Không chịu nhìn vũ trụ nhân sinh, không chịu soi vào gương Phật; không
muốn trở thành một nhân tố thật sự tốt nên tìm mọi cách bứt khỏi ngũ
giới, thập thiện đạo, chính tôi sẽ có nguy cơ lọt vào Tam ác đạo quay
vòng muôn nghìn kiếp. Chúng sanh gồm hết thảy loài hữu tình (động vật)
và vô tình (thực vật, khoáng vật). Để biết rằng loài người vô cùng ít.
Cơ hội làm người vô cùng khó. Chúng sanh cao hay thấp phụ thuộc vào
lượng tâm: tâm quảng đại từ bi sẽ là Bồ tát; lượng tâm hẹp hòi thì thành
dun
dế sâu bọ... Không phải ngẫu nhiên mà Phật trong kinh đưa ra đến ba
thí dụ về thân người khó gặp. (1) con rùa mù dưới đáy sâu một ngàn năm
mới trồi lên, liệu có chạm được bọng cây trôi lờ phờ vô định trên mặt
biển; (2) vốc một nắm cát rồi buông tay xem cát trong móng tay còn lại
bao nhiêu so với vốc cát đã rơi; (3) đứng trên núi Tu Di thòng sợi chỉ
xuống chân núi xâu qua một đồng xu...
Trên quả đất Phật pháp sờ sờ song bao phần trăm người chịu nghe? Kinh
Pháp Cú: “Thân người khó gặp Phật pháp khó nghe”. Một minh sư cảnh tỉnh:
“Phá giới còn cứu được, phá kiến thì hết cứu”. Ấy chính là bản chất của
vòng luân hồi? Khoa học nay phát triển tột bực, rốt cục những khám phá
vĩ đại vẫn “quẩn quanh” trong mấy câu Phật thuyết gần ba ngàn năm trước.
Khoa học đâu đã chặn được lũ lụt, hạn hán, bom nguyên tử, các nhà máy
điện hạt nhân từng gây đại họa cho không chỉ một quốc gia? Nhìn cơn
sóng thần cao chục thước ập vào nhấn chìm cả một thành phố, mới hay
loài người chẳng hơn một tổ kiến bị tạt nước.
Thâm nhập được vào ngôi nhà của Phật
đã là thượng duyên. Không phải sinh mệnh nào cũng có cơ hội làm người,
không phải ai cũng có cơ hội gặp Phật; số gặp Phật không phải ai cũng có
duyên gặp pháp môn Tịnh độ; trong ngàn người niệm Phật, lúc mạng chung
mấy người được vãng sanh!? Hãy xem thần thức (vĩnh viễn tồn tại) chính
là sim, thẻ nhớ (tàng thức/a lại da); điện thoại chỉ là xác thân, lại
chấp nó
chính là ta - nó hư ta cũng tiêu. “Có học thức” dễ gạt phăng Phật
pháp, không chịu nghe không chịu tin. Giả như ai bịt tai bịt mắt mà tâm
không động thì đúng chẳng cần tu nữa; Pháp còn xả, quả vị ấy thật không
nhỏ chút nào. Đằng này tâm như khỉ vượn nhảy nhót lung tung ngay cả lúc
ngủ; nhầm tưởng những cái trong đầu đều do thể trí, không hay đó chính
là vọng tâm. Tham lam danh tài, tham lời ngợi khen dễ thành con giã
tràng xe cát, bỏ mất việc tối quan trọng đời người: Giải Thoát. Chớp mắt
thôi. Giả như ngồi xem thời tiết chuẩn bị cho sự vụ quan trọng ngày
mai, ta căng mắt nhưng dự báo trôi qua lúc nào. Nếu nhìn từ cõi Phật,
đời người ở Ta bà cũng ngắn ngủi như thế; cũng như chờ xem thời tiết -
nhoáng chút phóng tâm tất cả tiêu tan bọt bóng. Lại chui vào địa ngục,
lại sánh vai cùng yêu ma ngạ quỷ, giỏi lắm thì nương náu trên các tầng
trời, hưởng hết phước lại rớt xuống trần ai. Biết bao giờ ra khỏi Tam
giới nếu không đổ hết tri kiến tủn mủn hẹp hòi xuống biển sâu, lột mặt
nạ
bản thể?
Tất cả sở học, vũ trụ nhân sinh có sẵn trong tâm, chỉ cần “sập giác
quan” trước mọi hoạt cảnh và biến cố, cảnh giới thâm nghiêm sẽ dần hiển
lộ. Tất thảy ác nghiệp chúng sanh tạo tác hiện tiền trên khắp địa cầu,
hãy xem đó như ta mở được thần nhãn “chứng kiến” lại mọi hành vi trong
vô vàn đời quá khứ đã gieo. Kinh giảng: tài vật là của thủy, hỏa, đạo
tặc, oan gia trái chủ, ân nhân đời trước... Nếu biết dùng tiền hành
thiện, không Phật nào để ai đói; còn hẹp hòi tích tiền phòng bệnh, sau
này
không bệnh mới là chuyện lạ. Bệnh xuất phát từ tâm. Tâm hòa ái không
dính mắc, không sân hận đố kỵ, không tham danh không ngã mạn tị hiềm,
thân đâu có cớ mang trọng bệnh. Hòa thượng, Tiến sĩ Master Chinkung nói
(từ lúc 40 tuổi, nay đã gần 90): ông không thể có bệnh bởi tiền chữa
bệnh đã cho hết rồi. Xuất phát vào đời chỉ cần sai một ly, cứ một bước
sẽ lệch với Đạo một thước, trăm bước lệch ngàn trượng... cuối đời không
chừng vẫn tự phong người tốt.
Xưng là người tốt thật sự, vậy tôi đã giúp đỡ ai (chưa nói giúp nhiều
người) mà không khoe khoang?; là người tốt, ta đã từ bỏ việc sát sanh,
đã ăn chay?, hoặc ăn mặn theo Tam tịnh nhục? Vỗ ngực người tốt, vậy tôi
đã tiết kiệm từng gáo nước, từng phút điện thoại, từng chút điện năng
của nhà nước? Tự hào tốt, vậy ta đã mừng vui đồng nghiệp thành công?
hoặc đã biết hổ thẹn sau khi nói xấu người khác? Dân gian đúc kết: ngậm
máu phun người mệng mình dơ trước. Đạo lý này trong kinh còn sâu hơn:
nói
xấu người chẳng những ta tích nghiệp mà đối phương cũng thêm xấu. Xem
Linh sơn là kiệt tác của kiệt tác; giả như có một đại hội Nobel Văn
chương thì tác phẩm này vẫn đầy đủ tư cách ngồi riêng một chiếu. Tâm
niệm vậy nên tôi bị nó ám ảnh, phóng tâm khắp địa cầu rốt cuộc vẫn chỉ
là kẻ cư lưu trong nỗi mơ hồ bất tận về kiếp người. Hướng vào nội giới,
Linh sơn ở trong đó còn tìm đâu? Tâm động thì đến Phật, Bồ tát cũng méo
mó. Người xấu chính là tấm gương trong suốt đang soi chiếu cái bẩn thỉu
trong tâm tôi. Sống một đời vài trăm tuổi đi nữa mà ngu ngơ mù mịt
không biết sẽ về đâu, không cần biết sau bức tường cao vợi kia ra sao là
đoạn kiến, thật quá phũ phàng với trời đất.
Tổ Tịnh độ tông thứ 13, đại sư Ấn Quang khuyên hãy xem thân người có
được ở đời này là lần cuối cùng thoát khỏi lục đạo. Ta phải xem gặp được
Phật pháp trong đời này là chuyến xe cuối cùng, để không ở lại bầu bạn
với thú trong rừng xanh vĩnh viễn! Cái che mất tự tánh chính là ngũ dục
(tài, sắc, danh, thực, thùy) và ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức).
Thân xác mà thần thức đang mượn kia giả tạm, lại để nó đánh lừa đồng
nhất một khối. Chăm sóc chiều chuộng thân thái quá ắt bị lôi giữa sình
lầy ác trược. Hóa thân của Phật Di Lặc là Hòa thượng Bố Đại, có người
hỏi Đạo là gì?, Ngài thả cái bao trên lưng rớt xuống. Đạo ở đây là vậy,
một chữ Buông. Hướng về Phật mà không buông, ấy là tu giả. Tham chấp thế
gian, lấy điều kiện gì đòi về nước Phật.
Bất cứ ai, không cứ tôn giáo nào dưới gầm trời đều không thoát nhân
quả luân hồi. Là thiên tài liệu có cứu được mình? Trong lúc dòng tộc họ
hàng, anh em, quyến thuộc dưới kia đang hết lòng trông mong ta thành tựu
gửi công đức hồi hướng cho họ. Có chút tài danh chắc có ngã mạn. Muốn
qua sông chỉ cần hai hào trả cho người lái đò, mắc chi bỏ cả cuộc đời
thu lượm sở học thế gian mà vẫn mù lòa bên kia thế giới; mắc chi không
chịu học Phật ghép bè đáo bỉ ngạn. Các bậc đạo sư từng bảo, việc lấy
viên
“tanh châu” vốn sẵn trong mình người ngu dốt cũng làm được mà, bởi họ
đâu chấp nê.
Lõm bõm Phật một tí, Chúa một tí, các triết gia một tí, siêu nhiên
siêu hình một tí rồi giơ ra lòe thiên hạ nào hay quỷ thần cũng nhịn
không được mà cười sặc cả cơm. Tham khảo một thí dụ: ta ngủ gặp ác mộng,
tên sát nhân cầm dao truy đuổi từ trong nhà vào phòng ngủ. Từ phòng ngủ
ta đu dây trụt xuống tầng trệt, hắn vẫn ráo riết đuổi. Ta thộc vào nhà
người khác, hắn vẫn đuổi, giết cả người che chở ta... Giật tỉnh, “à, té
ra mơ”. Địa ngục trước hết là do nghiệp lực tích tụ chiêu cảm ra cảnh
giới
tương tự. Giấc mơ khủng khiếp ấy, “cảnh giả” ấy nối với ác mộng khác
không một giây ngưng nghỉ thì có phải thật?!
Trong mỗi người ý nghiệp luôn làm chủ. Chẳng cần tính chửi bới, phỉ
báng người (khẩu nghiệp), chưa cần đấm đá người (thân nghiệp), ta đã thê
thảm lắm vào cuối đời. Tích quá nhiều nghiệp, tâm dĩ nhiên tạo nên cảnh
giới xấu cho kiếp sau. Giả như tham ăn uống, ấy là gieo nhân làm ngạ
quỷ. Hình thù của chúng: bụng to, yết hầu lại nhỏ, suốt ngày kiếm ăn và
ăn mà luôn bị cái đói hành hạ. Tại những lò mổ, những con vật bị đập nát
đầu phọt óc đâu có tội. Đơn giản là nó chịu nghiệp báo gieo rắc đời
trước. Và cái người chủ giết mỗi đêm mấy chục mạng kia phải sống trong
địa ngục không một giây thôi vật vã, vạn kiếp mong chi thấy ánh mặt
trời. Mà chỉ cần nghĩ đến lúc thoát xác thôi, do tập khí không buông bỏ
(lúc sống) nên cứ là quanh quẩn trong gia thất, bên những người thân mà
không sờ mó kêu than với ai được...
Mê khoa học, mà chẳng hay chính mình là người “lỗi mốt” và lạc hậu về
khoa học. Nhiều công trình chứng minh sự tồn tại vĩnh viễn của A-lại-da
đằng sau xác thân tạm bợ, và nhiều khoa học gia còn khẳng định về sự
luân hồi đầu thai Phật đưa ra là hoàn toàn có căn cứ. Những dòng sau đây
của Lama Anagarika Govinda, nguyên là giảng viên Triết học tại Đại học
Naples: “Mantra hay Hồng danh Chư Phật, hay Hồng danh Phật A Di Đà, được
niệm lên với tất cả sự thành kính, được niệm lên nhiều lần, được niệm
lên qua năm tháng. Ngữ điệu, âm thanh,... là những dao động.
Tần số Linh thiêng này, như một nguồn cưỡng bức điều hòa, làm cho Tần
số của các Chuỗi tạo nên Cơ thể, Tần số của các Chuỗi tạo nên Tâm thức,
tạo nên quá trình Tâm thức của Con Người là Thọ, Tưởng, Hành và Thức;
hòa nhập cùng Tần số Linh thiêng. Hiện tượng Hòa Tần số xảy ra. Tạo nên
sự hòa nhập Thân, Tâm với Vụ trụ. Phật tánh Hiển lộ, Niết bàn xuất
hiện”. Trì danh hiệu Phật cầu sanh Cực Lạc quốc, lên đó sẽ có tất cả
những gì ước muốn, lên đó sẽ chia hóa thân xuống trần gian cứu độ những
người
ta yêu thương.
Niệm Phật ngoài thành tâm, yếu chỉ: niệm thầm hay ra tiếng tai đều
nghe rõ "A Di Đà Phật". Trước lúc ngủ thử tập niệm 5 câu một lần không
gián đoạn, xong một lượt liền quay lại niệm vòng khác, tâm buông lung
chút đã biết quay về trụ ở câu Phật hiệu. Vừa lạy Phật vừa niệm Phật -
càng tốt. Ai nói gì mặc, cứ nhẫn nhục rồi thầm cảm ơn họ đã tiêu bớt
nghiệp cho mình. Đi đứng nằm ngồi, trước lúc ngủ, nửa đêm chợt tỉnh,
sáng sớm mở mắt..., lúc nào cũng niệm Phật, nhớ Phật, nguyện được sanh
về Tây
phương Cực lạc nếu lỡ mạng chung. Hễ lúc nào có “A Di Đà Phật” lúc đó
tâm tỉnh giác. Còn biện mọi lý do phủ nhận Phật pháp bám chặt cõi mê,
lúc chết không chừng trong số hàng vạn triệu loài vật sẽ có một “đổi áo”
cho ta.
Phật không biện chứng mà thấy được tám vạn bốn ngàn vi khuẩn trong
nước? Hồi đó chưa có khoa học tanh chứng, người đời không tin. Phật
giảng Kinh Hoa Nghiêm trong niệm (một dạng sóng), nghe vậy người người
cho viễn vông. Nay khoa học bắt được sóng, sử dụng sóng khiến thế giới
trở nên nhỏ hẹp. Niệm Phật cũng là sóng, còn là sóng cực mạnh, cực lợi
dưỡng thân tâm. Niệm Phật tức “điện tín” gây dựng một chỗ náu vĩnh cửu
sau kiếp này. Tịnh độ thù thắng hơn nhiều pháp môn khác ở chỗ, người tu
còn
mang nghiệp cũ (đới nghiệp) nhưng vẫn được Phật cứu (vãng sanh).
Đừng nhăn trán khi nghe: Những là ngạ quỷ, ma, thiên nhân, những là
Phật, Bồ tát; những là nhục nhãn không thấy đều thật. Cuộc đời đã đánh
tráo khái niệm, nhồi sọ cái lý thuyết chỉ tin những gì mắt thấy tai
nghe. Chao ôi! mắt phàm tôi có thấy vi khuẩn?, và tai ta có nghe diệu âm
chân kinh hàng ngàn năm trước vẫn hiện tồn trong không gian trùng trùng
những cảnh giới nhiệm màu.
Hồ Duy