình? Chỉ vì lâu nay chúng ta thấy hòn
bọt cho đó là biển cả, đâu ngờ nay đập tan hòn bọt mới thấy biển cả
mênh mông. Khi vọng tưởng hết, chừng ấy chúng ta mới thể nhập pháp
tánh vô biên. Chổ này Tổ Tăng Xán gọi là “Viên đồng thái hư, vô
khiếm vô dư”. Khi tâm dừng, không chạy theo vọng tưởng nữa đừng
tưởng là hết, mà lúc ấy là lúc đập tan hòn bọt để hòa cùng biển cả.
Nơi nơi chốn chốn đều có mình. Mình không còn hạn cuộc trong cái
thân nhỏ bé này nữa mà trùm khắp hư không. Vì thế, Ngài Thiện Tài
đồng tử khi bước vào lầu các của Bồ Tất Di-Lặc liền thấy vô lượng vô
biên chư Phật, và mỗi chỗ mỗi chỗ đều có mặt Ngài đang đảnh lễ. Khi
nhập pháp tánh rồi thì nó tràn lan trùm khắp, không cắt đứt cũng
đừng tiếp nối, lúc đó an nhiên tự tại. Lúc đó là sống với pháp thân.
Cho nên các Tổ khi thể nhập được pháp tánh rồi thì nói một lời là
một bài kệ. Đi, đứng, nói, nín đều là đạo. Không cần đợi đến chết
mới nhập pháp thân, chỉ cần dứt vọng tưởng là được. Đến đó thì:
“Văn thinh kiến sắc
cái thị tầm thường”, tức nghe tiếng thấy sắc đều là tầm thường. Bởi
vì khi đã thể nhập được pháp tánh, nhận được cái chân thật rồi thì
tất cả sự vật ở thế gian đều là ảo ảnh không thật, không có gì đáng
để chúng ta quyến luyến. Nhưng nếu chưa đến đó thì phải thận trọng.
Có một số tu sĩ sắm radio, tivi để xem, rồi hút thuốc, uống bia…tự
cho mình là người phá chấp, tự tại trong khi tâm còn đầy ấp vọng
tưởng, thì đó là ngụy biện để che mắt thế gian. Chúng ta chỉ tự tại
khi nào nhập được “pháp tánh châu lưu”, khi nào nhận được cái chân
thật thì cái giả mới không màng. Ví như một em bé nhà quê được mẹ
mua cho đôi bông bằng vàng giả. Em bé hí hửng đem khoe với bạn bè,
tự hài lòng quí thích đôi bông, vì em tưởng nó là thật. Nhưng đối
với người có đôi hoa tai bằng vàng ròng hay kim cương thì đôi bông
giả kia đâu có giá trị gì. Dù cho đầy trước mắt những thứ giả ấy, họ
cũng không thèm để ý huống nữa là quí thích. Khi chúng ta vượt qua
khỏi lãnh vực giả dối, tìm lại được mặt thật xưa nay, thì khi ấy đối
với thế gian này ta mới là người hoàn toàn không ô nhiễm. Như Ngài
Phù Dung nói: “Ngộ thinh ngộ sắc như thạch thượng tài hoa, kiến lợi
kiến danh như nhãn trung trước tiết”. Tức là gặp thinh gặp sắc như
cây trồng trên đá, thấy lợi thấy danh như bụi rơi vào con mắt. Đối
với người đã đạt được pháp tánh rồi thì thinh sắc danh lợi không bám
được, chẳng có chi phải bận lòng. Mà lúc ấy:
“Giá biên na biên
ứng dụng bất khuyết”. Bên này bên kia ứng dụng không thiếu. Bên này
bên kia là thế nào? Là đứng về mặt xuất thế gian thì không còn bị
năm trần ô nhiễm. Còn đứng về mặt thế gian thì tùy cơ ứng biến diệu
dụng không lường. Không chấp có, không kẹt không, không mắc trong
thế gian cũng không đắm trong giải thoát.
Tự tại qua lại trong
tam giới, tùy duyên hóa độ muôn loài. Đó là chỗ cứu kính của người
tu. Đoạn trên Tổ đã thố lộ chỗ chí yếu của việc tu để chúng ta không
còn ngờ vực, đến đây Tổ lại khen ngợi để sách tấn.
Phần 11
Chánh Văn:
“Như tư hành chỉ, thật
bất uổng phi pháp phục. Diệc nãi thù báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Sanh
sanh nhược năng bất thoái, Phật giai quyết định khả kỳ. Vãng lai tam
giới chi tân, xuất một vị tha tác tắc”.
Dịch:
Nếu làm được như
thế, mới thật không uổng mặc áo pháp, cũng là đền đáp bốn ân cứu
giúp ba cõi. Đời đời nếu không thối chuyển thì quả Phật quyết chắc
được nên. Làm người khách qua lại trong ba cõi, ra vào làm phép tắc
cho người.
Giảng:
Nếu đi đúng đường
lối Thiền Tông như trên, tức “ngộ thinh ngộ sắc như thạch thượng tài
hoa”, mới thật không uổng mặc áo pháp trong nhà Phật. Chủ trương của
chúng tôi ở đây là ngu dân. Ngu dân bằng cách loại bỏ tất cả kiến
thức, vì còn kiến thức là còn vọng tưởng. Nếu khi ngồi thiền nảy ra
ý gì hay liền ghi thành sách, như thế thì chẳng bao giờ vào cửa
“pháp tánh châu lưu” được. Vì thế chúng ta phải gan dạ loại bỏ các
kiến thức tạp nhạp kia ra, càng nhiều kiến thức càng tầm thường.
Muốn vượt khỏi sự tầm thường ấy thì chỉ nên đi thẳng theo một con
đường cho đến nơi đến chốn. Ví như, người đánh máy cũng biết, đào
mương cũng biết, hội họa cũng biết, làm bếp cũng biết…cái gì cũng
biết hết thì chắc chắn sẽ không giỏi hẳn một môn nào. Người ấy chỉ
có thể tùy thân hữu dụng chứ không thể thành người tài giỏi được.
Muốn thành người tài giỏi thì phải bỏ hết mà chỉ chuyên một ngành
nào đó thôi. Tất cả kiến thức khôn ngoan của thế gian hay trong đạo
đều là vọng tưởng, chẳng phải là cái chơn thật, đó chỉ là những hòn
bọt ngoài bể cả nào có nghĩa lý gì. Chúng ta phải gan dạ đập nát hết
những hòn bọt kia đi, mới thấy mình bất sanh bất diệt. Mới thấy được
cái diệu dụng khôn lường của mình và chừng đó mới có khả năng gánh
vác việc lớn, đỡ nâng Phật pháp.
Chánh Văn:
“Thử chi nhất học tối
diệu tối huyền. Đãn biện khẳng tâm, tất bất tương trám”.
Dịch:
Môn thiền này rất
diệu rất huyền. Chỉ cần có đủ quyết tâm, mới biết Phật Tổ không dối.
Giảng:
Có một thiền khách
đến hỏi Thiền sư:
-Vì sao nói “Như-Lai
có mật ngữ mà không có mật tàng?” Thiền sư liền đưa tay lên, hỏi:
-Hội không?
-Thưa không hội.
-Nếu ông không hội thì
Như-Lai có mật ngữ, nếu ông hội thì Như-Lai có mật tàng.
Lại nữa, một hôm ở
trên hội Linh-Sơn Phật đưa cành hoa sen lên, cả chúng hội đều ngơ
ngác. Chỉ có Ngài Ca-Diếp đắc ý chúm chím cười.
Điều Phật muốn nói,
muốn chỉ vượt ra ngoài tầm hiểu biết theo vọng tưởng của mình, nên
chúng ta nghe như bí mật. Vì chúng ta không lãnh hội được nên thấy
như Phật có “mật tàng”. Còn đối với Ngài Ca-Diếp thì Như-Lai có mật
ngữ, song không có mật tàng. Khi chưa lãnh hội được thì nghi ngờ lời
Phật Tổ, khi lãnh hội được rồi thì hết nghi. Mới thấy môn thiền này
rất là diệu huyền. Ai tu thiền cũng phải cố gắng mà nhận ra “cái
chân thật” mới thấy Phật Tổ không dối gạt mình. Nhất là quý vị đang
nghi ngờ: nếu dẹp hết kiến thức rồi còn gì? Chẳng lẽ tu rồi không
biết gì hết, cứ ngơ ngơ sao? Đừng lo chuyện ấy, chỉ lo trong lòng
chưa được trống không thôi. Chứ khi dứt hết vọng tưởng điên đảo rồi
thì: “bên này bên kia ứng dụng không thiếu”, đừng lo đến đó rồi hết.
Có lắm vị ngồi Thiền được yên tĩnh giây lát, sanh nghi ngại: tới chỗ
yên rồi hết sao? Thật ra được yên chốc lát làm sao có diệu dụng?
Chừng nào đi, đứng, nằm, ngồi đều như như, như Ngài Triệu Châu suốt
ngày không có tạp niệm, trừ hai thời cơm cháo là còn phải quán
tưởng, thì chừng ấy mới “pháp tánh châu lưu”. Còn chúng ta thì không
yên được nữa ngày, sáng cạo râu, trưa hớt móng tay, chiều sửa soạn
đi dạo…chưa có được 5 phút như như, thì làm thế nào có diệu dụng?
Chỉ khi không còn vọng tưởng mới thấy mình chẳng phải là cái thân bé
nhỏ mong manh này mà là cái bất diệt vĩnh cửu. Đó là chỗ cứu kính
của người tu. Đâu chỉ riêng Thiền tông thấy như vậy mà bên Tịnh độ
cũng thế. Trong một buổi tiếp khách của một Thiền sư Nhật Bổn, có
một vi Tăng đến, Thiền sư hỏi:
-Thầy tu pháp môn nào?
-Tôi tu pháp môn Tịnh
độ.
-Đức A-Di-Đà bao nhiêu
tuổi?
-Bằng tuổi của tôi.
Câu đáp này chứng tỏ
vị Tăng đó đã nhập được pháp tánh, không còn thấy Phật A-Di-Đà là
một vị Phật ở cõi xa xôi nào mà chính là tự tánh của mình nên mới
nói: “Bằng tuổi của tôi”. Nghe qua, thấy như ông Tăng này phạm
thượng dám so sánh tuổi mình bằng tuổi Phật, nhưng người thật tu,
hiểu thấu đáo rồi mới thấy đó là sự thật.
Sau khi dạy tu Thiền
xong Tổ e có người đối với giáo lý cao siêu như thế không kham lãnh
nổi, nên Ngài hạ xuống một nấc, dạy phương pháp khác.
Chánh Văn:
“Nhược hữu trung lưu
chi sĩ, vị năng đốn siêu, thả ư giáo pháp lưu tâm, ôn tầm bối diệp.
Tinh sưu nghĩa lý, truyền xướng phu dương, tiếp dẫn hậu lai, báo
Phật ân đức”.
Dịch:
Nếu có kẻ bậc trung,
chưa thể vượt qua được (phương tiện). Thì phải, đối với giáo pháp
lưu tâm, ôn tầm kinh luận. Tinh thông nghĩa lý truyền bá mở mang,
tiếp dẫn hậu lai, báo ân đức Phật.
Giảng:
Nếu người đốn siêu
được thì ngay trong đời này có thể cứu giúp chúng ta trong ba cõi
đền đáp bốn ân. Còn chúng ta không được như thế thì phải nghiên cứu
kinh điển cho tinh thông để đem ra truyền bá, hầu tiếp dẫn người
sau, đáp đền ơn Phật. Như thế cũng là tốt vậy.
Chánh Văn:
“Thời quang diệc bất hư
khí, tất tu dĩ thử phù trì. Trú chỉ uy nghi, tiện thị tăng trung
pháp khí”.
Dịch:
Thời giờ chớ nên
luống bỏ, phải dùng giáo pháp để phò trì. Đi đứng oai nghi, mới là
pháp khí Tăng bảo.
Giảng:
Nếu chúng ta không
phải là người nhất thời thấu suốt về thiền thì cũng không nên luống
bỏ thì giờ, bằng cách nghiên cứu kinh điển cho thâm sâu để dạy dỗ
người sau, giữ gìn nề nếp, đi đứng oai nghi…Như vậy, cũng đã là mẫu
mực cho Tăng chúng và đền đáp ơn Phật rồi.
Chánh Văn:
“Khởi bất kiến ỷ tùng
chi cát, thượng tủng thiên tầm, phụ thác thắng nhân phương năng
quảng ích”.
Dịch:
Há chẳng thấy, dây
sắn nương cây tùng mà vượt cao lên ngàn trượng. Nương gá nhân lành
thù thắng thì mới được lợi ích rộng nhiều.
Giảng:
Đoạn này ý nói dây
sắn dây bìm nhờ nương quấn cây tùng mà vượt lên cao ngàn trượng.
Cũng vậy, chúng ta là kẻ tầm thường thì phải nương nhờ kinh luật để
tu. Vì sao? Vì kinh giáo ví như chiếc bè để qua sông, như ngón tay
chỉ mặt trăng. Nương ngón tay mà thấy mặt trăng, nhân kinh mà ngộ
được bản tánh. Dầu cho đời này không tỏ ngộ được thì cũng chứa nhóm
thiện căn, nuôi dưỡng hạt giống Phật. Đồng thời nghiên cứu kinh điển
mới nắm vững đường lối tu để hướng dẫn cho người khiến cho mọi người
cũng bớt khổ được vui. Thế nên người tu phải khéo léo linh động để
được lợi ích cho mình và cho người.
Chánh Văn:
“Khẩn tu trai giới, mạc
man khuy du. Thế thế sanh sanh, thù diệu nhơn quả”.
Dịch:
Phải nên thiết tha
tu hành trai giới cho thanh tịnh, chớ nên khinh dối bỏ qua. (Như
thế) đời đời kiếp kiếp sẽ được nhân quả tốt đẹp.
Giảng:
“Khẩn tu trai giới,
mạc man khuy du”. Ở trên Tổ đã khuyên học kinh, nhưng sợ chúng ta
chấp lý bỏ sự, hạnh giải không tương ưng nên đến đây Ngài dạy phải
nghiêm trì giới luật, chớ nên thiếu sót bỏ qua (khuy: thiếu sót, du:
bỏ qua) giữ giới là sự, học kinh là lý, sự lý phải viên dung. Như
chim có hai cánh thiếu một thì không thể bay được. Như người có hai
chân, thiếu một thì không thể đi được. Thế nên Tổ Ca Diếp trọn đời
tu hạnh đầu đà. Ngài Vĩnh Gia không ăn rau dưới đầu cuốc ( vì cuốc
đất làm chết trùng kiến). Ngài Khuê Phong quanh năm không rời đãy
lọc nước…Chư Tổ đã ngộ đạo mà đối với giới luật còn không dám coi
thường, huống người nay học hiểu được chút ít lý Thiền đã vội buông
lung phá chấp, đó là bịnh.
“Thế thế sanh sanh,
thù diệu nhơn quả”. Giữ giới thì hiện đời tâm được trong sạch, đời
sau được báo thân đoan chính trang nghiêm. Cho đến thân 32 tướng
tốt, 80 vẻ đẹp của Phật cũng do nhiều đời giữ giới mà được thành
tựu. Nên nói “đời đời kiếp kiếp nhân quả tốt đẹp”.
Phần 12
Chánh Văn:
“Bất khả đẳng nhàn quá
nhật, ngột ngột độ thời, khả tích quang âm, bất cầu thăng tiến. Đồ
tiêu thập phương tín thí, diệc nãi cô phụ tứ ân. Tích lụy chuyển
thâm, tâm trần dị ủng, xúc đồ thành trệ, nhân sở khinh khi”.
Dịch:
Chẳng nên thong thả
qua ngày, ngẩn ngơ hết buổi. Thì giờ đáng tiếc sao chẳng cầu tu
tiến. (Như thế thật là) luống hao của tín thí, cũng là cô phụ bốn
ân. Tích chứa càng nhiều tâm trần dễ lấp, gặp việc ngăn bít, bị
người chê cười.
Giảng:
“Bất khả đẳng nhàn
quá nhựt, ngột ngột độ thời”. Tổ quở chúng ta không nên lửng lơ
thong thả qua ngày, ngây thơ cho hết tháng. Chữ “ngột ngột” có chỗ
dùng để chỉ cho người trong lòng không còn một chút kiến giải nào
tâm nhất như, người này cũng ngáo nhưng không phải là cái ngơ ngơ
ngáo của người không hiểu đạo lý. Còn ở đây Tổ dùng chữ “ngột ngột”
để chỉ cho người lo ăn chơi theo thế tục, cứ ngơ ngơ để ngày tháng
trôi qua vô ích.
“Khả tích quang âm
bất cầu thăng tiến. Đồ tiêu thập phương tín thí, diệc nãi cô phụ tứ
ân”. Chúng ta phải biết quý tiếc thời giờ mà nổ lực tiến tu. Nếu
không thì đã luống tiêu hao của tín thí mà cũng là cô phụ bốn ân.
“Tích lụy chuyển
thâm, tâm trần dị ủng, xúc đồ thành trệ, nhân sở khinh khi”. Tích
chứa tiền của càng nhiều thì tâm dễ bị bụi trần che lấp. Như khi
chúng ta không có một xu dính túi thì đâu có nghĩ gì, nếu có ai cho
vài ngàn thì lúc đó nghĩ phải mua gì đây? Tức vọng tưởng dấy lên.
Tiền ít thì vọng tưởng ít, tiền nhiều thì vọng tưởng càng nhiều.
Người có bạc tỷ thì thật khó tu vì phải nghĩ làm sao cho khỏi mất
mát, làm sao để sanh lợi? Tâm lúc nào cũng bất an, tức đã bị bụi
trần phủ che. Nên người nào chứa nhóm càng nhiều thì càng bị chướng
ngại, đối với việc Phật pháp không sáng tỏ được. Tuy có tiền của
nhiều, song vẫn bị người khinh vì tu mà đạo lý không biết gì cả. Đến
đây Tổ lại an ủi:
Chánh Văn:
“Cổ vân: Bỉ ký trượng
phu ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh nhi thoái khuất. Nhược bất như
thử, đồ tại tri môn, nhẫm nhiễm nhất sanh, thù vô sở ích”.
Dịch:
Người xưa nói: Kia
trượng phu ta đây cũng thế, chớ tự khinh mình mà lui sụt. Nếu chẳng
như thế, luống ở trong cửa đạo dần dà hết một đời, trọn không có lợi
ích.
Giảng:
“Bỉ ký trượng phu
ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh khi thoái khuất”. Trong kinh A Hàm có
kể chuyện Ngài La Hầu La, Ngài đi tu lúc còn bé, nên hơi khỉ. Có lần
thấy các vị Tỳ Kheo ngủ, Ngài đến chọc léc. Các Tỳ Kheo mách lên
Phật, Phật quở:
-Sao ông không học
theo những vị trưởng lão đằm thắm nghiêm chỉnh, lại đi trửng giỡn
như thế?
La Hầu La thưa:
-Bạch Thế Tôn, con
đâu dám bì với các hàng Trưởng lão.
Phật dạy:
“Kia là trượng phu,
mình cũng thế. Cớ sao lại tự khinh mình, lại có những tánh xấu như
vậy?”
Từ đó, câu “ Bỉ ký
Trượng phu ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh nhi thoái khuất” luôn được
nhắc nhở đến. Chúng ta thường có cái bịnh là tự ti mặc cảm. Nghe nói
đến Phật thì tưởng như Phật ngồi trên mây cao, còn mình thì ở dưới
đất. Biết thế nên Phật đã hạ thấp Ngài xuống để hòa với chúng ta và
bảo: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. Tức Phật đã
nâng chúng ta lên mà chúng ta vẫn không dám, nên xem chuyện thành
Phật quá cao xa, không làm nổi. Tu là tu vậy, chớ không dám tin là
mình sẽ thành Phật. Cứ thầm tưởng như vậy nên thay vì cố gắng mười
phần chỉ ráng năm, sáu phần thôi. Như anh học trò sắp thi Tú Tài mà
lại mang mặc cảm là sẽ rớt, nên đến trường học cầm chừng thôi, bạn
bè có rủ đi chơi liền đi. Từ ý niệm thiếu tự tin dẫn đến bê tha. Nếu
anh đinh ninh thế nào cũng đậu thì sẽ cố học, ai rủ ren cũng không
đi chơi, nhờ thế mà trong suốt niên học siêng năng cần mẫn. Vậy bê
tha hay cần mẫn đều do tự tin hay không tự tin. Hiện nay đại đa số
người tu chúng ta hầu như mất tự tin. Vì nghĩ mình tu không thành
Phật nên thôi thong thả tu, chớ cố gắng làm chi cho nhọc. Có ai rủ
đi giải trí thì đi cho khuây khỏa một chút, chắc cũng không phạm tội
gì. Cứ thế từ lỗi nhỏ dẫn dần đến lỗi lớn, rồi càng ngày càng xa
đạo. Gốc là do thiếu tự tin.
Trong kinh Pháp Hoa
có phẩm đáng chú ý là phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát. Bồ Tát Thường
Bất Khinh thường làm một việc có vẻ như đùa, đến đâu gặp ai, Ngài
cũng nói: “Tôi không dám khinh các Ngài, vì các Ngài đều có khả năng
thành Phật”. Ngài không tu hành gì hết, chỉ thường nói một câu ấy
thôi, thế mà Phật kết luận rằng: “Thường Bất Khinh Bồ Tát là tiền
thân của ta, nhờ tu hạnh ấy mà bây giờ ta được thành Phật. Còn những
người mà ta gieo hạt giống thời đó, hiện tại đang ở trong hội chúng
đây, có người là Bồ Tát, có người là La Hán”. Như vậy chỉ một câu
nói “Tôi không dám khinh các Ngài, vì các Ngài đều sẽ thành Phật”,
mà quan trọng vô cùng. Câu nói này đã gieo vào lòng người một niềm
tin, tin mình có hạt giống Phật. Chủ yếu của kinh Pháp Hoa là ở phẩm
này. Chỉ vì chúng ta mất niềm tin, nên đối với quả Phật cảm thấy vô
phần, trong khi mỗi người chúng ta đều có Phật tánh. Mà đã có hạt
giống Phật thì quyết định sẽ có ngày thành Phật. Nên ở trên Tổ đã
nói: “Phật giai quyết định khả kỳ” tức quả Phật chắc chắn sẽ có ngày
thành tựu. Phật Tổ cũng là người như chúng ta, nếu chúng ta đi đúng
theo gót chân các Ngài thì chúng ta cũng thành Phật thành Tổ. Nếu
chúng ta chưa ra gì mà tự xưng là Tổ thì đó là ngã mạn. Còn nói:
“quyết định sẽ thành Tổ”, thì đâu phải ngã mạn. Chúng ta nên hiểu rõ
như thế để cố gắng vươn lên.
“Nhược bất như thử
đồ tại tri môn, nhẫm nhiễm nhất sanh, thù vô sở ích”. Nếu không được
như vậy thì luống ở trong dòng họ nhà tu, lơ lửng một đời trọn không
có lợi ích. Tới đây Tổ vừa nhắc nhở vừa quở rầy mà chúng ta đâu đó
vẫn y nguyên, mới biết mình nghiệp chướng thật sâu dầy.
Chánh Văn:
“Phục vọng hưng quyết
liệt chi chí, khai đặc đạt chi hoài. Cử thố khán tha thượng lưu, mạc
thiện tùy ư dung bỉ. Kim sanh tiện tu quyết đoán, tưởng liệu bất do
biệt nhân. Tức ý vong duyên, bất dữ chư trần tác đối. Tâm không cảnh
tịch chỉ vị cửu trệ bất thông”.
Dịch:
Trông mong (các ông)
phát chí dũng mãnh, mở lòng rộng xa. Việc làm phải noi gương hàng
Thượng đức chớ học kẻ tầm thường. Đời này tự mình quyết đoán, chẳng
do người khác liệu giùm. Dứt ý quên duyên, đừng với các trần làm
bạn. Tâm không cảnh lặng, chỉ vì hằng lâu ngăn trệ chẳng thông.
Giảng:
“Phục vọng hưng
quyết liệt chi chí, khai đặc đạt chi hoài. Cử thố khán tha thượng
lưu, mạc thiện tùy ư dung bỉ. Kim sanh tiện tu quyết đoán, tưởng
liệu bất do biệt nhân”. Tổ trông mong chúng ta hãy khởi ý chí quyết
liệt, mở tâm rông rãi, phàm làm việc gì phải noi gương các bậc tiền
bối (Phật Tổ) chớ duyên theo những kẻ tầm thường. Đời này phải chính
mình lo giải quyết lấy việc sanh tử của chính mình chớ trông cậy vào
người khác. Như thế mới xứng đáng và không uổng phí một đời tu. Tổ
đã thúc đẩy mạnh mẽ để chúng ta một bề thẳng tiến, kế đây Ngài dạy
tu:
“Tức ý vong duyên
bất dữ chư trần tác đối. Tâm không cảnh tịch, chỉ vị cửu trệ bất
thông”. Dứt ý quên duyên đừng cùng với trần cảnh làm đối đãi, tức
“tâm cảnh không đến nhau”. Chữ “cảnh tịch” ở đây có nghĩa tâm không
duyên theo cảnh. Nếu ở giữa chợ mà tâm không duyên theo cảnh thì đó
là “cảnh tịch”. Còn nếu ở núi non vắng vẻ mà tâm cứ nhớ đây nhớ kia
thì đó là cảnh ồn. Cảnh vắng hay ồn là do tâm duyên hay không duyên
vậy. Xưa nay, tâm vốn rỗng rang, trần cảnh vốn lặng lẽ. Chỉ vì quên
chơn theo vọng lâu ngày bị các duyên che lấp, mất bản tâm khiến phải
lăng xăng trong sáu nẻo. Bây giờ chỉ cần dừng vọng tưởng là dừng
bước luân hồi. Đến đây Ngài nhắc:
Chánh Văn:
“Thục lãm tư văn, thời
thời cảnh sách, cưỡng tác chủ tể, mạc tuẫn nhân tình. Nghiệp quả sở
khiên, thành nan đào tỵ. Thanh hòa hưởng thuận, hình trực ảnh đoan,
nhân quả lịch nhiên, khởi vô ưu cụ”.
Dịch:
Hãy đọc kỹ văn này,
thường tự nhắc nhở. Cố gắng làm chủ chớ theo tình người. Nghiệp quả
kéo lôi thật khó trốn tránh. Tiếng hòa thì vang thuận; hình thẳng
thì bóng ngay. Nhân quả rõ ràng há không lo sợ.
Giảng:
“Thục lãm tư văn,
thời thời cảnh sách, cưỡng tác chủ tể, mạc tuẫn nhân tình”. Tổ dạy
chúng ta phải thường đọc lại bản văn này cho thuộc lòng để luôn tự
đánh thức mình. Phải cố gắng tự chủ đừng chạy theo tình người. Tình
người là sao? Là nay, chỗ này thỉnh Thầy đi tụng giùm con một thời
kinh. Mai, chỗ nọ thỉnh Thầy đi cúng giùm con một đám v.v…không đi
sợ Phật tử buồn cứ như vậy xách gói đi hoài thì làm sao có thì giờ
để tu? Cho nên mình phải tự chủ đừng chạy theo tình người, mới có
thể tiến tu được.
“Nghiệp quả sở
khiên, thành nan đào tỵ. Thanh hòa hưởng thuận, hình trực ảnh đoan,
nhân quả lịch nhiên, khởi vô ưu cụ”, một khi nghiệp quả đã buộc ràng
thì khó mà trốn tránh. Gây nhơn lành thì được quả tốt, cũng như
tiếng êm ái thì âm vang cũng nhẹ nhàng, hình ngay thì bóng thẳng.
Nhơn quả theo nhau rõ ràng như vậy. Nếu đời này tu hành chưa giải
thoát được thì biết chúng ta gây nhân gì phải gặt quả nấy. Thế nên
người biết tu phải dè dặt.
Chánh Văn:
“Cố kinh vân, giả sử
bách thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời,
quả báo hoàn tự thọ”.
Dịch:
Cho nên kinh nói:
“Giả sử trăm nghìn kiếp, nghiệp đã tạo không bao giờ mất. Nhân duyên
khi gặp gỡ, quả báo lại phải chịu.
Giảng:
Đây là Tổ dẫn trong
kinh Nhân Quả. Giả sử chúng ta đã tạo nghiệp, dù trãi qua trăm ngàn
kiếp, nghiệp đó cũng không mất. Khi hội đủ duyên thì quả báo sẽ đến
và chúng ta phải nhận chịu. Đôi khi chúng ta tưởng những việc chúng
ta đã làm sẽ qua mất theo thời gian, nhưng thật sự nó không mất mà
âm hưởng vẫn còn. Như tiếng nói phát ra chúng ta tưởng là mất, nhưng
thật sự nó vang ra và còn lưu lại đâu đó. Điều này bây giờ khoa học
đã giúp chúng ta thấy rõ. Những hành động của chúng ta cũng thế. Tuy
nhiên, không mất mà mất, mất mà không mất. Giả sử như khi chúng ta
có quyền thế, đối với những người xung quanh lắm lúc ta có những lời
lẽ hay hành động khinh miệt đối với họ. Lúc đó tuy bên ngoài vì sợ
uy lực của ta nên họ không dám buồn trách, nhưng trong lòng họ nhớ
mãi. Đến một ngày nào đó, chúng ta sa cơ thất thế, người kia có uy
thế hơn, bấy giờ họ sẽ trả thù. Chừng ấy mới thấy nhơn quả rõ ràng.
Là người tu biết rõ lý nhân quả thì chúng ta phải dè dặt từng hành
động, từng lời nói vậy.
Chánh Văn:
“Cố tri tam giới hình
phạt oanh bạn sát nhân. Nổ lực cần tu mạc không quá nhật”.
Dịch:
Nên biết, ba cõi
hình phạt trói buộc hại người. Gắng sức lo tu chớ luống qua ngày
tháng.
Giảng:
Ba cõi là chỗ chúng
sanh thọ quả báo, nên nói: “Ba cõi hình phạt”. Phiền não vọng tưởng
là sợi dây trói buộc, là giặc thù cướp mất huệ mạng (hay như trong
nhà Thiền gọi là “gia bảo”) của chúng ta, nên nói “trói buộc hại
người”. Đến đây Tổ kết thúc và nhắc nhở hết sức thiết tha.
Chánh Văn:
“Thâm tri quá hoạn,
phương nãi tương khuyến hành trì. Nguyện bách kiếp thiên sanh, xứ xứ
đồng vi pháp lữ, nãi vi minh viết:”
Dịch:
Biết rõ lỗi lầm nên
mới khuyên nhau tu tập. Nguyện trăm kiếp ngàn đời, chỗ chỗ cùng
(nhau) làm bạn pháp, bèn làm bài minh rằng:
Giảng:
Sở dĩ Tổ khuyên như
vậy, vì Ngài đã thấy rõ lỗi lầm đó nên mới khuyên chúng ta tu tập
theo lời Tổ dạy. Ngài nguyện trăm kiếp ngàn đời nơi nơi chỗ chỗ đồng
làm bạn pháp với chúng ta để nhắc chúng ta cùng tu cùng sớm thành
Phật đạo. Và đây cũng là sở nguyện của tất cả người tu vậy. Để toát
yếu lại Ngài làm bài minh:
Chánh Văn:
“Huyễn thân mộng trạch
Không trung vật sắc
Tiền tế vô cùng
Hậu tế ninh khắc?”
Dịch:
Thân huyễn nhà mộng
Vật sắc trong không
Mé trước không cùng
Mé sau đâu biết?
Giảng:
Tổ nhắc
chúng ta nên thấy thân này là huyễn hóa, cõi này như cõi mộng. Tất
cả hình ảnh sự vật trước mắt ta chẳng khác nào hoa đốm giữa hư
không. Tất cả đều là huyễn hóa do nhân duyên sanh, mà nhân duyên thì
trùng trùng điệp điệp nên mé trước không cùng, mé sau không thể tính
hết.
Phần 13
Chánh Văn:
“Xuất thử một bỉ
Thăng trầm bì cực
Vị miễn tam luân
Hà thời hưu tức?”.
Dịch:
Thoát đây chìm kia
Lên xuống cực nhọc
Chưa khỏi ba đường
Bao giờ thôi dứt?
Giảng:
Khi chúng ta chưa
giác ngộ giải thoát được thì ra đây vào kia lẩn quẩn trong sáu nẽo.
Lang thang trong vòng luân hồi hết lên lại xuống, từ vô thỉ đến giờ
không biết đã bao lần. Nếu chưa thoát khỏi ba cõi thì biết đến bao
giờ sự lên xuống nhọc nhằn kia mới thôi dứt.
Chánh Văn:
“Tham luyến thế gian
Ấm duyên thành chất
Tùng sanh chí lão
Nhất vô sở đắc”.
Dịch:
Tham luyến cõi đời
Ấm duyên thành chất
Từ sanh đến già
Trọn không gì được.
Giảng:
Chúng ta vì tham
luyến thế gian nay nên mới có thân, tức hợp năm uẩn lại thành sắc
chất. Như vậy có thân đây cũng do gốc từ luyến ái mà ra. Nhưng từ
lúc sanh ra cho đến già nhắm mắt nào có được gì đâu. Đến tay không
thì đi cũng tay không, chỉ có mang theo nghiệp mà thôi. Còn nghiệp
thì sanh tử lại trùng trùng tiếp nối.
Chánh Văn:
“Căn bản vô minh
Nhân tư bị hoặc
Quang âm khả tích
Sát na bất trắc”.
Dịch:
Căn bản vô minh
Nhân đây mê hoặc
Thời giờ đáng tiếc
Khoảnh khắc khó lường.
Giảng:
Cội gốc vô minh, do
đây bị mê lầm. Mê lầm chồng chất mê lầm không biết bao giờ dứt được.
Thế nên, chúng ta phải tiếc từ tấc bóng. Mạng sống con người trong
khoảng sát na không thể lường được. Chúng ta đang sống đây nhưng có
duyên nào đó đưa đến liền ngã ra chết. Thế là đã qua đời khác rồi.
Nên nếu:
Chánh Văn:
“Kim sanh không quá
Lai thế trất tắc
Tùng mê chí mê
Giai nhân lục tặc”.
Dịch:
Đời nay luống qua
Đời sau ngăn lấp
Từ mê đến mê
Đều do sáu giặc.
Giảng:
Nếu đời này luống
qua thì đời sau bít lấp. Từ mê đến mê cũng đều do sáu tên giặc: mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà chúng ta không thoát khỏi sáu trần.
Chánh Văn:
“Lục đạo vãng hoàn
Tam giới bồ bặc
Tảo phỏng minh sư
Thân cận cao đức”.
Dịch:
Qua lại sáu đường
Lăn lóc ba cõi
Sớm tìm minh sư
Thân gần cao đức.
Giảng:
Cứ mãi qua lại trong
sáu đường, lăn lóc trong ba cõi không dứt, vì vậy nên phải hỏi các
bậc minh sư và gần gũi các vị cao đức.
Chánh Văn:
“Quyết trạch thân tâm
Khử kỳ kinh cức
Thế tự phù hư
Chúng duyên khởi bức?”
Dịch:
Gạn lọc thân tâm
Bỏ điều gai góc
Đời tự giả hư
Duyên nào ép ngặt?
Giảng:
Chúng ta thường phải
gạn lọc thân tâm, bỏ đi những thứ gai góc, tức vọng tưởng, để cho
cây Bồ Đề được tăng trưởng. Cuộc đời tự nó là hư giả, do các duyên
tụ hội. Thấy rõ như vậy thì nó làm gì bức bách được mình.
Chánh Văn:
“Nghiên cùng pháp lý
Dĩ ngộ vi tắc
Tâm cảnh câu quyên
Mạc ký mạc ức”.
Dịch:
Xét tột pháp lý
Chứng ngộ mới thôi
Tâm cảnh đều quên
Chẳng ghi chẳng nhớ.
Giảng:
Chúng ta phải nghiên
cứu đạo lý cho cùng tột để đi đến chỗ giải thoát mới thôi. Tâm cảnh
đều dẹp hết, chớ ghi chớ nhớ.
Chánh Văn:
“Lục căn di nhiên
Hành trú tịch mặc
Nhứt tâm bất sanh
Vạn pháp câu tức”.
Dịch:
Sáu căn an nhiên
Đứng đi lặng lẽ
Một tâm chẳng sanh
Muôn pháp đều dứt.
Giảng:
Nếu sáu căn an
nhiên, không chạy theo sáu trần thì đi đứng nằm ngồi đều lặng lẽ.
Khi một tâm không dấy khởi thì muôn pháp đều dứt đoạn.
Tổ dùng bài minh này
để cô đọng lại toàn văn Cảnh Sách trên. Ngài nhắc nhở tới lui chỉ vì
muốn chúng ta trở thành người xuất gia xứng đáng, để không phụ ơn
cha mẹ, Thầy Tổ, đàn na thí chủ…và nhất là để làm lợi ích cho Phật
pháp chúng sanh sau này vậy.
[1] Sở nguyện như thế
mà hoàn cảnh không cho phép thực hiện