Khi tín ngưỡng trong trường học từ mọi truyền thống tiếp tục
chiếm những đề mục nổi bật hàng đầu, thì quan điểm của một nền giáo dục
đặc biệt của Đạo Phật không phải tranh cải nhiều. Những sự thực tập căn
bản của trường học gợi hứng từ Đạo Phật, trái lại đang bắt đầu đạt được
sự thúc đầy. Tuần rồi, Goldie Hawn [1]đã vui mừng hăng hái về việc
Anh Quốc bắt đầu chương trình thiền quán trong trường học của mình,
trong khi trên một mức độ thấp hơn, giáo trình chính niệm đã
được giới thiệu trong một số học viện tư thục - – Wellington College và
Tonbridge School ở trong số ấy. Cũng có những khởi đầu giới thiệu thiền
tập trong lĩnh vực quốc gia, dưới sự hướng dẫn của những nhà tâm lý học
như Mark Williams ở Oxford.
Như được nói rằng Đạo Phật hình thành ở phương Tây như một môn tâm lý
học hơn là một tôn giáo, và điều này dường như là trường hợp ở đây –
nhiều người giới thiệu thiền tập ở trường học không minh định [hay nhân
danh] như những Phật tử. Và nhân tố căn bản đã chủ yếu là khoa học –
bên cạnh những lợi ích khác, thiền tập đã được cho thấy để bồi dưỡng kỷ
năng chú ý, giảm thiểu xung đột, và gia tăng thái độ hợp tác xã hội cũng
như khả năng liên hệ (trong thiếu nhi và người lớn), và bảo hộ việc
chống lại băn khoăn và chán nản.
Những sự thực tập được trình bày trong phong cách tích cực này là khéo léo – viễn tượng dạy dỗ thiếu nhi chú tâm
vượt xa sự hấp dẫn của những nhà giáo dục bừng lên một thoáng như đề
nghị, như là phong trào hippie, mà thiền tập sẽ liên kết người ta đến
một sự thấu hiểu trãi nghiệm sâu xa. Có phải
cả hai điều này thật sự khác nhau? Một sự thông hiểu trãi nghiệm sâu xa
hơn không có nghĩa là sự nối kết với một thể trạng trần gian khác khơi
mở những bí mật của vũ trụ - trong phạm vi của thiền tập, sự thông hiểu
nàycó vẻ liên hệ đến việc phát triển một sự khám phá bây giờ và ở đây
của tư tưởng, những cảm nhận và những sự kiện, và việc nhận ra chúng
liên kết hổ tương như thế nào để tạo nên nhận thức của chúng ta về thế
giới.
Khả dĩ của việc trình bày thiền quán đơn thuần trong dạng thức “ở đây
là những gì chúng ta thoát khỏi” (giải thoát) là điều có thể đi đến
việc dường giống như một kỷ năng cho việc tự trau dồi, hay tự kiểm soát,
khi thật sự nó là về ‘việc để tự ngã ra đi’(vô ngã), một sự tảng lờ đến
việc mà từ đấy một sự thông hiểu mới có thể bùng phát. Hơn là cung ứng
một hứa hẹn cho sự cải thiện, hay một sự bảo đảm sai lạc căn cứ trên
tín ngưỡng, thì thiền quán có thể là một phương cách của giáo huấn hồ
nghi – một điều không chắc chắn khởi đầu lại có thể là một nội dung hữu
ích cho học tập. Bằng việc tiếp nhận một nhận thức khác biệt về kinh
nghiệm – nhìn nó, quán xét nó một cách chính niệm trong một lúc, hơn là
vùi đầu trong học hỏi, chúng ta có thể trở nên quen thuộc hơn đến những
thái độ của chúng ta định hình thế giới như thế nào, và cung cách chúng
ta thấy mọi sự, mọi vật như thế nào mà không phải là phong cách chúng
nhất thiết là [như thế].
Đây hoàn toàn không phải là chủ nghĩa hoài nghi mà Richard Dawkins đã
đề nghị, mà có thể là một bộ phận chủ yếu của một loại trường học vô
thần [2] – như Andrew Brown đã từng chỉ ra, tiền đề không được nói ra ở
đấy là sự nghi ngờ được dạy phù hợp với một hệ thống luật lệ được ban
bố, với những ý tưởng nghi ngờ ẩn tàng mà chúng không thể chứng minh
được - tối thiểu là bây giờ. Thay vì thế, sẽ căn bản hơn – một phương
pháp cho việc trở thành sống động hơn đến sự trãi nghiệm thay đổi liên
tục (thông minh, cảm xúc, cảm giác thân thể, nhận thức sự kiện), và việc
phát triển một sự thông hiểu đã đáp ứng đến một nhân tố (hay một thời
khắc), khi bộ phận nắm toàn quyền sự thật để tập trung và phán xét trong
một cung cách làm giới hạn cái nhìn của chúng ta.
Nó là loại tuệ trí mà Socrates đã nói đến khi ông nói là trong khi ông không biết gì, ông đã biết “điều gì đấy”
từ việc không biết gì. Một cách tương tự, bằng việc khảo sát trong một
phương tiện thiền quán, chúng ta có thể tiếp cận hơi gần gũi hơn để
nhận ra những định kiến làm phiền toái chúng ta như thế nào. Đấy là một
sự tiếp cận mà có thể không chỉ có nghĩa là ít chiến đấu hơn trên sàn
đấu, nhưng là sự trãi rộng lòng khiêm cung củng cố cho sự tìm kiếm tiếp
tục cho những trả lời – chúng ta có thể chấp nhận rằng đấy là một cuộc
chiến đấu ngay cả hình thành những câu hỏi thật tuyệt hảo.
Sẽ không có bất cứ điều gì rõ ràng hay riêng biệt Phật Giáo về một
nền giáo dục, và cũng không nên có (như sư Ajan Amaro [3] nói: “Nếu quý
vị nghĩ quý vị là Phật tử, quý vị hoàn toàn lạc lõng!”). Nhưng sẽ vinh
danh tâm linh của sự thẩm tra cởi mở, hiện thân hoàn toàn mà truyền
thống Phật Giáo có thể cống hiến trong khả năng tuyệt vời nhất.
[1] Goldie Hawn: là một nữ minh tinh điện ảnh Hoa
Kỳ, sinh ngày 21/11/1945. Bà tìm đến với triết lý Đông phương năm
1972. Là một người thực hành Đạo Phật và đã nuôi hai con, một gái một
trai trong cả truyền thống Phật Giáo và Do Thái. Bà thành lập và tài
trợ cho Tổ Chức Hawn, một tổ chức dạy kỷ năng thực tập chính niệm; tổ
chức cho những học sinh từ lớp bốn đến lớp bảy được hướng dẫn thực tập
chính niệm và những kỷ năng suy nghĩ tích cực, sau đó thử nghiệm những
sự thay đổi trong thái độ, năng lực xã hội và cảm xúc, và sự phát triển
đạo đức. Một nghiên cứu cho thấy rằng thiếu niên tham gia chương trình
gia tăng một cách nổi bật trong lĩnh vực lạc quan, và những cảm xúc tích
cực. Hawn đã từng thương thảo với Đảng Bảo Thủ để thiết lập một trường
học ở Anh Quốc áp dụng giáo trình Chính niệm. Bà nhận thức rằng nhiều
bậc cha mẹ chống đối việc đem những phương pháp Phật Giáo vào những
trường công cộng, và mới đây đã tuyên bố trong tạp chí Greater Good
rằng, “Luôn luôn có những người sợ hãi điều này, hay một loại triết lý
Đông phương nào đấy mà họ không muốn con cái họ tiếp nhận.” Và bà nói
thêm, “Chính niệm ban cho thiếu niên một khí cụ để thông hiểu não bộ
chúng hoạt động như thế nào, để có thêm sự tự kiểm soát.”
[2] Atheist: Có lẻ phải phân biệt hai loại vô thần:
Vô Thần Duy Vật và Vô Thần Duy Tâm. Vì Đạo Phật bác bỏ một đấng tạo hóa
tạo ra muôn loài nên Đạo Phật là vô thần, nhưng Đạo Phật với quan điểm nhất thiết duy tâm tạo,
nên Đạo Phật là Vô Thần Duy Tâm. Đương nhiên đối với Vô Thần Duy Vật:
không tin có Thượng Đế, không tin có thế giới tâm linh, thế giới vô
hình, cũng như không có thần thánh. Nhưng thuật ngữ “atheist” tức là
‘không có đấng tạo hóa tạo’ khi dịch là “vô thần” thường bị hiểu lầm
là không có thần thánh đối với Vô Thần Duy Tâm, trái lại Mười Pháp Giới
của Đạo Phật, từ chư Phật - Bồ tát -Thinh văn - Duyên Giác - cõi thiên,
có đến 33 tầng trời - cõi A tu la, một loại bán thiên - cõi người - cõi
súc sinh - đến cõi ngạ quỹ và địa ngục là không thể thấy bằng mắt của
phàm nhân. Nam Mô Hộ Giáo Hộ Giới Già Lam Thánh Chúng Liệt Vị Thiện Thần Bồ tát.
[3] Ajahn Amaro (tên thật là Jeremy
Horner, sinh năm 1956 tại Kent, Anh quốc) là một giáo thọ Theravada và
đồng viện chủ tu viện the Abhayagiri Buddhist
Monastery tại California's Redwood Valley. Trung tâm thực tập theo
truyền thống Thiền Lâm Thái Lan (Thai Forest Tradition).