Đó
là câu hỏi mà Ts Vũ Minh Khương, giảng viên trường Đại học Quốc gia
Singapore thường xuyên nhận được từ đồng nghiệp hay những người dân
Singapore mà ông có dịp tiếp xúc.
Họ
so sánh: Singapore chỉ cần một cảng biển, một đảo Sentosa cũng có thể
làm nên sự thịnh vượng giàu có, vậy mà trên khắp Việt Nam này, có bao
nhiêu những Phú Quốc, Hạ Long, bao nhiêu Vân Phong.... mà vẫn không cách
gì khai thác được. Việt Nam vẫn bị xếp vào hàng các quốc gia phát triển
trung bình thấp và năng lực cạnh tranh thấp ngay cả so với các quốc gia
láng giềng ít tiềm năng hơn.
Thực
tế như một sự thách đố sự hiểu biết của người Singapore lại không quá
khó hiểu với những người có chút kinh nghiệm làm việc ở xứ này. Người ta
có thể tìm thấy lời giải đáp từ bất kì một quan sát nhỏ nào trong nền
kinh tế đất nước.
Triệt tiêu sức cạnh tranh của chính mình
Nhìn
vào thực tế phát triển ở Việt Nam, TS Vũ Minh Khương cho rằng, vấn đề
của Việt Nam không phải ở chỗ chúng ta không có tiềm năng mà có lẽ vì
chúng ta có nhiều tiềm năng quá, những nguồn lực xung đột, mà lại không
biết lựa chọn chính xác hướng đi nào cho mình.
Giống
như người ta được trời phú cho nhan sắc, lại có thông minh cộng tài
năng âm nhạc, lại thêm vẽ tranh... nhưng lại không biết mình thực sự
muốn gì, muốn phát triển theo hướng nào. Thôi thì, lúc này đi làm nghiên
cứu khoa học, lúc khác chơi một chút nhạc, lúc khác nữa làm hội
họa...., tận dụng mỗi thứ một chút, để rồi không thành ông, cũng chẳng
thành thằng.
Đơn cử, tỉnh Quảng
Ninh đã được trời phú một vịnh Hạ Long lại được trao thêm trữ lượng than
dồi dào. Bỏ cái gì cũng tiếc, rút cuộc, chúng ta khai thác hết, nhưng
đầu tư vào lĩnh vực nào cũng nửa vời. Khai thác than tàn phá môi trường
Quảng Ninh, gây hại cho việc làm giàu từ Vịnh Hạ Long.
Quảng Ninh đã giàu tài nguyên than |
Cách
làm du lịch, trong khi đó, lại mới dừng ở mức "thu bạc lẻ", lo thu hút
cho đông khách, mà quên mất, vấn đề không phải ở việc thu hút thêm được
bao nhiêu khách, mà là mỗi ngày, du khách sẽ tiêu bao nhiêu tiền. "Người ta chỉ tiêu dùng nhiều khi Việt Nam có sẵn nhiều hoạt động chất lượng cao, dịch vụ tốt, nhiều sản phẩm hay để họ mua", chuyên gia về năng lực cạnh tranh, GS Michael Porter phân tích. Thế nhưng, đó lại là điều Việt Nam hoàn toàn thiếu sự đầu tư.
lại có thêm Vịnh Hạ Long. |
Câu
chuyện Quảng Ninh không phải là ngoại lệ ở Việt Nam. Đến ngay cả các
tỉnh đồng bằng sông Hồng bây giờ cũng ngồi lo suy tính làm thế nào để
khai thác được bể than sông Hồng nằm ngay dưới vựa lúa, điều nhiều nơi
khác thèm được sở hữu trong bối cảnh an ninh lương thực đang là mối
nguy, mà không cân nhắc hết thiệt hơn, mạnh yếu.
Định
hướng bởi cách nghĩ làm thế nào để thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao,
tỉ trọng công nghiệp lớn cho cái gọi là "nền kinh tế GDP tỉnh", các địa
phương mải mê vận động để xin được nhiều tiền ngân sách, thêm được nhiều
vốn đầu tư vào tỉnh, có được các dự án... nhưng lại chưa suy tính xem
thực sự mình mạnh gì và nên phát triển theo hướng nào.
Các
quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển của các tỉnh thành là một
sự sao chép lẫn nhau, không dựa trên đặc thù riêng của địa phương mình,
cả về lợi thế và vị trí riêng. Thế mạnh địa phương không được phát huy,
trong khi đó, "bạn không thể ra sức để trở thành mọi thứ", GS Michael Porter đã đúc kết quy luật chung trong phát triển như vậy.
Và triệt tiêu sức cạnh tranh lẫn nhau
Không
chỉ triệt tiêu sức cạnh tranh của chính mình, các địa phương còn khai
thác tiềm năng theo kiểu triệt tiêu sức cạnh tranh lẫn nhau, khi chính
sách phát triển của các địa phương không được đặt trong mối liên kết với
các địa phương khác trong vùng và trong tổng thể phát triển chung của
đất nước.
Hãy nhìn câu chuyện phát
triển cảng biển Việt Nam. Dọc bờ biển Việt Nam chi chít những dự án cảng
biển, tỉnh nào cũng muốn sở hữu cảng biển của riêng mình. 10 năm tới,
Việt Nam có kế hoạch phát triển 39 cảng biển với 108 bến được xây dựng
mới và nâng cấp, trong đó 32 cảng biển có kế hoạch xây dựng mới.
Chúng
ta quên mất một điều: năng lực cạnh tranh chỉ tốt khi doanh nghiệp được
sử dụng cảng biển với chi phí thấp nhất, bất kể cảng đó thuộc tỉnh nào.
Càng nhiều cảng phân tán, lượng hàng càng bị chia sẻ manh mún, hiệu quả
khai thác cảng càng giảm, và chi phí tất yếu tăng lên.
Chúng ta cũng quên mất rằng, ở Mỹ, dọc bờ biển phía Tây dài 1900km cũng chỉ có 3 cảng chính.
Và
ta cũng quên hẳn bài học của Malaysia trong phát triển cảng biển. Trước
năm 1970 chỉ có 2 cảng chính, sau đó Chính phủ quyết định mở rộng thêm 4
cảng quốc gia và 3 cảng nội địa, điều đó dẫn tới tình trạng dư thừa
năng lực và cạnh tranh gay gắt giữa các cảng. Sự cạnh tranh lẫn nhau của
các cảng biển làm triệt tiêu năng lực cạnh tranh chung của đất nước,
khiến Malaysia rơi vào thế bất lợi.
Dọc
bờ biển phía Tây dài 1900km của Mỹ cũng chỉ có 3 cảng chính trong khi
10 năm tới, Việt Nam định phát triển thêm 39 cảng biển.
|
Không
thể phủ nhận, là quốc gia có đường bờ biển dài, ở vị trí địa chiến
lược, Việt Nam có lợi thế để làm trung tâm trung chuyển quốc tế. Không
phải ngẫu nhiên mà hàng loạt những sáng kiến về kết nối giao thông khu
vực đều tính đến Việt Nam như cửa ngõ ra biển. Thế nhưng, tận dụng thế
nào điều kiện ấy là câu chuyện Việt Nam cần bàn.
Có
một thời, tỉnh nào cũng đua nhau có nhà máy mía đường, xi măng lò đứng,
thì nay, cùng với cuộc đua có cho được nhà máy thép..., tỉnh nào cũng
lo có cho được cảng biển riêng..., mà cảng nào cũng nhỏ, lại thiếu các
điều kiện đi kèm.
Hiện Việt Nam
không có cảng container trung chuyển quốc tế. Ta có một số hải cảng quốc
tế như Sài Gòn, Đà Nẵng, Hải Phòng đón nhận được các tàu lớn, song dịch
vụ của các cảng này chưa đáp ứng yêu cầu, chi phí dịch vụ cao, thời
gian thông quan lâu (từ 3 đến 7 ngày, có khi lên tới 1 tháng trong khi ở
Singapore là 10 phút.) Hệ thống đường sắt, đường bộ kết nối liên tuyến
với hệ thống cảng không được đầu tư. Các điều kiện hậu cần cho cảng hoàn
toàn bỏ ngỏ. Cơ sở hạ tầng không theo kịp tốc độ tăng trưởng xuất khẩu.
Có
một ví dụ thường được các chuyên gia dẫn chứng như một minh họa sinh
động cho những ràng buộc về lợi ích cục bộ, địa phương gây cản ngại cho
một chiến lược đầu tư sáng suốt trong câu chuyện cảng biển. Hiện tại,
cảng Cái Mép - Thị Vải của Vũng Tàu đã được một số tàu mẹ các nước đến
ăn hàng. Xét về mọi mặt, đây là cảng biển có nhiều lợi thế hơn cả để
phát triển thành cảng trung chuyển quốc tế.
Thế
nhưng, Tp.HCM và Long An cũng đòi đầu tư để cảng của mình thành trung
chuyển quốc tế! Trong khi nguồn lực đầu tư của đất nước vào cơ sở hạ
tầng vốn đang vô cùng khan hiếm.
Câu
chuyện thu hút đầu tư nước ngoài của các tỉnh cũng là một ví dụ khác.
Mặc dù đã có quy định về khuyến khích và ưu đãi đầu tư, thế nhưng, thực
tế, các địa phương vẫn làm theo kiểu "mạnh ai nấy làm". Ngoài các chính
sách thu hút đầu tư của nhà nước, nhiều tỉnh đã phá rào, đưa thêm nhiều
quy định khuyến khích đầu tư, từ ưu đãi đầu tư, miễn giảm thuế và giảm
tiền thuê đất.
Cuộc khảo sát do Bộ
Tài chính tiến hành năm 2006 tại 48 tỉnh, thành phố cho thấy có tới 32
tỉnh (chiếm 2/3) ban hành thêm các văn bản pháp lý trái luật nhằm quy
định các ưu đãi đặc biệt để thu hút các dự án đầu tư. Theo khảo sát này,
có 18 tỉnh vi phạm các quy định về ngân sách, 21 tỉnh đưa ra những ưu
đãi về đất đai nằm ngoài những quy định của chính sách đất đai quốc gia,
11 tỉnh vi phạm quy định về thuế thu nhập DN và nhiều tỉnh có nhiều hơn
2 vi phạm. Hầu hết các tỉnh đưa ra các khuyến khích rất hào phóng về
phí sử dụng đất, mở rộng thời kì miễn giảm thuế lên tới 10-20 năm.
Rút
cuộc, cuộc đua của các tỉnh không mang lại lợi ích chung cho cả nền
kinh tế. Quy hoạch tổng thể bị xới tung, cày nát. Đến nỗi có chuyên gia
đã phải kêu lên rằng: cuộc đua thu hút FDI giữa các tỉnh chẳng khác nào
cuộc "chạy đua xuống đáy", khi các tỉnh hoặc là cùng chạy, hoặc là cùng
chờ.
Nói như TS Vũ Minh Khương,
ĐHQG Singapore, cách làm này tạo nên sự phát đạt cho một vài người nhưng
lại gây hại cho sự phát triển chung của đất nước.
Vừa cạnh tranh, vừa hợp tác
"Thay
vì cạnh tranh, cần khuyến khích sự phối hợp và hợp tác giữa các địa
phương, các ngành", GS Michael Porter khuyến nghị. "Các vùng và địa
phương cần được khuyến khích nâng cao năng lực cạnh tranh của mình dựa
trên những lợi thế và vị trí đặc thù của địa phương".
Nhìn
tổng thể quốc gia, đã tới lúc Việt Nam cần nghiêm túc thảo luận xem
mình muốn đứng ở vị trí nào trong nền kinh tế toàn cầu, đâu là những
ngành, lĩnh vực và thế mạnh về môi trường kinh doanh của Việt Nam mà thế
giới sẽ biết tới.
Vừa cạnh tranh, vừa hợp tác, đó là mục tiêu
mà Việt Nam cần hướng tới, nếu muốn thực sự định vị mình ở một vị trí
cao hơn trong xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu.