
 
mà anh còn là hiện 
tượng của sự dấn thân vào những công việc khó làm –hiến tài sản làm từ 
thiện– ở độ tuổi và sự nghiệp đang phất. Phật giáo xem sự dấn thân như 
thế là bồ-tát hạnh, là công hạnh vì lý tưởng lợi tha của người Phật tử 
Đại thừa. Nhìn một Phật giáo phi hình thức, người Phật tử có thể thấy 
được vai trò đích thực của tư tưởng Phật giáo không nằm ở tôn giáo, mà 
nằm ở hành động. Tôi xin thông qua nhân vật Zuckerberg để làm sáng tỏ tư
tưởng này của Phật giáo.
Việc
xem tỷ phú Zuckerberg “phát bồ-đề tâm, hành bồ-tát hạnh” nghe ra có vẻ 
khó chấp nhận đối với người Phật tử, bởi những khái niệm này vừa là 
thuật ngữ vừa là lý tưởng của Phật giáo Đại thừa lại được gán cho một 
chàng trai người Mỹ gốc Do Thái. Nhưng kỳ thật, ‘bồ-đề tâm’ cũng như 
‘bồ-tát hạnh’ không mang một ý nghĩa tín ngưỡng tôn giáo gì cả. Nó biểu 
đạt một lối sống của người đi tìm kiếm hạnh phúc thông qua sự nghiệp tạo
dựng hạnh phúc cho người khác.
Bồ-đề tâm phát xuất từ chữ ‘bodhicitta’, là một thuật ngữ của Phật giáo Đại thừa. ‘Bồ-đề’ là phiên âm của chữ ‘bodhi’
(tiếng Pali/Sanskrit), nghĩa là ‘giác’, ‘giác ngộ’, ‘tuệ giác’, tức là 
hiểu biết các pháp một cách rốt ráo, không có chấp thủ. Bodhi là
quả vị giác ngộ tối thượng mà đức Phật đã chứng đắc dưới gốc cây 
Assattha mà sau đó cây này được gọi là cây Bodhi (Bồ-đề). Bồ-đề tâm (bodhicitta)
do đó có thể được hiểu là tâm giác ngộ. Đối với chư Phật, nó là thực 
tại; còn đối với chúng sanh, nó cần phải được phát huy, cho nên được gọi
là ‘phát tâm bồ-đề’. Người phát tâm bồ-đề cần hiểu rõ rằng bồ-đề sẵn có
trong mỗi chúng sanh và sẽ hiện rõ khi màn vô minh được vén lên. Điều 
này muốn nói đến tánh giác trong mỗi chúng sanh. Trong văn học Phật giáo
Nguyên thủy (Pali), từ tương đương của bồ-đề tâm có lẽ là ‘pabhassara citta’, nghĩa là ‘tâm sáng chói’. Kinh Tăng Chi chép: “Tâm này, này các Tỷ-kheo, là sáng chói, nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào” (A.i, 9).
Như vậy, phát tâm bồ-đề có thể được hiểu là hướng tâm đến sự thanh tịnh
sáng chói vốn có (của tâm), và cũng tức là hướng tâm đến sự giác ngộ 
bồ-đề (bodhi).
Với
ý nghĩa Bồ-đề như vậy thì tỷ phú Zuckerberg phát bồ-đề tâm như thế nào?
Trước hết chúng ta cần xác định rằng Phật giáo chỉ quan tâm đến con 
người và tâm người, mà không có một sự phân biệt nào liên quan đến giai 
cấp, sắc tộc, tôn giáo, v.v. Và hành động hay nghiệp (karma)
được xem là chủ trương của Phật giáo với mục đích là làm thanh tịnh ba 
nghiệp thân, khẩu, ý (việc làm, lời nói, ý nghĩ). Đây là con đường đưa 
đến sự đoạn tận tham, sân, si, thành tựu quả vị bồ-đề. Nói cách khác, 
quả vị bồ-đề có thể chứng đắc nếu hành trì đúng pháp (tức là làm thanh 
tịnh ba nghiệp, đoạn tận tham, sân, si), mà không tùy thuộc vào một quan
điểm hay danh xưng nào. Trung Bộ Kinh,
số 126, nói rằng “dù có nguyện vọng hay không, việc hành trì Phạm hạnh 
một cách chánh đáng thời đạt được quả vị.” Với chủ trương hành động như 
thế, tỷ phú Zuckerberg cũng có thể không ngoại lệ, và có lẽ đang đi trên
đạo lộ ấy.
Như
đã nói, chướng ngại của bồ-đề chính là vô minh và các cấu uế từ bên 
ngoài vào, được hiển thị qua thân, khẩu, ý. Và Zuckerberg dường như đang
thăng hoa cuộc sống khi từng bước vén màn vô minh và buông bỏ các cấu 
uế ngoại lai ngang qua những việc làm của mình. Quả thực, mức độ hạnh 
phúc hay khổ đau của con người tùy thuộc ít hay nhiều vô minh và cấu uế 
ngoại lai ấy.[1] Càng
ít vô minh (tức trí tuệ càng nhiều) chừng nào thì người ta càng dễ dàng
buông bỏ những cấu uế ngoại lai chừng ấy, và ngược lại.
Có
thể Zuckerberg không hề biết hay nghĩ đến danh xưng ‘bồ-đề’ hay ‘chánh 
giác’ gì cả, nhưng những thăng hoa hạnh phúc trên đạo lộ buông bỏ của 
anh (mà người Phật tử gọi là đạo lộ đưa đến bồ-đề) thì không thể phủ 
nhận. Việc Zuckerberg dấn thân làm từ thiện là một biểu hiện của sự 
buông bỏ như thế, và đặc biệt là tìm thấy hạnh phúc thông qua việc xây 
dựng hạnh phúc cho người khác. Như vậy là anh đã phát bồ-đề tâm và hành bồ-tát hạnh (nói
theo ngôn ngữ Phật học) trong ý nghĩa đích thực của nó mà không cần một
danh xưng nào hết. Tuy nhiên, con đường đạt đến đích bồ-đề theo Phật 
giáo Đại thừa là một hành trình dài và đòi hỏi một tâm vị tha và kiên 
định, những yếu tố mà hiện tại ít nhiều anh đang có.
Khái niệm “Bồ-tát hạnh” có nguồn gốc từ văn học Phật giáo Nguyên thủy, được minh họa rõ nét nhất qua tập Bổn Sanh (Jātaka –Chuyện Tiền Thân Đức Phật).
“Bồ-tát” trong thời kỳ văn học này là danh xưng được sử dụng chỉ cho 
đức Phật trong nhiều kiếp trước, “khi Ngài chưa thành Phật, còn là 
Bồ-tát”. Qua đó, Bồ-tát được thấy đã sống trong nhiều kiếp dưới nhiều 
hình thức khác nhau, không chỉ làm người mà còn làm chim, làm thú… Điều 
đáng quan tâm là, dù ở trong sanh loại nào, Ngài đều thể hiện một tính 
cách thông minh, năng động và sáng tạo trong cách ứng xử để bảo vệ chân 
lý và lợi ích cho số đông. Có nhiều mẩu chuyện cho thấy Ngài đã hy sinh 
thân mạng của mình vì sự bình an và hạnh phúc của đồng loại. Tất cả 
những việc làm này của Ngài được gọi là “bồ-tát hạnh” có đủ trí tuệ và 
từ bi, và là tấm gương đạo đức gần gũi với con người. Khái niệm “bồ-đề 
tâm” chưa xuất hiện trong thời kỳ văn học này.
Trong
Phật giáo của thời kỳ sau, bồ-tát hạnh được ứng dụng một cách linh hoạt
như là tư tưởng quan trọng của Đại thừa. Người Phật tử Đại thừa hành 
bồ-tát hạnh dường như muốn noi theo những việc làm mà chính đức Phật đã 
làm khi Ngài còn là Bồ-tát, chứ không phải noi theo những giáo pháp được
Ngài thuyết giảng sau khi Ngài thành Phật. Họ nhận thức rằng đức Phật 
đã từng luân chuyển trong thế giới luân hồi như bao nhiêu chúng sanh 
khác, nhưng nhờ những công hạnh như thế Ngài mới chứng được quả vị 
Bồ-đề. Trên cơ sở đó, ai cũng có khả năng thành tựu bồ-đề nếu họ thực 
hành bồ-tát hạnh như Ngài.[2] Người Phật tử Đại thừa hành bồ-tát hạnh luôn luôn tâm niệm như vậy.
Tuy
bồ-đề là lý tưởng, là đích đến của bồ-tát hạnh, nhưng trên thực tế, chỉ
có hành động mới thật sự được quan tâm và là nội dung hai đặc tính của 
bồ-tát hạnh, đó là từ bi và trí tuệ. Những đặc tính này chắc chắn không phải không có trong Zuckerberg.
Với
quan điểm hành động như thế, việc Zuckerberg hành bồ-tát hạnh là điều 
có thể nhận thức được. Nếu bồ-tát hạnh được thực thi chỉ vì mục đích 
thiết thực là cứu khổ, ban vui mà không vì một học thuyết hay giáo lý 
nào từ kinh điển, thì bồ-tát hạnh là những hình thái từ thiện chân chính được
thấy trong thế giới chúng ta, và nó không bị hạn cuộc trong một học 
thuyết tôn giáo nào. Mặc dù lòng trắc ẩn và tình người là động cơ ban 
đầu cho hành động của họ, nó có thể dần dần trở thành một lý tưởng nếu 
được un đúc và tích tập lâu dài. Quả thật, có người đã quên mình hay hy 
sinh mình để giúp người khác. Lý tưởng như thế có thể chăng đang ở trong
một mức độ nào đó của bồ-đề tâm mà một Phật tử hành bồ-tát hạnh đang 
thực hành? Chúng ta cần đặt qua một bên các quan điểm tín ngưỡng để nhận
ra những giá trị đích thực của việc giúp đời cứu người mà Zuckerberg và
nhiều người khác đã dấn thân.
Sống
trên đời, dù trong hình thức nào, ai cũng mong cầu và tìm kiếm hạnh 
phúc. Nhưng vì quan niệm về hạnh phúc không giống nhau nên con người có 
những khuynh hướng tìm cầu hạnh phúc khác nhau: hoặc vật chất, hoặc tinh
thần, hoặc cả hai. Tuy nhiên, do hạnh phúc là một trạng thái thuộc tâm 
hay tâm lý, nên khó có một định nghĩa hạnh phúc thỏa đáng. Phật giáo 
không trực tiếp định nghĩa hạnh phúc, mà chỉ xác định rằng khi nào không
có khổ thì khi đó có hạnh phúc. Đó là lý do Phật giáo nhằm chỉ ra sự 
thật khổ mà con người đối diện, rồi chỉ ra nguyên nhân của nó để đoạn 
trừ. Nguyên nhân của khổ được nói chính là “tham ái”, đưa đến chấp thủ: 
cái này ‘là của tôi’, ‘là tôi’, ‘là tự ngã của tôi’. Để đoạn trừ tham ái
và chấp thủ ấy, phương pháp thường được Phật giáo Đại thừa nhiệt tình 
khích lệ là hãy sống buông bỏ vì hạnh phúc của người khác, hãy hy sinh 
lợi ích của riêng mình cho đến chỗ vô ngã (chỉ còn hành động hy sinh mà 
không thấy có mình trong đó). Phật giáo Nguyên thủy cũng cho rằng làm 
lợi ích cho mình là làm lợi ích cho người khác, và ngược lại. Kinh Tương Ưng (S.v,168)
dạy: “Trong khi hộ trì cho mình, này các Tỷ-kheo, là hộ trì người khác.
Trong khi hộ trì người khác, là hộ trì cho mình.” Phật giáo cho rằng 
không có một cái gì tồn tại độc lập trong cái thế giới duyên sinh này.
Hạnh
phúc thực chất là tất cả những gì trong thế giới xung quanh ta. Một nỗi
buồn nào đó bỗng nhiên ập đến khiến cho tất cả những niềm vui đang có 
vụt biến mất.
Giàu
có thôi vẫn không đem lại hạnh phúc. Liệu tầng lớp giàu có ở Trung Quốc
có an lòng không khi đối diện với thống kê rằng người dân Trung Quốc 
không kính trọng họ? Theo Lu Xueyi, nhà nghiên cứu của Viện Khoa học xã 
hội Trung Quốc, các nhà triệu phú nước này có “cảm giác bất an” là “do 
xu hướng của xã hội vừa ghét vừa ghen tị với những người giàu.” Đây thật
ra chỉ là đánh giá bề ngoài. Vấn đề căn để là ở chỗ “Họ có chánh mạng 
không (cách làm giàu)?” và “Họ có lòng trắc ẩn đối với tầng lớp nghèo 
khổ không?” Nói cách khác, trong mắt người dân, cách làm giàu và cách sử
dụng đồng tiền của họ là không đáng được kính trọng. Thật là không ổn 
khi tìm thấy hạnh phúc của mình trên khổ đau của người khác. Nếu họ có 
hạnh phúc thì ắt hẳn đó là những thứ hạnh phúc vị kỷ, đê tiện và tạm bợ;
còn sự bất an thì lại quá rõ ràng khi họ luôn mang trong mình tâm trạng
rằng thế giới xung quanh đang rình rập. Tự đặt mình biệt lập với con 
người và thế giới xung quanh, người ta càng cảm thấy hoảng hốt và bi 
thảm khi kết thúc cuộc đời bằng nhận thức rằng tất cả (những gì ‘của 
tôi’, ‘là tôi’) đều trở thành của ‘thiên hạ’. Sống một cuộc sống bất an 
thì chết cũng chẳng lành.
Zuckerberg
đã làm giàu bằng chính công sức và trí tuệ của anh (chánh mạng), đồng 
thời sẵn sàng mở lòng san sẻ những gì anh có cho người khác; cả hai mặt,
anh đều đáng được tôn kính.
Anh
hẳn đã hơn người trong việc tìm cầu hạnh phúc. Hạnh phúc của anh không 
dừng lại ở sự giàu sang và hưởng thụ; hạnh phúc của anh không dừng lại ở
tuổi trẻ tài cao; hạnh phúc của anh không dừng lại ở đứa con cưng 
Facebook; hạnh phúc của anh không dừng lại ở danh tiếng trọng vọng; và 
có lẽ hạnh phúc của anh cũng không dừng lại ở công tác từ thiện. Nhưng 
anh có tất cả. Và tất cả đã tạo ra cho anh một hạnh phúc bao la, không 
biên giới.
Có
lẽ đối với anh thế giới này là một thực thể duyên sinh nên anh đã và 
đang tìm cách kết nối thành một mối tương quan sinh tồn, điển hình được 
thấy qua mạng xã hội Facebook mà anh làm chủ, cũng như qua công tác từ 
thiện mà anh đã dấn thân. Nếu nhìn được như vậy, anh đúng là đang thực 
hành bồ-tát hạnh, và lấy con người và thế giới này làm môi trường tốt để
nuôi dưỡng cho mình một hạnh phúc cao cả.[3]
Không phải vô cớ mà chàng trai 26 tuổi Zuckerberg được tạp chí Time (Mỹ) ưu tiên dành cho danh hiệu “Nhân vật của năm 2010”
dù tên tuổi của anh được truy cập trên xa lộ thông tin online thua xa 
Julian Assange, chủ trang Wikileaks, người đã làm xáo trộn ngoại giao 
quốc tế. Điều này cho thấy cái thiện được tôn vinh. Đáng nói là danh 
hiệu đó của anh được hầu hết cư dân mạng tán đồng và hết lòng ngưỡng mộ.
Hạnh phúc chân thật đang chào đón những ai sống với tâm từ bi và trí 
tuệ như ông chủ Facebook này.
Thích Tâm Hạnh
(Văn hóa Phật giáo, số 137)

Mark Zuckerberg còn cưỡi trâu ở Sa Pa -VN
[1] Cấu
uế ngoại lai là những pháp sanh khởi do sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, 
thân, ý) tiếp xúc với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) đưa 
đến những cảm thọ vui - buồn, lạc - khổ, ưa - ghét, v.v. Những pháp ấy 
hoặc bị tham đắm hoặc bị ghét bỏ do được ưa thích hoặc không được ưa 
thích; hay nói cách khác chúng là điều kiện làm phát khởi tham, sân, si.
Con người do vậy trở thành bị trói buộc và vầng quanh các cảm thọ vị kỷ
và các chấp thủ cá nhân. Những pháp như thế do duyên từ bên ngoài mà 
có, nên chúng được gọi là những cấu uế từ ngoài vào. Việc buông bỏ bất 
kỳ những gì ‘mình có’ chính là buông bỏ cấu uế từ ngoài vào, và đó là 
con đường đưa đến chứng đắc bồ-đề. Buông bỏ tỷ lệ nghịch với trói buộc 
và tỷ lệ thuận với thăng hoa hạnh phúc.
[2] Quan điểm này dẫn đến hai mục đích trong tư tưởng Bồ-tát hạnh của Đại thừa: “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.”
[3] Quan điểm này được mô tả trong Kinh Hoa Nghiêm: “Chúng sanh là nơi nương tựa của bồ-tát hạnh.”