Ðược tăng trưởng với năm sự tăng trưởng, này các Tỷ-kheo, một nữ
Thánh đệ tử, được tăng trưởng trong Thánh tăng trưởng, nắm giữ được
những lõi cây (căn bản, tinh vi), nắm giữ được những tốt đẹp nhất về
thân. Thế nào là năm?
Tăng trưởng về lòng tin, tăng trưởng về giới hạnh, tăng trưởng về
nghe nhiều (sutena), tăng trưởng về thí xả, tăng trưởng về trí tuệ. Này
các Tỷ-kheo, được tăng trưởng với năm sự tăng trưởng này, này các
Tỷ-kheo, một nữ Thánh đệ tử được tăng trưởng trong Thánh tăng trưởng,
nắm giữ được những lõi cây (căn bản, tinh vi), nắm giữ được những điểm
tốt đẹp nhất về thân.
(Tương Ưng Bộ Kinh 4. Tương Ưng Nữ Nhân. Phẩm Các Sức Mạnh. Phần Tăng Trưởng)
- Bổn phận của người vợ. (A.IV.271)
Này Visākhā, đầy đủ bốn pháp, nữ nhân thành tựu sự chiến thắng ở đời này. Ðời này rơi vào tầm tay của nàng. Thế nào là bốn?
Ở đây, này Visākhā, nữ nhân có khả năng khéo làm các công việc, biết
thâu nhiếp các người phục vụ, sở hành vừa ý chồng, biết giữ gìn tài sản
cất chứa. Này Visākhā, thế nào là nữ nhân có khả năng khéo làm các công
việc?
Này Visākhā, đầy đủ bốn pháp, nữ nhân thành tựu sự chiến thắng ở đời sau. Ðời sau rơi vào tầm tay của nàng. Thế nào là bốn?
Ở đây, này Visākhā, nữ nhân đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ
bố thí, đầy đủ trí tuệ. Và này Visākhā, thế nào là nữ nhân đầy đủ lòng
tin?
(Tăng Chi Bộ Kinh 4. Chương Tám Pháp. Phẩm Ngày Trai Giới. Phần Ở Đời Này)
- Sự gia nhập của người nữ vào Tăng đoàn. (A.IV)
Thân phận người phụ nữ ở xã hội Ấn Độ cách đây 2.500 năm thường được
xem như hạ lưu. Họ không được phép đi học để mở mang kiến thức và tham
gia vào các hoạt động tôn giáo để phát triển tâm linh.
Nhận biết được tình trạng bất công và không lành mạnh này, Đức Phật
đã cho phép họ được tham gia vào những hoạt động tôn giáo. Họ được phép
gia nhập vào tăng đoàn Tỳ-khưu ni (bhikkhunī) với điều kiện phải gìn giữ
thêm tám giới do Đức Phật chế định ngoài những giới mà Đức Phật đã chế
định cho Tỳ-khưu tăng trước đây.
Những giới này không cố ý làm giảm đi nhân cách của họ mà chỉ nhằm
vào những khuyết điểm đặc biệt của giới nữ và để hướng dẫn họ hoàn thành
tốt đẹp cuộc sống phạm hạnh không bị trở ngại. Đây là cơ hội đầu tiên
trong lịch sử nhân loại mà người phụ nữ được phép tham dự vào tập thể
của tăng chúng.
Tám giới ấy là :
Dầu cho thọ đại giới một trăm năm, một Tỷ-kheo-ni đối với một Tỷ-kheo
mới thọ đại giới trong một ngày cũng phải đảnh lễ, đứng dậy, chắp tay,
xử sự đúng pháp. Pháp này sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng
dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Tỷ-kheo-ni không có thể an cư mùa mưa tại chỗ không có Tỷ-kheo. Pháp
này sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời
không được vượt qua.
Nửa tháng một lần, Tỷ-kheo-ni cần phải thỉnh chúng Tỷ-kheo hỏi ngày
trai giới và đến để thuyết giới. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng,
đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Sau khi an cư mùa mưa xong, Tỷ-kheo-ni cần phải làm lễ Tự tứ trước
hai Tăng chúng về ba vấn đề được thấy, được nghe và nghi. Pháp này, sau
khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không
được vượt qua.
Tỷ-kheo-ni phạm trọng tội phải hành pháp pakkhamānattaṃ (man-na-đọa)
cho đến nửa tháng. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng
dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Sau khi học tập sáu pháp trong hai năm, phải đến xin thọ cụ túc giới
trước hai Tăng chúng. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ,
cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Không vì duyên cớ gì, một Tỷ-kheo-ni có thể mắng nhiếc, chỉ trích một
Tỷ-kheo. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường,
cho đến trọn đời không được vượt qua.
Này Ānanda, bắt đầu từ hôm nay, có sự giáo giới phê bình giữa các
Tỷ-kheo về Tỷ-kheo-ni, không có sự giáo giới phê bình giữa các
Tỷ-kheo-ni về các Tỷ-kheo. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh
lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
(Tăng Chi Bộ Kinh 4. Chương Tám Pháp. Phẩm Gotamī. Phần Mahāpajāpatī Gotamī)
- Năm khuyết điểm của phụ nữ. (S.IV.328)
Này các Tỷ-kheo, có năm đau khổ riêng biệt mà người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông. Thế nào là năm?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, người đàn bà lúc trẻ tuổi đi đến nhà chồng,
không có bà con. Ðây là đau khổ riêng biệt thứ nhất, này các Tỷ-kheo,
người đàn bà phải gánh chịu điều đó khác biệt với đàn ông.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người đàn bà có kinh nguyệt. Ðây là đau khổ
riêng biệt thứ hai, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải gánh chịu, khác
biệt với đàn ông.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải mang thai. Ðây là sự đau
khổ riêng biệt thứ ba, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải gánh chịu,
khác biệt với đàn ông.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một người đàn bà phải sinh con. Ðây là đau
khổ riêng biệt thứ tư, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải gánh chịu,
khác biệt với đàn ông.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người đàn bà hầu hạ đàn ông. Ðây là đau khổ
riêng biệt thứ năm, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải gánh chịu, khác
biệt với đàn ông.
Này các Tỷ-kheo, đây là năm đau khổ riêng biệt, này các Tỷ-kheo, người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông.
(Tăng Chi Bộ Kinh 4. Tương Ưng Nữ Nhân. Phẩm Đặc Thù. Phần Trung Lực)
- Năm sức mạnh làm cho người phụ nữ tin tưởng. (S.IV.248)
Này các Tỷ-kheo, có năm sức mạnh này của người đàn bà. Thế nào là
năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con
trai, sức mạnh giới hạnh.
Này các Tỷ-kheo, người đàn bà không do nhân nhan sắc, không do nhân
tài sản, không do nhân bà con hay không do nhân con trai, sau khi thân
hoại mạng chung, được sinh thiện thú, thiên giới, cõi đời này.
Này các Tỷ-kheo, người đàn bà do nhân giới hạnh, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh thiện thú, thiên giới, cõi đời này.
Này các Tỷ-kheo, đây là năm sức mạnh của người đàn bà.
(Tăng Chi Bộ Kinh 4. Tương Ưng Nữ Nhân. Phẩm Các Sức Mạnh. Phần Nhân)
- Nghiệp làm thành tựu ước nguyện của họ. (S.IV.249)
Có năm sự kiện này, này các Tỷ-kheo, thật dễ cho người đàn bà có làm các công đức có thể thực hiện được. Thế nào là năm?
"Mong rằng tôi được sinh vào một gia đình thích đáng!" Này các
Tỷ-kheo, đây là sự kiện thứ nhất thật dễ cho người đàn bà làm các công
đức có thể thực hiện được.
"Sau khi được sinh vào một gia đình thích đáng, mong rằng tôi được đi
đến (làm vợ) một gia đình thích đáng!" Này các Tỷ-kheo, đây là sự kiện
thứ hai thật dễ cho người đàn bà có làm các công đức có thể thực hiện
được.
"Sau khi được vào một gia đình thích đáng, sau khi được đi đến (làm
vợ) một gia đình thích đáng, mong rằng tôi được sống trong một gia đình
không có người vợ địch thủ!" Này các Tỷ-kheo, đây là sự kiện thứ ba thật
dễ cho người đàn bà có làm các công đức có thể thực hiện được.
"Sau khi được sinh vào một gia đình thích đáng, sau khi được đi đến
(làm vợ) một gia đình thích đáng, sau khi được sống trong một gia đình
không có người vợ địch thủ, mong rằng tôi được sinh con trai!" Này các
Tỷ-kheo, đây là sự kiện thứ tư thật dễ cho người đàn bà có làm các công
đức có thể thực hiện được.
"Sau khi được sinh vào một gia đình thích đáng, sau khi được đi đến
(làm vợ) một gia đình thích đáng, sau khi được ở trong một gia đình
không có người vợ địch thủ, sau khi được sinh con trai, mong rằng tôi
chinh phục được người chồng!" Này các Tỷ-kheo, đây là sự kiện thứ năm
thật dễ cho người đàn bà có làm các công đức có thể thực hiện được.
Năm sự kiện này, này các Tỷ-kheo, thật dễ cho người đàn bà có làm các công đức có thể thực hiện được.
(Tăng Chi Bộ Kinh 4. Tương Ưng Nữ Nhân. Phẩm Các Sức Mạnh. Phần Sự Kiện)
- Có vài phụ nữ vẫn tốt hơn nam nhân. (S.I.89)
Một người đi đến vua Pasenadi nước Kosala và báo tin kề bên tai vua
Pasenadi nước Kosala: "Thưa Ðại vương, hoàng hậu Mallikà đã sinh hạ được
một người con gái".
Khi được nói vậy, vua Pasenadi nước Kosala không được hoan hỷ.
Rồi Thế Tôn, sau khi biết vua Pasenadi nước Kosala không được hoan hỷ, ngay lúc ấy nói lên bài kệ:
Này Nhân chủ, ở đời,
Có một số thiếu nữ,
Có thể tốt đẹp hơn,
So sánh với con trai,
Có trí tuệ, giới đức,
Khiến nhạc mẫu thán phục.
Rồi sinh được con trai,
Là anh hùng, quốc chủ,
Người con trai như vậy,
Của người vợ hiền đức,
Thật xứng là Ðạo sư,
Giáo giới cho toàn quốc.
(Tăng Chi Bộ Kinh 1. Tương Ưng Kosala. Phẩm Thứ Hai. Phần Người Con Gái)
- Có bảy hạng vợ. (A.IV.91-93)
1. Sát nhân thê – vaddhakā bhariyā.
Ai tâm bị uế nhiễm,
Không từ mẫn thương người,
Thích thú những người khác,
Khinh rẻ người chồng mình,
Bị mua chuộc bằng tiền,
Hăng say giết hại người,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ sát nhân.
2. Đạo tặc thê – corī bhariyā.
Còn hạng nữ nhân nào,
Tiêu xài tài sản chồng,
Do công nghiệp đem lại,
Hay thương nghiệp, nông nghiệp,
Do vậy, nếu muốn trộm,
Dầu có ít đi nữa,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ ăn trộm.
3. Chủ nhân thê – ayyā bhariyā.
Không ưa thích làm việc,
Biếng nhác, nhưng ăn nhiều,
Ác khẩu và bạo ác,
Phát ngôn lời khó chịu,
Mọi cố gắng của chồng,
Ðàn áp và chỉ huy,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi là vợ chủ nhân.
4. Hiền mẫu thê – mātā bhariyā.
Ai luôn luôn từ mẫn,
Có lòng thương xót người,
Săn sóc giúp đỡ chồng,
Như mẹ chăm sóc con,
Tài sản chồng cất chứa,
Biết hộ trì gìn giữ,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ như mẹ,
5. Hiền muội thê – bhaginī bhariyā.
Ai như người em gái,
Ðối xử với chị lớn,
Biết cung kính tôn trọng,
Ðối với người chồng mình,
Với tâm biết tàm quí,
Tùy thuận phục vụ chồng,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ như chị.
6. Bằng hữu thê – sakhī bhariyā.
Ai ở đời thấy chồng,
Tâm hoan hỷ vui vẻ,
Như người bạn tốt lành,
Ðã lâu từ xa về,
Sinh gia đình hiền đức,
Giữ giới, dạ trung thành,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ như bạn.
7. Nô bộc thê – dāsī bhariyā.
Không tức giận, an tịnh,
Không sợ hình phạt, trượng,
Tâm tư không hiềm hận,
Nhẫn nhục đối với chồng,
Không phẫn nộ tức giận,
Tùy thuận lời chồng dạy,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ nữ tỳ.
(Tăng Chi Bộ Kinh 4. Chương Bảy Pháp. Phẩm Không Tuyên Bố. Phần Các Người Vợ)
- Năm cách để cho người vợ trở thành hoàn hảo. (A.III.36-37)
Đức Phật đã dạy cho những người con gái sắp lấy chồng năm điều để họ suy ngẫm :
Này các thiếu nữ, các Con hãy học tập như sau: "Ðối với những người
chồng nào, mẹ cha cho các con, vì muốn lợi ích, vì tìm hạnh phúc, vì
lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn khởi lên, đối với vị ấy, chúng ta sẽ
thức dậy trước, chúng ta sẽ đi ngủ sau cùng, vui lòng nhận làm mọi công
việc, xử sự đẹp lòng, lời nói dễ thương." Như vậy, này các Thiếu nữ, các
Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: "Những
ai, chồng ta kính trọng, như mẹ, cha, Sa-môn, Bà-la-môn, chúng ta sẽ tôn
trọng, đảnh lễ, cúng dường và khi họ đến, chúng ta sẽ dâng hiến họ chỗ
ngồi và nước." Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: "Phàm có
những công nghiệp trong nhà, hoặc thuộc về len vải hay vải bông, ở đây,
chúng ta sẽ phải thông thạo, không được biếng nhác, tự tìm hiểu phương
pháp làm, vừa đủ để tự mình làm, vừa đủ để sắp đặt người làm." Như vậy,
này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: "Trong
nhà người chồng, phàm có nô tỳ nào, hay người đưa tin, hay người công
thợ, chúng ta sẽ phải biết công việc của họ với công việc đã làm; chúng
ta sẽ phải biết sự thiếu sót của họ với công việc không làm. Chúng ta sẽ
biết sức mạnh hay sức không mạnh của những người đau bệnh. Chúng ta sẽ
chia các đồ ăn, loại cứng và loại mềm, mỗi người tùy theo phần của
mình". Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: "Phàm có
tiền bạc, lúa gạo, bạc và vàng người chồng đem về, chúng ta cần phải
phòng hộ, bảo vệ chúng, và sẽ gìn giữ để khỏi ăn trộm, ăn cắp, kẻ uống
rượu, kẻ phá hoại". Như vậy, này các Thiếu nữ, các con cần phải học tập.
(Tăng Chi Bộ Kinh 3. Chương Năm Pháp. Phẩm Sumanā. Phần Người Gia Chủ)
- Đó là niềm hạnh phúc. (Jā.453)
Yassa bhariyā tulyavayā samaggā,
Anubbatā dhammakāmā pajātā;
Koliniyā sīlavatī patibbatā,
Dāresu ve sotthānaṃ tadāhu.
Vợ hiền, đồng tuổi, có tình thân,
Tận tụy, nhân từ, trẻ lại đông,
Ðức hạnh, trung thành, dòng quý tộc,
Ấy niềm hạnh phúc giữa hồng quần.
- Của hồi môn tốt đẹp nhất. (DhpA.53)
Của hồi môn tốt đẹp nhất mà cha mẹ có thể dành cho con gái mình là
những lời giáo huấn được ghi lại trong chú giải kinh pháp cú qua những
lời huấn dụ của cha nói với bà đại thí chủ Visākhā vào ngày bà lấy chồng
:
Không đem lửa trong nhà ra ngoài.
Không đem lửa ở ngoài vào nhà.
Chỉ cho những người đáng được cho.
Không cho những người không đáng cho.
Cho cả hai hạng người, đáng cho và không đáng cho.
Ngồi một cách vui vẻ.
Ăn một cách vui vẻ.
Ngủ một cách an lạc.
Trông nom, gìn giữ lửa.
Tôn trọng các vị trời ở trong nhà.
Ngụ ý những lời dạy trên như sau :
Lửa ở đây ngụ ý những lời phỉ báng, vu cáo. Một người vợ không nên
nói xấu chồng và gia đình chồng cho người khác nghe; cũng như không nên
nói những khuyết điểm hay những cuộc cãi cọ ở trong nhà chồng cho người
khác nghe.
Không nên nghe ngóng ở ngoài đường hay những người láng giềng nói xấu
gia đình bên chồng rồi đem về nhà mà thuật lại cho gia đình bên chồng
nghe.
Chỉ nên cho người nào mượn mà biết rằng sẽ đem trả lại.
Không nên cho người nào mượn mà biết rằng người ấy thường mượn luôn không bao giờ hoàn trả lại.
Những thân bằng quyến thuộc nghèo khó thì nên giúp đỡ họ, cho dù biết rằng họ không thể trả lại được.
Ngồi một cách vui vẻ có nghĩa là khi thấy cha mẹ chồng, nên đứng dậy
để tỏ lòng tôn kính chớ không nên ngồi im lặng. Những lời dạy này dành
cho những người vợ biết khiêm nhường, biết lễ độ để biểu hiện sự kính
trọng cha mẹ chồng.
Ăn một cách vui vẻ nghĩa là trước khi ăn cơm, hãy quan sát xem có
những gì thiếu xót mà cha mẹ chồng cần khi ăn không; nếu có nên đi lấy
mang đến dâng cho họ rồi mới được ngồi ăn. Và cũng nên chăm sóc miếng ăn
cho tôi tớ trong nhà chu đáo nữa.
Ngủ một cách an lạc không có nghĩa là người vợ muốn ngủ bao lâu hay
giờ giấc nào tùy thích mà ngụ ý là trước khi đi ngủ phải nên đi quan sát
xem tất cả cửa nẻo đã đóng lại hết chưa, đồ đạc trong nhà được an toàn
chưa, tôi tớ đã làm xong phận sự trong nhà chưa, cha mẹ chồng và chồng
đã lên giường ngủ chưa, xong rồi mới nên đi ngủ. Một người vợ hiền phải
nên thức dậy sớm trừ khi bị đau ốm hay không được khỏe và cũng không nên
ngủ ban ngày.
Lửa ở đây ám chỉ cho cha mẹ chồng và chồng. Hãy đối xử với họ hết sức
cẩn trọng như thể sử dụng lửa vậy, nếu vô ý sẽ bị phỏng hoặc nhiều tai
hại khác nữa.
Các vị trời trong nhà ở đây ý muốn nói đến cha mẹ chồng và chồng. Phải
tỏ ra hết sức kính trọng họ. Chính ngay như Đức Phật khi đề cập đến cha
mẹ bên vợ lúc Ngài còn là bồ tát thì Ngài vẫn xem họ như là chư thiên
tại thế (sassudeva).
Theo phong tục phương Đông, người vợ xem chồng mình như ông vua. Theo
lời dạy của Đức Phật thì người vợ được xem như là một người bạn tốt của
chồng.
Nhiệm vụ của người chồng là phải nên đối xử với vợ như một người thân
cận mang đến lợi ích to lớn nhất và nên xem vợ như là tấm thân thứ hai
của mình. Một người vợ đảm đang và chung thủy hết sức coi trọng chồng
như là nơi nương tựa, che chở lý tưởng của mình.
Người vợ cũng không quên lo lắng đến nhữngbản phận trong đời sống đạo
hạnh. Các vị Sa môn, Bà-la-môn đến nhà lúc hợp thời phải nên đối xử với
họ một cách tôn kính. Phải tỏ ra niềm nở với các vị ấy.
- Sức mạnh tinh thần của người phụ nữ. (Apa.11.535)
Người nam luôn thể hiện sự ngờ vực về tinh thần của người nữ là không
tin tưởng, ngay như sau khi biết được sự thành tựu của giáo hội Tỳ-khưu
Ni là một minh chứng tốt đẹp được Đức Phật tán thán khi bà Gotamī viếng
thăm và đảnh lễ Ngài vào thời điểm bà sắp Níp-bàn :
"Này Tỳ-khưu ni Gotamī, bà đã thực hiện tốt đẹp một cách kỳ diệu
trong việc xóa tan mọi quan điểm sai lầm của những người nam ngu muội mà
trong tâm trí của họ đầy sự hoài nghi về những tiềm lực tâm kinh của
người phụ nữ".
- Vật hấp dẫn ở thế gian. (A.I.1)
Ta không thấy một sắc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị
tâm người đàn ông như sắc người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, sắc người đàn
bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Ta không thấy một tiếng nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự
trị tâm người đàn ông, như tiếng người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, tiếng
người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Ta không thấy một hương nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự
trị tâm người đàn ông, như hương người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, hương
người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Ta không thấy một vị nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị
tâm người đàn ông, như vị người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, vị người đàn bà
xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Ta không thấy một xúc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị
tâm người đàn ông, như xúc người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, xúc người đàn
bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
(Tăng Chi Bộ Kinh 1. Chương Một Pháp. Phẩm Sắc. Phần Nữ Sắc)
- Các đức hạnh mà người phụ nữ nên trau dồi. (S.IV.143)
Những đức hạnh làm cho người phụ nữ trở nên tốt đẹp cả hai đời, đời này và đời sau đã được Đức Phật tuyên bố như sau:
1. Có tâm đạo nhiệt thành.
2. Có tâm hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi.
3. Không nuôi dưỡng tâm địa ác độc, oán thù và sân hận.
4. Không ghen tuông bóng gió.
5. Không cãi vả mà nên có lòng rộng lượng.
6. Nhã nhặn trong mọi hành vi.
7. Đầy đủ đức hạnh.
8. Học hỏi để nâng cao kiến thức, nhất là sự hiểu biết.
9. Nhiệt tình và sốt sắng trong công việc.
10. Luôn phòng hộ tâm và khôn khéo trong xử sự.
11. Có trí tuệ hiểu biết.
- Bản chất của người phụ nữ.
Mặc dù, thực sự Đức Phật nâng cao thân phận người phụ nữ, Ngài đã thể
hiện qua sự giữ giới của Ngài và khuyên dạy các để tử từ thời này sang
thời khác, nhưng Ngài vẫn nhận biết được sự khác biệt về vấn đề xã hội
và sinh lý giữa người nam và người nữ vẫn còn tồn tại.
Những điều này đã được miêu tả trong Aṅguttara Nikāya và Saṃyutta
Nikāya. Mặc dù trong một vài đoạn kinh, có một vài nguyên do nói lên tai
hại về tư cách và sự quyến rũ của người nữ đáng bị chỉ trích đã được
ghi lại.
Trong Saṃyutta Nikāya, Đức Phật đã có ý đưa ra nhiều yếu tố để xóa bỏ
thành kiến này. Trong một vài trường hợp, người nữ được xem như sáng
suốt và thông minh hơn người nam, và người nữ cũng có khả năng chứng đắc
quả giải thoát hay đắc được các quả vị Thánh sau khi họ tu tập Bát
chính đạo.
Đối với những người phụ nữ đã bị xúc động thái quá và đau khổ cùng
tột khi bị mất đi người thân yêu, Đức Phật đã dạy về cái chết không thể
nào tránh được của chúng sinh như đã được trình bày trong tứ diệu đế và
nhiều dẫn vụ khác nhau được trích giảng về vấn đề này. Đối với và
Visākhā, bị quá xúc động vì lòng thương yêu của bà ngoại khi bị mất đi
đứa cháu gái, Đức Phật đã an ủi bà như sau :
Do ái sinh sầu ưu,
Do ái sinh sợ hãi,
Ai thoát khỏi tham ái,
Không sầu, đâu sợ hãi? (Dhp.212)