“Cuộc sống tổng không đổi, những điều mình được hay mất, có mà không
có. Nên mình không thể cứ ào ào lên, mà hưởng hết danh vọng, phú quý ở
đời, phải biết dừng lại, để phúc phận cho con cháu”.
1. Bà ngồi tụng kinh trước bàn thờ Phật. Trong ánh nến mờ ảo, trong bộ
quần áo nâu sồng, tôi vẫn nhận ra bà, một nhan sắc rực rỡ của làng điện
ảnh Việt xưa. Bà ngồi đó, những ngón tay lần tràng hạt, chậm rãi, an
nhiên... Ngày nào cũng vậy, Thanh Tú cũng tụng kinh sám hối, để nghiệp
của mình không quá nặng và để cho đời các con được nhẹ nhõm. Bà vẫn tự
nói với mình rằng, có lẽ kiếp trước bà đã phạm một lỗi nào đó. Và kiếp
này, bà phải trả nghiệp. Thế nên, bà Thanh Tú không ân hận về những
quyết định đã qua. Danh vọng ư? Nhan sắc ư? Vinh hoa ư? Tình yêu ư? Bà
đã từng có tất cả đấy thôi. Từng hạnh phúc và đau đớn. Nhưng cuộc đời,
cũng chỉ là phù du mà thôi. Có đấy, rồi lại không đấy.
Tôi nhớ có lần khi tôi xem một đoạn ngắn trong phim Ngọc Viễn Đông của
đạo diễn Cường Ngô, mà tiếc nuối một người nghệ sĩ ở tuổi xế chiều. Khi
những vinh quang qua đi, họ phải đối diện với tuổi già và những đấu
tranh vật vã trong tâm hồn họ. “Tình yêu của ta là nghệ thuật; kẻ thù
của ta là thời gian”. Bởi với người nghệ sĩ, họ khó chấp nhận được quy
luật nghiệt ngã của thời gian... Nhưng với Thanh Tú, bà đón nhận tuổi
già và sự cô đơn như một lẽ thường trong cuộc đời. Đến rồi đi. Không
phải đến bây giờ, khi bà đã chạm tuổi lục tuần mà ngay từ khi 32 tuổi,
thời của đỉnh cao nhan sắc và rực rỡ thành công, Thanh Tú đã quyết định
dừng lại.
Thời đó, bà xuất hiện như một ngọn lửa bùng cháy trên sân khấu và điện
ảnh nước nhà. Đó là những năm 70 của thế kỷ trước, thời của những vở
kịch kinh điển, Âm mưu và Tình yêu mà Thanh Tú vào vai quận chúa Minfo,
người xem phải đặt vé trước 4 tháng ở Nhà hát Lớn. Đến bây giờ, sau hơn
40 năm xa rời ánh đèn sân khấu, Thanh Tú vẫn nhớ như in từng lời thoại.
Bà diễn như lên đồng. Và tôi đã gặp cái say, cái điên như lên đồng của
bà trên sân khấu của 40 năm về trước khi bà diễn cho tôi xem đoạn độc
thoại dài hơn 4 trang giấy của quận chúa Minfo. Mắt bà rưng rưng...
Đó là thời của nàng Tanhia trong vở kịch cùng tên lừng lẫy với suất
diễn kỷ lục, 1.200 đêm. Thời của một cô Nhu trong bộ phim Sao Tháng
Tám đã đưa Thanh Tú lên đỉnh cao khi bà giành giải thưởng nữ diễn viên
chính xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 4 năm 1977...
Thế nhưng, chính trên đỉnh cao đó, Thanh Tú đã dừng lại. Chỉ Thanh Tú
hiểu vì sao bà biến mất trên sân khấu, vì sao bà im lặng. Tôi hỏi Thanh
Tú, bà có bao giờ ân hận vì quyết định của mình không. Bà chỉ cười: “Con
người ta ở đời, để từ bỏ được danh vọng thực khó khăn. Ngày đó, cô cảm
thấy cuộc đời mình như được trải thảm đỏ. Liên miên đi diễn. Được chào
đón, được tung hô. Nhưng khi đạt đến đỉnh cao, cô chợt ngộ ra rằng, danh
vọng cũng chỉ đến thế, diễn của cô chỉ đến thế. Cô không bao giờ có thể
vượt qua được cái bóng của chính mình. Thế nên cô không ào ào đi theo
hào quang nữa. Cuộc đời mình đã được hưởng quá nhiều rồi”.
Tôi nhớ, ở Nhà hát Kịch Hà Nội có treo một ảnh chân dung của Thanh Tú,
phía dưới ghi dòng chữ trân trọng: “Chị ngồi đây - bao dung, độ lượng -
không một lời nhắc tới thời vàng son”. Bạn bè trân quý, nuối tiếc. Và
trong thẳm sâu, tôi nghĩ bà phải tự đấu tranh với chính mình. Nhưng
Thanh Tú là người quyết liệt. Và mọi thứ phải đến tận cùng. Phải tuyệt
đối. Bà kiên quyết từ chối tất cả những lời mời. Có lẽ, ngay từ lúc đó,
bà đã hiểu, những hư vô của cuộc đời. Dường như cái không khí của nhà
chùa, tư tưởng của Phật giáo trong những câu chuyện của mẹ (từ nhỏ bà đã
theo mẹ lên chùa) thấm vào bà, thành một lối sống. Và cũng từ đó, Thanh
Tú trở nên lặng lẽ. Bà không xuất hiện trong các sự kiện ồn ào. Không
bon chen danh lợi. Nhiều Liên hoan phim mời bà tham dự, bà nhất mực từ
chối. Bà nói, mình đã thuộc về quá khứ rồi.
|
NSƯT Thanh Tú trong vai cô Nhu, phim "Sao Tháng Tám". |
Thanh Tú không có ý thức lưu giữ lại thời vàng son của mình. Trong căn
nhà nhỏ ở Triệu Việt Vương, có một gian tầng một của bà treo vài bức ảnh
ngày xưa. Và rất nhiều những chân dung của bà do các họa sĩ thời đó mê
và vẽ tặng như Lê Chúc, Diệp Minh Châu. Nhưng bà không giữ lại. Mình đâu
phải là vĩ nhân. Bà nói, thế hệ của bà đã gần đi qua. Và bà chỉ muốn
mọi người nhớ đến những vai diễn một thời. Mà nhớ hay quên cũng đâu có
quan trọng, bởi tất cả cũng trở về cát bụi mà thôi. Rồi cũng bị lãng
quên trong dòng thời gian vô thủy vô chung. “Cuộc sống, suy cho cùng
tổng không đổi. Trong cái được đã có cái mất. Mình được nhiều thì con
cái mình sau này sẽ mất nhiều. Danh vọng của mình đã cao rồi. Thế nên
biết dừng lại để phúc phận cho con cháu”...
2. Bà Thanh Tú nhớ, ngày mẹ còn bế bà trên tay, có một thầy tử vi nhìn
bà và nói rằng: “Trông con gái thế này mà toàn đi làm lẽ. Và sẽ đi theo
nghề xướng ca vô loại”. Nhà Thanh Tú nền nếp, trí thức Hà Nội. Mẹ sợ con
đa đoan, đã cho bà đi học nghề kiến trúc nối nghiệp gia đình. Thế rồi
nhan sắc. Thế rồi tài năng. Thế rồi căn nghiệp. Mọi thứ cứ đến và cuốn
bà đi. Bà nói, bà sinh ra để làm diễn viên. 17 năm rực rỡ, bản năng và
đầy khát vọng, Thanh Tú đã để lại một khoảng sáng trên bầu trời nghệ
thuật. Rồi bà yêu và lấy chồng. Và như một nỗi buồn định phận, cả hai
lần lấy chồng, bà đều làm vợ thứ, đạo diễn Phạm Kỳ Nam và đạo diễn L. C.
Việt. Cả hai cuộc hôn nhân, bà đều nếm trải đủ hạnh phúc và cũng đủ đau
đớn.
Yêu, bản năng yêu trong bà mãnh liệt, bước qua những định kiến, những
thị phi, cả sự ngăn cản của gia đình. Bà Thanh Tú chỉ đi theo sự mách
bảo của trái tim, một trái tim yêu mạnh mẽ, quyết liệt. Nhưng có lẽ, đó
cũng là nguyên nhân của sự đổ vỡ khi đối với bà mọi thứ phải tuyệt đối.
Yêu ai, Thanh Tú đặt cả cuộc đời mình lên đó, như đánh một canh bạc mà
phần thua lại thuộc về bà. Cuộc hôn nhân thứ hai tan vỡ. Bà bị phản bội.
Đau đớn. Tuyệt vọng. Thanh Tú thề sẽ không bao giờ yêu và lấy chồng.
Lúc đó bà mới 40 tuổi.
Nhưng điều gì đã mang lại cho Thanh Tú sự bình thản trước những tham,
sân, si của cuộc đời? Bà nói, có lẽ là may mắn lớn nhất trong cuộc đời
khi bà có mối duyên gặp gỡ sư thầy Thích Thanh Quyết ở chùa Phúc Khánh.
Bà đã được giác ngộ. Phật giáo đã cứu chuộc cuộc đời bà khỏi bể khổ.
Thanh Tú ngộ ra những lẽ đời, lý giải được cội rễ của những đau khổ mà
mình phải gánh chịu. Thế nên bà thấy nhẹ nhõm. 24 năm đi lễ chùa, tìm
đến cõi Phật, dường như bà đã đủ thấm hiểu và để tâm mình bình thản
trước thời cuộc. Nhưng bà không xa lánh trần tục. Vẫn những bộn bề lo
toan. Vẫn nỗi cô đơn lẻ bóng. Nhưng bà tìm được lối thoát trong cả những
khổ đau ấy. Bà kể, năm ngoái, có một biến cố lớn trong cuộc sống của bà
và con gái. Đạo diễn Nguyễn Hữu Phần, người bạn thân thiết của bà, đã
phải thốt lên: “Sao Thanh Tú không phát điên”. Nhưng Thanh Tú đã buông
bỏ để tìm lối thoát bằng từ bi hỷ xả.
20 năm vắng bóng, Thanh Tú trở lại màn ảnh. Bà nhớ nghề quá. Công việc
dạy và làm đạo diễn, đôi khi khiến bà mệt mỏi. Bà đã kỳ vọng nhưng rồi
lại thất vọng khi các lứa diễn viên mà bà đào tạo cứ mai một dần. Vì cơm
áo gạo tiền, vì những hư danh. Nó khác xa với thế hệ bà, một thế hệ làm
nghề, coi nghề diễn như một cuộc chơi sang trọng. Đam mê và tận hiến.
Thanh Tú đã trở lại, những vai bà già trong các bộ phim truyền hình Bà
nội không ăn bánh pizza và Lời thú tội của Eva đáo để, cá tính. Thanh Tú
diễn mà như không. Bà đi diễn để thấy mình không bị tụt hậu, không lạc
thời. Nhưng dường như, nó không khỏa lấp được khoảng trống trong tâm hồn
bà.
Những ngày Tết đang đến gần. Trong bà không còn có nhiều ý niệm về ngày
Tết. Gần 20 cái Tết chỉ có một mình, bà đã quen với nỗi cô đơn. Giờ, bà
thường lên chùa, làm công quả ở nơi cửa Phật. Đôi khi cuộc sống không
còn thuộc về mình nữa. Thỉnh thoảng buồn quá, bà lại đi lên chùa Vân ở
Tam Đảo, xa xôi và heo hút. Bà thích sự thanh tịnh của nơi thâm sơn cùng
cốc ấy. Và thiền. Nhưng tôi biết, trong thẳm sâu tâm hồn người phụ nữ
này vẫn chưa thoát khỏi những gánh nặng trần gian. Bà vẫn còn đó những
nỗi lo về các con. Đôi khi bà giật mình, nghiệp chướng chăng... Hay vì
đời bà đã nhận được quá nhiều.
Và ở đâu đó, trong sâu thẳm cuộc đời Thanh Tú vẫn còn một góc ẩn ức.
Buồn. Bà trút nó vào thơ. Hình như với thơ thì bà không thể giấu được
mình. Một Thanh Tú của nỗi cô đơn trong hành trình Đến và Đi của sự
sống. Một Thanh Tú của tiếc nuối, hoài niệm. Một Thanh Tú muốn buông bỏ
mà nỗi đời sao vẫn còn trĩu nặng...
Thu chưa qua, sao đã lạnh về/ Mình bỗng nhớ, phải rồi đông đến/ Nhớ Mẹ,
lưng tròn nóng hổi khẽ tiếng rên/ Con bất hiếu, duyên đời lạnh ngắt/
Thế là mẹ đi/ Nhớ con, tay nhỏ xíu ôm ti mẹ ấm/ Mẹ khóc, con cười, nước
mắt lạnh, nóng môi con/ Giá buốt lần hồi chờ cửa/ Con vui thế/ Lớn rồi
con nhé/ Nhớ anh như nỗi nhớ đông hè/ Lạnh lùng, cháy bỏng, cho em hết/
Nhớ đêm chăn lạnh đợi anh về/ Nỗi nhớ có bao giờ như thế...