Mỗi đêm trên đất nước này, thật khó có thể biết hết số người hát nghe
các ca khúc trữ tình lãng mạn của anh. Cũng như bao người, tôi yêu
thích tình ca Ngô Thụy Miên. Nghĩ đến tên anh, mọi người đều nghĩ đến
một thiên tài âm nhạc viết tình ca. Hầu như rất ít người, nhất là ở
trong nước biết rằng anh có sáng tác 3 bản Phật ca.
Ngô Thụy Miên là nhạc sĩ tên tuổi, một cây đại thụ, thế nhưng tôi
quen anh không bắt đầu từ môi trường âm nhạc. Vào năm 1987, sau khi ra
trường đi làm được vài năm trong ngành công nghệ tin học (IT), công ty
chuyển tôi về làm việc tại thành phố gần nơi anh sinh sống. Tại đây tôi
biết anh qua tên thật...làm cùng nghề dù anh lớn hơn gần một thế
hệ. Thỉnh thoảng đi tham dự hội nghị chuyên ngành, tôi gặp anh, bắt tay,
chào anh bằng tên thật, trò chuyện đôi câu như người em thăm hỏi người
anh.
Trong các cây đại thụ Việt Nam, có lẽ anh là người tạo cho mình một
nghề nghiệp vững chắc không phải là âm nhạc. Nói theo dân gian, anh là
người “có thực mới vực được nhạc”. Trước 1975, bên cạnh việc sáng tác,
anh theo học tại Đại Học Khoa Học Sài Gòn, làm kiểm soát không lưu (air
traffic controller) tại phi trường Tân Sơn Nhất. Năm 1978 sau khi ra
nước ngoài, bắt đầu lại từ đầu, anh tốt nghiệp kỹ sư khoa học điện toán
(BS Computer Science). Đây là một ngành tương đối khô khan khó học thời
bấy giờ. Ngay cả tôi, trẻ trung, tuổi đời chưa tới 20 nhưng phải vật
vã, thức nhiều đêm dài nặn logic viết mệnh lệnh cho máy điện toán xử lý
tư liệu. Thời tôi theo học ngành này, gần một nửa sinh viên Mỹ phải bỏ
cuộc giữa đường. Thế nhưng một người có tâm hồn viết những giòng nhạc
đài các lãng mạn ở tuổi trên 30 như anh, vừa ra nước ngoài với bao trở
ngại ngôn ngữ lại vượt qua được khó khăn này.
Nhạc của anh so với nghề nghiệp vô cùng khác biệt như đường với muối,
nước với lửa. Có lần gặp anh tại hội nghị, tôi hỏi đùa: - gỏ bàn phím
máy tinh cho ra program mới (software-nhu liệu) và gỏ dương cầm cho ra
nhạc phẩm mới, anh gỏ cái nào nhanh hơn?
Anh mỉm cười nửa đùa, nửa bí ẩn: - Cái này thì máy tính nó mới biết được, mà máy tính nó lại không nói cho người biết.
Tôi thật sự biết anh nhiều hơn, thân hơn vào khoảng năm
1989-1994. Dạo ấy anh thường tham dự khoá lễ hằng tuần tại ngôi chùa vừa
được thành lập gần nơi cư ngụ. Anh thích ngồi phía sau, lặng lẽ thiền,
tụng kinh niệm Phật theo sự hướng dẫn của qúy sư. Những lễ lớn như Phật
Đản, Vu Lan, anh ở lại quay quần dùng cơm chung với Phật tử. Dẫu biết là
nhạc sĩ tên tuổi nhưng mọi người luôn đối xử anh như một Phật tử bình
thường vì biết anh mong được như thế. Anh rất thân thiện, tự nhiên, có
bề ngoài vừa trí thức dễ mến vừa nghệ sĩ khiêm nhường từ tốn. Phong
cách anh có thể nói rằng không khác mấy với giòng nhạc Ngô Thụy Miên: cổ
kính, lãng mạn, uyên thâm, thi vị.
Thưở ấy tôi được sư trụ trì giao phụ trách sinh hoạt tuổi trẻ, trong
đó có phần văn nghệ trình diễn trong dịp lễ. Sư trụ trì thường tâm sự
trong các buổi tu học hằng tuần: - Thầy ước ao cải thiện buổi lễ Phật,
trẻ trung hoá Phật Giáo để lớp trẻ có thể tham dự dễ dàng hơn, hiểu đạo
hơn.
Vài tuần sau, một trưa chủ nhật mùa xuân năm 1991, anh cầm cuộn giấy
tròn gặp tôi tại chùa, giọng bắc, trầm, chậm:- Mấy hôm rồi anh có phổ
ba bài nhạc như lời thầy tâm sự. Em áp dụng được gì thì cứ tự nhiên.
Tôi nhận cuốn giấy nhỏ trên tay, từ tốn mở ra. Ba bài nhạc được ghi
nốt, lời nhạc bằng nét chữ viết tay của anh. Tôi ngạc nhiên:- Đây là bản
chính mà anh? Để em photo rồi trả lại. Em không dám giữ bản gốc đâu.
Anh cười hiền từ:- có sao đâu, em cứ giữ đi.
Ba bài nhạc đó, tôi photo ra nhiều bản, trả lại anh bản gốc. Vài
tháng sau, anh đưa bản in có nốt nhạc lời nhạc rõ ràng hơn, kèm theo
băng cassette:
- Anh có nhờ người thân hát tạm cho tụi em dễ hát theo.
Tôi cảm động, bối rối: - anh tốn công quá. Em sẽ ráng hết sức nhưng
sợ khả năng hạn hẹp của em không xứng với tấm lòng của anh.
Anh chân tình: - Có sao đâu, đừng ngại gì hết. Anh đóng góp chút ít. Tập được thì tập, không cũng chẳng sao.
Từ năm 1991 đến 1994, tôi gởi ba bản Phật ca đến nhiều chùa, có in
trên một số báo Phật Giáo hải ngoại. Bài Sám Hối Phát Nguyện và bài Cúng
Hương Tán Phật được chúng tôi hát trong các buổi lễ dành riêng cho giới
trẻ. Đây là hai bài kinh nhật tụng mà người đi chùa luôn tụng bằng
chuông mõ khi dự các khoá lễ. Âm điệu hai bài được phổ rất trang nghiêm
thánh thiện. Khi hát chúng tôi dễ dàng diễn đạt trọn vẹn lòng thành, cảm
nhận thân tâm như kết nối cùng chư Phật. Riêng bài Em Đi Lễ Chùa được
chúng tôi trình bày trong các chương trình văn nghệ Phật Đản, Vu Lan.
Dạo ấy một số Phật tử trẻ tại các thành phố lớn cũng hát những bài
này. Tuy nhiên trong môi trường hải ngoại, kẻ đi người đến, nhất là nhạc
Phật giáo hầu như không được ca sĩ tên tuổI làm dĩa, nên ba bài Phật ca
của anh dần dần đi vào quên lãng...
Những năm sau này tôi có ý định giới thiệu 3 bản Phật Ca đến người
trong nước, tuy nhiên mãi gần đây mới đủ duyên lành tiếp cận qúy tu sĩ
và Phật tử trẻ làm việc trong lãnh vưc văn hoá Phật Giáo. Tôi trình bày
anh ý định của mình và được anh nhắc đến kỷ niệm xưa trong đó có đoạn:
“Đây là những đóng góp nhỏ nhoi của anh vào vườn hoa Phật ca của
chúng ta, và dĩ nhiên quý vị Phật tử có thể tự do phổ biến. Anh phải cám
ơn những công đức này.”
Đêm nay ngồi chuyển MP3 từ băng cassette ngày nào và in 3 bài nhạc để
anh ký như một lưu niệm trước khi tôi gởi về bên nhà. Cuốn băng nằm im
đã quá lâu, nhão, dính chặt, máy không kéo được. Vừa niệm Phật vừa dùng
bút chì xoay băng cho lỏng, tôi nguyện cầu cuốn băng đừng đứt, đừng
hư. Cuối cùng lời nhạc từ máy cassette vang vọng giữa đêm khuya. Diệu kỳ
thay! qúy báu thay! âm thanh chuyển tải diễn đạt được cả dấu ấn thời
gian xa xưa. Tôi thấy mình hoà nhập cùng lời kinh trong tiếng dương cầm
anh đệm nhẹ nhàng thanh tao.
Sau 20 năm chìm vào quên lãng, ba bản Phật ca của người nhạc sĩ tài
hoa bắt đầu hành trình mới mà tôi tin rằng sẽ vươn mầm tươi tốt nơi đất
Việt mến yêu.