Vị
giảng sư cần chuẩn bị cho mình một tư thế để luôn luôn thuyết phục được
thính chúng đi đúng con đường của Đức Phật đã dạy hầu đem lại an lạc và
hạnh phúc cho họ cũng như xây dựng một xã hội an lạc hài hòa.
Một vị giảng sư hoằng pháp phải biết kiên trì xây dựng niềm tin cho
thính chúng. Ai cũng biết rằng quần chúng thường tin tưởng một người
có danh tiếng, một người có thẩm quyền, một người đáng tin cậy, và một
người có thái độ gần gũi. Một người đáng tin cậy được xác định là người
trung thực, có giới đức, quảng đại, khoan dung, có từ tâm. Như vậy, ngay
từ khi xác định mình sẽ hành đạo trên phương vị một giảng sư hoằng
pháp, người tu sĩ phải bước đầu xây dựng niềm tin cho quần chúng bằng
cách giữ gìn giới đức; sống trung thực; tu tập về lòng khoan dung, sự
quảng đại, và từ tâm. Việc giữ gìn và tu tập như thế ít nhất cũng mang
lại uy tín của vị giảng sư hoằng pháp tương lai dưới mắt những vị đồng
tu, cũng khiến các đạo tràng biết đến; và mặc dù chưa phải là người có
tiếng tăm về phương diện thuyết giảng, nhưng khi đến thuyết giảng ở một
hội chúng nào đó, cũng sẽ được giới thiệu như một người đáng tin cậy; và
như thế, vị giảng sư mới bắt đầu sự nghiệp hoằng pháp của mình cũng đã
được thính chúng tiếp nhận với sự tin cậy. Lịch sử Phật giáo Việt Nam
cận đại ghi nhận trường hợp các vị cao tăng như ngài Thích Đôn Hậu, ngài
Thích Thiện Siêu…bắt đầu sự nghiệp hoằng pháp từ lúc còn trẻ tuổi;
nhưng nhờ các ngài giữ gìn phẩm hạnh cao thượng của một tu sĩ, nên ngay
từ đầu, các ngài đã được giới thiệu với sự trang trọng của các vị thầy
và nhờ đó, thính chúng Phật tử của các ngài đã gởi gắm niềm tin ở các
ngài. Trường hợp của Pháp sư Minh Đăng Quang lại khác. Tuy ngài không
được sự giới thiệu của thầy tổ nhưng chính hình ảnh nghiêm trang của
ngài đã làm các Phật tử động tâm và họ đã thỉnh ngài đến giảng pháp.
Người giảng sư hoằng pháp cũng phải thể hiện thái độ gần gũi với
thính chúng. Sự gần gũi ở đây là nói về phương diện thông cảm với
thính chúng. Vị giảng sư cần hiểu biết về hội chúng của mình, nắm được
tâm tư nguyện vọng của số đông trong chúng, từ đó có những lời lẽ
thể hiện sự quan tâm đến đời sống của hội chúng, nhờ vậy mà tạo được sự
gần gũi về phương diện tâm lý. Trường hợp một vị giảng sư đã có tiếng
tăm về phương diện học thuật chẳng hạn, thì khi giảng pháp, chắc chắn sẽ
được thính chúng tin tưởng về mặt thẩm quyền học thuật. Nói chung, việc
xây dựng niềm tin cho thính chúng cần được thực hành thật lâu trước khi
người giảng sư thực sự bắt tay vào sự nghiệp hoằng pháp của chính mình.
Trước khi nhận lời thuyết giảng ở một hội chúng nào, vị giảng sư
nên tìm hiểu cặn kẽ về thính chúng của mình để có những cách ứng xử
thích hợp.
Trong quá trình giảng pháp, người giảng sư hoằng pháp cũng phải tiếp
tục củng cố niềm tin của thính chúng. Vị giảng sư nên thực hiện những
điều sau:
a. Đến trước giờ giảng một chút hoặc ít nhất là có mặt đúng giờ
giảng. Nên có mặt trước một chút để có thể có những trao đổi bên ngoài
với một số thành viên tích cực của thính chúng. Chính những thành viên
tích cực này sẽ làm cho toàn thể hội chúng có thêm tin tưởng nơi vị
giảng sư.
b. Nếu được một người đã quen biết giới thiệu mình với thính chúng
thì tốt. Nếu không, nên khéo léo giới thiệu một chút về bản thân sao cho
những lời giới thiệu đó phù hợp với những điều mà giảng sư đã tìm hiểu
được về thính chúng. Tuyệt đối không khoe khoang về kiến thức, dòng
tộc, gia thế, chức vụ, tài năng.
c. Khi nói chuyện, nên sử dụng ngôn từ phù hợp với thính chúng. Với
một thính chúng bình dân thì phải nói lời đơn giản dễ hiểu. Ngay cả với
thính chúng trí thức, cũng nên dùng từ ngữ dễ hiểu nhưng chính xác theo
kinh điển. d. Không nên kể những câu chuyện quá riêng tư, không nên sử
dụng ngôn ngữ dung tục. Việc thể hiện sự thân mật bằng những câu chuyện
hài hước phải giới hạn trong phạm vi thật ngắn và thật chừng mực. Tránh
những thí dụ dài dòng.
e. Nên thể hiện sự quan tâm đến thính chúng bằng những kinh nghiệm
liên quan đến kinh nghiệm của thính chúng. Trong quá trình nói chuyện,
cố gắng tiếp xúc bằng mắt với thính chúng. Cố gắng nhận biết càng nhiều
cá nhân càng tốt ngay trong buổi gặp gỡ đầu tiên.
f. Những câu chuyện kể trong buổi nói chuyện phải thật sự có liên quan đến nội dung trình bày. Tránh lạc đề.
g. Khi cần trích dẫn, cần trích dẫn đúng và nêu được sự liên hệ với
nội dung bài giảng, cố gắng nêu xuất xứ những điều trích dẫn.
h. Không nên nói quá dài. Các nghiên cứu cho thấy mọi thính chúng
đều chỉ có thể chú tâm trong vòng mười lăm tới hai mươi phút; sau đó,
họ sẽ bị phân tâm.
Vì thế, vị giảng sư chỉ nên nói ngắn và cố gắng tạo điều kiện cho
thính chúng tham gia tích cực vào nội dung buổi thuyết giảng của mình
Sau buổi giảng pháp, vị giảng sư nên tìm cách kích thích cho thính
chúng đặt câu hỏi để mình trả lời. Chính những giây phút hỏi đáp
này củng cố niềm tin của thính chúng nơi các vị giảng sư.
Mỗi thính chúng luôn có những đặc điểm riêng về mặt tình cảm. Có
những thính chúng thân thiện nhưng cũng có những thính chúng xa cách. Có
những nhóm người đễ bị kích động dẫn tới giận dữ trong khi có những
nhóm luôn giữ được bình tĩnh. Có những hội chúng rụt rè và cũng có
những hội chúng tự tin. Có người thực tình muốn tu tập nhưng cũng có
những người chỉ thích nghe nhiều để lòe người khác. Tóm lại, không một
thính chúng nào giống hệt thính chúng nào. Không những thế, vào những
thời điểm khác nhau, một thính chúng còn có những tình cảm khác nhau.
Chẳng hạn, khi một nhóm người vừa đi dự một lễ tang của một người trong
nhóm về thì họ sẽ có tình cảm trầm lắng khác với những người vừa tham dự
một cuộc du ngoạn. Do đó, vị giảng sư hoằng pháp phải nhận biết được
tình cảm chủ đạo của nhóm người nghe pháp ngày hôm đó như thế nào. Khi
đã tạo được sự cảm thông với thính chúng bằng cách khéo léo khơi gợi
những tình cảm tích cực của các thành viên trong hội chúng, vị giảng sư
sẽ dễ dàng làm cho thính chúng chấp nhận những lập luận của mình, chia
sẻ những quan điểm của mình, và hành động theo sự kêu gọi của mình.
Một điều cần lưu ý là có những tình cảm tích cực và có những tình cảm
tiêu cực. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra, khi tình cảm tích cực được khơi
gợi thì một đám đông dễ dàng chấp nhận những lập luận thuận chiều,
nhưng nếu đám đông có tình cảm tiêu cực thì họ dễ chấp nhận những lập
luận trái chiều. Khi muốn hội chúng chấp nhận những lập luận thuận
chiều thì vị giảng sư nên tạo cho hội chúng một không khí vui tươi, đầm
ấm, thanh thản, nhẹ nhàng và khơi gợi ở họ những tình cảm tích cực. Ví
dụ, trước một hội chúng đang bừng bừng giận dữ vì có sự báng bổ Phật
giáo mà vị giảng sư thấy cần giúp hội chúng nhận ra phải bình tĩnh giải
quyết chứ không nên nóng nảy châm ngòi nổ, vị giảng sư nên có những mẩu
chuyện vui nhẹ nhàng để khơi gợi ở họ những tình cảm khoan dung. Ngược
lại, trước một hội chúng cảm thấy phấn khởi trước những thành tựu
mang tính vật chất mà vị giảng sư muốn hội chúng nhận rõ đâu là mục đích
của việc hoằng pháp thì vị giảng sư cũng không nên chỉ trích sự xa xỉ
khiến họ có những tình cảm tiêu cực mà nên gợi ra những hình ảnh thương
tâm ở những nơi còn quá thiếu thốn để họ có được sự thương cảm và mong
muốn chia sẻ.
Tóm lại, nếu vị giảng sư khéo khơi gợi tình cảm tích cực nơi thính
chúng, những điều được thuyết giảng sẽ dễ được thính chúng chấp nhận.
Ngược lại, nếu vị giảng sư không khéo léo mà tạo cho thính chúng có
tình cảm tiêu cực, thì phản ứng của thính chúng sẽ hoàn toàn đi ngược
với mong muốn của vị giảng sư.
Để khơi gợi tình cảm tích cực nơi thính chúng của mình, vị giảng sư
hoằng pháp cần chú ý đến cách sử dụng ngôn từ thích hợp với những tình
cảm mà mình muốn khơi gợi. Trong buổi thuyết giảng của mình, vị giảng sư
nên chọn những câu chuyện thí dụ minh họa một cách thận trọng, phù hợp
với chủ đề thuyết giảng nhưng có nội dung tươi vui, có tính cách gợi ý
hoặc gợi sự tò mò của người nghe. Cố gắng chọn những chữ những câu mang
nhiều màu sắc tình cảm thay vì trình bày một cách khô khan. Tuyệt đối
tránh việc sử dụng thủ thuật để gợi những tình cảm bi thương nơi thính
chúng mà phải thành thật. Lưu ý rằng giọng nói phải phù hợp với tình cảm
muốn thể hiện. Có những lúc, vị giảng sư phải sử dụng điệu bộ để làm
tăng hiệu quả của lời nói, nhưng cần kềm chế không được quá đà vượt khỏi
tứ uy nghi của người tu sĩ. Trong quá trình thuyết giảng, vị giảng sư
có thể rời khỏi bục giảng, đến gần thính chúng để tạo một sự thân mật,
nhưng lưu ý không đến quá gần. Vị giảng sư nên thường xuyên tiếp xúc
bằng mắt với mọi thính chúng trong giảng đường nhưng không tiếp xúc
quá lâu với một người. Tốt nhất, vị giảng viên nên tiếp xúc bằng mắt với
từng nhóm thính chúng trong một lúc rồi rời mắt đến nhóm khác, sao cho
bao quát được toàn bộ thính chúng. Việc mời một số cá nhân phát biểu cảm
nghĩ hoặc tham gia câu chuyện của vị giảng sư là điều cần thiết, nhưng
chú ý không chú tâm vào một cá nhân nhất định nào.
Mọi người thường cho rằng luận lý là vấn đề khô khan và chán ngấy.
Các vị giảng sư có khuynh hướng đến với hội chúng bằng những câu
chuyện hấp dẫn, vui nhộn, mang lại cho hội chúng những tràng cười
sảng khoái sẽ cho rằng việc trình bày vấn đề hợp luận lý là điều dư
thừa. Thật ra, tất cả mọi người nghe đều sử dụng khả năng diễn dịch và
quy nạp của họ để theo dõi một buổi giảng pháp; dù rằng họ sử dụng những
khả năng đó một cách vô thức. Vì thế, các vị giảng sư hoằng pháp luôn
cần trau dồi khả năng trình bày vấn đề hợp luận lý của mình. Có hai
phương pháp luận lý căn bản là quy nạp và diễn dịch. Với phương pháp
diễn dịch, nếu tiên đề đúng thì kết luận luôn luôn đúng. Nhưng với
phương pháp quy nạp, dù tiên đề đúng thì kết luận không phải bao giờ
cũng đúng, nhưng mang lại gợi ý để phát triển xa hơn.
Để cải thiện tính cách hợp lý của điều được thuyết giảng, vị giảng sư cần lưu ý những điểm sau:
a. Làm cho vấn đề mình trình bày được thính chúng hiểu rõ. Muốn thế, vị giảng sư cần phải:
- Sử dụng ngôn ngữ trong sáng, tránh những lối nói có tính hàn
lâm, tránh những từ ngữ xa lạ với quần chúng. Trong trường hợp phải sử
dụng ngôn ngữ trong kinh điển, giảng sư cần định nghĩa cụ thể từng từ
trước khi áp dụng.
- Vấn đề trình bày phải hiển nhiên. Cố tránh những lối nói quá hình
tượng hoặc sử dụng điển tích. Thính chúng không có thời giờ giải mã
điều vị giảng sư nói; do đó, nếu giảng sư sử dụng ẩn dụ mới lạ sẽ
khiến người nghe ngỡ ngàng.
- Trình bày vấn đề theo thứ tự. Đây là điều mà Đức Phật luôn nhắc
nhở, rằng phải giảng pháp theo thứ lớp. Tiến trình của một bài giảng
phải hợp lý, những gì là nền tảng phải được trình bày trước, những gì là
dữ kiện dẫn xuất phải trình bày sau.
- Sử dụng nhiều thí dụ. Việc giải thích vấn đề một cách dài dòng
thường không hiệu quả bằng việc nêu thí dụ. Thí dụ có thể lấy trong
cuộc sống thường nhật.
- Áp dụng các biện pháp so sánh và ẩn dụ. Mặc dù ẩn dụ mới lạ sẽ
khiến người nghe ngỡ ngàng, nhưng nếu vị giảng sư có được những ẩn dụ
đặc biệt mà người nghe có thể hiểu ngay sau một thoáng suy nghĩ thì lại
có tác dụng rất lớn.
b. Làm cho vấn đề mình trình bày có tính cách hợp lý. Bằng cách:
- Dựa trên nhận thức thông thường của đại chúng. Vị giảng sư nên
bắt đầu nói với đại chúng bằng những kiến thức thông thường của đại
chúng, là những điều mọi người vẫn tin. Từ những kiến thức thông
thường đó, vị giảng sư bắt đầu xây dựng lập luận của mình. Bằng cách
khéo léo đặt những câu hỏi về nhận thức thông thường, vị giảng sư có
thể từng bước xóa bỏ những thiên kiến sai trái của đại chúng.
- Thăm dò quan điểm đại chúng bằng cách đặt câu hỏi. Trước khi đưa
lập luận của mình vào, vị giảng sư nên khéo léo thăm dò quan điểm của
đại chúng bằng cách nêu ra những câu hỏi thích hợp. Việc nắm vững quan
điểm của đại chúng giúp vị giảng sư điều chỉnh cách lập luận của mình.
- Đề cập đến những luận điểm trái chiều trước rồi lần lượt bác bỏ
chúng. Vị giảng sư có thể trình bày những luận điểm trái chiều với luận
điểm của mình một cách khéo léo, sau đó, dùng lập luận của mình để bác
bỏ và để đại chúng tự nêu ra luận điểm mà mình muốn đạt đến.
- Nhấn mạnh đến những vấn đề có giá trị lớn đối với đại chúng. Lưu ý
rằng mọi lý luận quy nạp đều dẫn đến những kết luận không chắc chắn, trừ
khi người thuyết giảng sử dụng những tiên đề hoàn hảo (Như trường
hợp Đức Phật quy nạp rằng Ngài là Phật đã thành mà mọi chúng sinh đều là
Phật sẽ thành), do đó, vị giảng sư nên tập trung vào những vấn đề có
giá trị nhiều nhất đối với thính chúng, thay vì nói lan man vào những
vấn đề không đúng trọng tâm.
c. Làm cho vấn đề mình trình bày là thật. Với những biện pháp sau:
- Sử dụng nhiều sự thật để chứng minh cho luận điểm của mình.
Chọn những sự thật được nhiều người biết đến trong cuộc sống hàng
ngày, trong lịch sử… Đưa ra những chi tiết sinh động liên quan đến
luận điểm của mình.
- Sử dụng các dữ kiện và con số thống kê. Trong một số trường hợp, vị
giảng sư có thể chuẩn bị sẵn những dữ kiện thật và những con số thống
kê
- Dẫn chứng từ các nguồn tham khảo. Vị giảng sư cần có hiểu biết
rộng về các nguồn tham khảo và đưa vào bài giảng một cách hợp lý. Lưu ý,
nguồn tham khảo nên là những nguồn mà thính chúng dễ tiếp cận.
Ngoài ra, một vị giảng sư còn cần phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước
từng buổi giảng. Vị giảng sư cần phải tìm hiểu về thành phần của thính
chúng, phải biết tổ chức về mặt thời gian, phải xây dựng bài giảng trên
cơ sở có sự liền lạc của chủ đề, nếu là bài giảng trong một khóa giảng
thì mỗi chủ đề phải có sự liền lạc với chủ đề trước đó và chủ đề tiếp
theo, phải thể hiện các bài giảng khác nhau theo những hình thức thuyết
giảng đa dạng để tránh sự nhàm chán nơi thính chúng…Hình thức thuyết
giảng cần thích hợp với nội dung bài giảng.
Bài giảng mang tính cách miêu tả là hình thức bài giảng truyền thống,
trong đó chủ đề chính được chia thành những chủ điểm rồi mỗi chủ điểm
lại được triển khai thành những chi tiết. Với loại bài giảng này, vị
giảng sư có thể trình bày những khái niệm rộng lớn. chẳng hạn, khi
giảng về Tứ diệu đế, giảng sư đưa ra bốn sự thật cao quý, sau đó nói đến
từng sự thật một, rồi ở mỗi sự thật lại triển khai những ý chi tiết…
Tuy nhiên, trong hình thức bài giảng loại này, thính chúng dễ bị đưa đến
địa vị hoàn toàn thụ động.
Bài giảng mang tính cách tương tác là bài giảng đòi hỏi người nghe
phải động não và tham gia tích cực vào buổi thuyết giảng. Thí dụ, cũng
nói về Tứ diệu đế, nhưng vị giảng sư lại yêu cầu thính chúng mô tả
đời sống con người, từng bước rút ra kết luận tạm rằng đời sống con
người là vô thường, là thường xuyên biến đổi, là không lúc nào toại
ý…để dẫn đến kết luận cụ thể hơn về khổ đế; từ đó đưa đến các khái niệm
tập đế, diệt đế và đạo đế. Trong hình thức bài giảng này, thật ra vị
giảng sư phải chuẩn bị nhiều hơn để có thể khuyến dụ thính chúng đóng
góp ý kiến của họ trong quá trình tiến hành bài giảng.
Bài giảng mang tính cách giải quyết vấn đề là hình thức nêu ra một
trường hợp cụ thể cần giải quyết để các học viên đóng góp ý kiến giải
quyết. Chẳng hạn, khi nói về bố thí ba-la-mật, vị giảng sư có thể nêu ra
những trường hợp làm từ thiện để đánh bóng tên tuổi người làm từ
thiện, sau đó, gợi ý để thính chúng đi đến kết luận là phải bố thí theo
bố thí ba-la-mật, sao cho tay phải cho mà tay trái không biết, sao cho
không thấy có người cho, có người nhận mà chỉ thấy có sự kiện chia sẻ
đem lại sự an ủi cho cuộc sống. Hình thức bài giảng này cũng đòi hỏi sự
chuẩn bị kỹ lưỡng của vị giảng sư.
Bài giảng không đi đến kết luận là hình thức bài giảng mà vị giảng sư
không đưa ra kết luận áp đặt của mình. Ví dụ, khi bình luận về việc
khắc họa kinh Pháp Hoa trên đá hoa cương để được ghi nhận kỷ lục Phật
giáo, vị giảng sư chỉ trình bày sự kiện rồi khéo léo gợi ý để thính
chúng đưa ra những quan điểm của riêng mình. Sau đó, vị giảng sư không
đưa ra một kết luận chính thức nào mà cứ treo đó, để thính chúng tự rút
ra cho mình những nhận định riêng sau khi nghe nhiều lập luận trái chiều
nhau.
Ở các hình thức bài giảng sau, thính chúng luôn luôn được chuẩn
bị để có thể tham gia tích cực vào quá trình diễn tiến của bài giảng;
nhưng trước đó, luôn luôn có những phần diễn giảng hoặc sơ lược, hoặc
chi tiết của vị giảng sư. Chính vì thế mà các nhà nghiên cứu khẳng định
rằng hoạt động thuyết giảng vẫn là công việc chính của ngành sư phạm
hoằng pháp.
Một vấn đề quan trọng cần lưu ý các vị giảng sư, là ngay trong trường
hợp thực hiện bài giảng theo hình thức mô tả, các vị giảng sư cũng nên
định ý rằng khả năng chú tâm của thính chúng chỉ kéo dài trong khoảng từ
mười lăm tới hai mươi phút. Vì thế, mọi đoạn thuyết giảng kéo dài quá
hai mươi phút đều rơi vào khoảng không chú tâm của thính chúng. Tất
nhiên, sự chú tâm của thính chúng không đều, khi người này đã chuẩn bị
lơ là thì có thể là lúc người khác bắt đầu chú ý; vì thế, vị giảng sư cứ
tưởng rằng thính chúng đang quan tâm tới điều mình nói, nhưng không
phải vậy, mà luôn luôn chỉ có một vài người trong thính chúng nghe một
bài giảng dài quá hai mươi phút. Cho nên, vị giảng sư cần chú ý để phân
đoạn bài giảng thành những chủ điểm chỉ phải trình bày thật ngắn gọn.
Thêm nữa, sau mỗi phân đoạn của bài giảng, tốt nhất vị giảng sư
nên tạo điều kiện cho thính chúng đặt câu hỏi để mình trả lời, mở rộng
ý nghĩa của vấn đề. Khi trả lời, nếu người hỏi không đi vào trọng tâm
của chủ đề thì vị giảng sư có thể không trả lời. Trong trường hợp người
phát biểu không đặt câu hỏi mà lại diễn giảng ý riêng của mình, vị giảng
sư có thể lắng nghe một đoạn, rồi chờ khi người đó lấy hơi nói tiếp
thì ngắt lời bằng cách chuyển sự chú ý vào chủ đề bài giảng, tránh việc
phê bình người phát biểu.
Một vị giảng sư hoằng pháp phải là người có tín tâm kiên cố và đã có
sự thực hành Phật pháp ở mức độ khả chấp để thực sự tự tin vào điều mình
thuyết giảng. Nhưng bên cạnh đó, việc rèn luyện kỹ năng và phương
pháp thuyết giảng vẫn là điều cần thiết để mang lại thành công cho việc
thuyết giảng. Trên hết, vị giảng sư cần luôn luôn nhớ rằng một trong
những yếu tố mang lại thành công cho việc hoằng pháp là giành được sự
tin tưởng của thính chúng. Khi có sự tin tưởng của thính chúng vào vị
giảng sư thì buổi thuyết giảng đã thành công được một nửa. Tuy nhiên,
phần còn lại vẫn phụ thuộc vào tài năng của vị giảng sư. Vì thế, nếu đã
chọn sự nghiệp hoằng pháp làm Phật sự của đời mình, một mặt, vị giảng sư
cần chú tâm tu tập và giữ gìn giới đức ngay từ những bước khởi đầu; mặt
khác, vị giảng sư cũng phải rèn luyện về phương pháp và kỹ năng, như
thế mới có thể trở thành một vị giảng sư hoằng pháp có hiệu quả, thực
sự đóng góp vào việc hoằng dương Chánh pháp của Đức Bổn sư. ■
Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 152 | THÍCH GIÁC TOÀN