Câu hỏi đặt
ra ở đây – là một nhà trí thức, suốt đời để tâm nghiên cứu Phật Giáo cũng như
các tôn giáo khác, đồng thời bản thân cần mẫn tiến tu, cuối đời sao ông không
viết một cuốn sách về Phật Giáo thật “cao viễn” mà lại viết về chuyện rất xưa,
“xưa như trái đất” nhưng rất thực
tiễn mà ông bà cụ kỵ chúng ta đã làm - đó là phát nguyện và niệm Phật để cầu
vãng sinh Tịnh Độ?
Tại cái thế giới hữu hạn và vô thường
này, cái chết là chuyện đương nhiên “Nhân
sinh tự cổ tùy vô tử”. (Nguyễn Công Trứ) Một ngày, một giờ, một phút trên
hành tinh này không biết bao nhiêu người từ giã cõi đời, mà thần thức không
biết phiêu bạt về đâu? Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh? Khi hồn đã lìa khỏi xác thì
dù có trăm, ngàn giáo sĩ cầu nguyện van vái cũng chẳng ăn thua gì. Lúc sống
chẳng lo, lúc chết lo sao kip? Cũng như sĩ tử đi thi, chẳng lo “dùi mài kinh sử” khi vào trường thi,
trống đánh thùng thùng thì hồn vía lên mây, bụng dạ, chữ nghĩa đâu mà làm bài
thi?
Chính vì xót thương chúng sinh mà Đức
Phật đã chỉ dạy pháp môn Tịnh Độ để chúng sinh, với cuộc sống quá bôn ba, bận
rộn, đôi khi lười biếng, chỉ cần Niệm Phật cũng có thể vượt qua ba ác đạo và
thẳng tiến lên Cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà hay vãng sinh Tịnh Độ cũng thế.
Theo sự hiểu biết của tôi và cũng
là nội dung của cuốn sách này, đồng thời cũng là sự chỉ dạy của Chư Tổ, cầu
vãng sinh không phải là cầu cho chết sớm mà là cầu sống thư thái, nhẹ
nhàng, đạo hạnh. Người cầu Vãng Sinh từ từ dứt bỏ hoặc dứt bỏ ngay những ràng
buộc, muộn phiền làm khổ ta và khổ người, nhất là lúc lâm chung. Người cầu Vãng
Sinh không bao giờ Sợ Chết, không nuối tiếc ảo ảnh quá khứ mà ngay sau khi
chết, hoan hỉ tiến lên Thế Giới Cực Lạc của Phật A Di Đà để “đồng cư” với các bậc hiền thánh khác, tiếp tục cuộc hành
trình cao cả là tiến lên Phật quả mà mình không đủ khả năng hoàn tất ở Thế Giới
Ta Bà.
Chúng ta hãy nghe tác giả giải
thích “ Xin nhắc lại là tất cả mọi người
đều cũng có cơ hội đó. Nếu ta biết nắm lấy cơ hội đó thay vì chỉ suy nghĩ ,
mong cầu, tiếc nuối hoặc ước vọng lang bang thì cơ hội đó sẽ mất không tìm thấy
một lần thứ hai. Vậy thì cơ hội đó là lúc nào? Đó là lúc ta ngáp ngáp trên
giường bệnh. Lúc đó thật đau đớn, thật hoang mang, thật nuối tiếc, thật hối hận
nếu đã tạo một lỗi nặng, thật lo ngại nếu những người thân chưa ổn định được
cuộc sống. Nhưng dù có những vấn đề được đặt ra, chúng ta cũng không thể làm
được bất cứ điều gì cả ngay ở thời điểm đó. Vậy tốt hơn hết là bỏ hết…Đó chính
là lúc ta thoát khỏi cái Ngã và tâm ta quyết hướng dẫn ta đi theo Đức Phật A Mi
Đà, (*) Đức Đại Thế Chí, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Các ngài sẽ đón ta lúc sắp lâm
chung dưới hình thức những hóa thân hoặc những luồng ánh sáng rõ ràng.” (Tr. 12
& 13)
Để làm nòng
cốt cho cuốn sách, tác giả đã trình bày bốn Lá Thư Tịnh Độ của chính tác giả
gửi cho Cư Sĩ Diệu Âm ở Úc Châu vào năm 2007 để luận bàn về vãng sinh.
- Trong lá thư thứ nhất, tác giả viết “Gần đến ngày đó (vãng sinh) có người tổ chức
một đạo tràng niệm Phật, có người mở tiệc chay ăn mừng lúc chia tay những người
thân dưới sự chứng kiến của hàng ngàn người.” Rồi “Ánh sánh tiếp dẫn của Đức A-Mi-Đà và các vị Bồ Tát được nhiều người nhìn thấy,
có quay Video. Có thân nhân còn cảm thấy mùi thơm. Thân xác người chết sau bốn
giờ trở lên vẫn còn mềm mại, hồng hào thay vì nét mặt kinh hoàng…” (tr. 23)
Và về phương diện y khoa, “Người ta dùng
cách đo nhiệt độ trên thân thể người sắp chết và người chết rồi để biết được
người nào vãng sanh.” (tr. 24)
- Trong lá thư thứ hai, tác giả đề cao pháp môn niệm
Phật, pháp môn duy nhất để vãng sinh Tịnh Độ. Nhưng tác giả nhắn nhủ hai điều:
Thứ nhất, vãng sinh không có nghĩa là trả hết nghiệp. Thứ hai, “Nếu ta cầu xin vãng sinh mà còn sợ chết thì
chữ Tín (trong Tín, Nguyện, Hành) kể như chưa nghiêm túc lắm” (tr. 29), tức bán tín, bán nghi. Một giải đáp quan trọng
khác trong lá thư thứ hai này là “Nếu
chúng ta coi Tịnh Độ là 100% sức tu trì của chúng ta thì Thiền, Mật Tông, Sám
Hối có cần thiết nữa không? Tôi cho rằng vẫn cần thiết vì nó hỗ trợ cho hạnh
nguyện vãng sanh của chúng ta chứ không có sự đối nghịch nào ở đây.” (tr.
30)
-Trong lá thư thứ ba, vào ngày Chủ Nhật, đi chùa, sau
hai tiếng đồng hồ qùy dưới Phật đài đọc Tứ Hoằng Thệ Nguyện (**), tác giả luận
bàn với một số bạn đạo và họ thường hỏi nhau “Hiện nay vấn đề quan trọng nhất của đời mình là gì?” (tr. 42) Tất
cả đều đồng ý là “Không ai muốn trở lại
làm người nữa.” (tr. 42) Điều này hoàn toàn đúng. Những ai đã từng tin
Phật, đã từng đọc sách Phật đều sợ hãi cuộc sống nơi cõi Ta Bà này kể cả những
người đã tột đỉnh vinh hoa, phú quý. Đến như Cụ Nguyễn Công Trứ, đã làm tới đại
tướng rồi mà còn phải thốt lên:
Kiếp sau xin chớ làm người.
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
chứ đừng nói chi đến những người bình thường phải chạy vạy
tối tăm mặt mũi để vươn lên trong cuộc sống đầy khổ lụy này. Mà muốn không trở
lại làm người để xoay vần trong thế giới ngũ trược, ác thế này nữa, với sức lực
quá yếu kém của chúng ta, không còn cách gì khác hơn là dựa vào tha lực, tức sự
tiếp độ của Phật A-Mi-Đà.
-Trong lá thư thứ tư, tác giả khẳng định niềm tin
kiên cố, hành trì niệm Phật, giữ giới rất quan trong cho sự vãng sinh.
Phần kế
tiếp tác giả giới thiệu hai bộ kinh A Di Đà, Quán Vô Lượng Thọ và 48 Hạnh Nguyện của Phật A Di Đà - trụ cột của
pháp Tịnh Độ. Rồi Kinh Thủ Lăng Nghiêm (phần Niệm Phật Viên Thông), Kinh Hoa
Nghiêm (Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát). Bên cạnh đó, tác giả khuyến khích mọi người ăn
chay để giảm bớt hoặc chấm dứt nghiệp sát sinh để con đường tiến vào Tịnh Độ
giải thoát thênh thang rộng mở.
Có lẽ phần
quan trọng nhất của cuốn sách này nằm trong chương Tóm Tắt Phép Tu Của Tôi
và chương Hỏi - Đáp từ trang 136 tới trang 151.
Chương Tóm Tắt Phép Tu Của Tôi: Tác giả tâm tình “ Tôi đã chọn sau khi sau khi nghiên cứu rất
kỹ không những Đạo Phật mà cả các tôn giáo khác nữa. Tôi đã chọn và không xem
sự lựa chọn của tôi là đúng nhất…Tôi đã chọn pháp môn niệm Phật sau khi đã thử
khá nhiều các phương thức khác.” (tr.136) Thế nhưng bên cạnh việc Niệm Phật, tác giả thầy cần “Làm các việc tốt đẹp có nghĩa là ta phải bố
thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và mở mang trí tuệ.” (tr.
139). Lời nhắn nhủ sau cùng là “ Nếu ta
còn chấp ngã nặng, còn tự ái tối đa là ta còn rất khó vãng sanh.” (tr.
142).
Chương Hỏi-Đáp: Có những đoạn vấn đáp rất hay. Tôi
xin trích ra một vài đoạn.
Hỏi: “Một tín đồ ngoại đạo hỏi rằng, ta xin dựa
vào sức gia trì của Phật A-Mi- Đà để được vãng sanh Tịnh Độ thì cũng chẳng khác
gì chúng tôi xin Thượng Đế để vãng sanh ở cõi trời. Vậy khác nhau ra sao?” Đáp: “Khác nhau là người Phật tử cầu xin Đức Phật A-Mi- Đà nhưng thật ra
không phó mặc hoàn toàn cho Phật mà niệm Phật là dựa vào Phật A-Mi- Đà để khơi
dậy cái phần Phật tính trong mỗi tâm chúng ta. Phần Phật tính này đã có sẵn, sẽ
được Phật A-Mi-Đà đưa về cõi Tịnh Độ. “
Hỏi: “ Đạo Phật có phải là một tôn giáo bi quan,
yếm thế không? “
Đáp: “Nhất định là không. Đức Phật thấy đời là bể
khổ nên chỉ dẫn cho ta vượt ra ngoài. Ngài hướng dẫn cho chúng ta có một Thân
Tâm An Lạc, như vậy sao gọi là bi quan, yếm thế được!”
Tôi hoàn toàn đồng ý với lý giải
của tác giả. Bi quan yếm thế là thấy đời toàn là một mầu đen và không lối
thoát. Bày ra những lối thoát để con người vượt qua những bất hạnh của cuộc
sống, rồi làm thăng hoa hay “nở hoa” cuộc sống thì đó là đạo cao thượng chứ
không phải đạo yếm thế.
Trong một đoạn hỏi đáp khác, theo
kinh điển Phật Giáo, tác giả khẳng định rằng không có một “linh hồn” bất biến
và cố định như quan niệm của một vài tôn giáo khác. Mà nó là tập hợp của Thọ,
Tưởng, Hành, Thức tùy duyên mà biến hiện. Nó “Biến thành Trí rất kém cỏi ở loài súc sinh. Biến thành Trí rất đói khát
ở loài Ngạ Quỷ. Biến thành Trí rất đau khổ ở Địa Ngục. Biến thành trí vất vưởng
nơi cuối bãi đầu ghềnh như nhà thần giao cách cảm (ngoại cảm) Phan Thị Bích
Hằng nói về thần thức của một cán binh chết chết chôn ở một bãi cát nhưng lại
là nhà tắm của một nông dân. Dù hài cốt đã dời về quê nhưng đam mê của anh ta
cứ mãi kéo hồn anh lưu luyến nơi này để lén nhìn cô gái tắm truồng. Nhưng cũng
thần thức đó nếu do tu hành mà lên
được Cõi Tịnh Độ thì tâm linh đó biến thành bốn trí: Sở Tác Trí, Diệu Quan Sát
Trí, Bình Đẳng Tánh Trí và Đại Viên Cảnh Trí.” (tr. 148) Hay nói khác hơn
đó là trí tuệ của chư Phật.
Ở phần cuối, tác
giả giới thiệu một số bài đọc thêm như Ý Nghĩa Tràng Hạt của Tỳ Kheo Thích
Phước Thái, Lời Khai Thị của Đại Sư Ấn Quang.
Lời Kết: Sách không dày, chỉ 173 trang, chữ lớn cho các bậc cao
niên dễ đọc, lời văn chân tình, mộc mạc, bày tỏ quyết tâm của tác giả lúc lâm
chung sẽ không sa vào ba ác đạo Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh, cũng không muốn sinh lên Cõi Trời
hưởng dục lạc mà chưa thoát khỏi sinh tử luân hồi, ngay từ bây giờ chuẩn bị
Vãng Sinh Tịnh Độ, “tạm cư” ở Tịnh Độ
để tiếp tục tu hành và có thể 1 triệu
600 năm nữa “Cho đến khi Đức Di Lặc ra
đời, chúng ta sẽ cùng xuống thế với Ngài – cũng như nhiều vị cao minh khác đã từng
xuống thế với Phật Thích Ca” để thực hiện hạnh nguyện Bồ Tát.
Sách in để
biếu tặng tất cả các Phật tử thân kính, không bán. (***)Quý vị muốn có sách xin
liên lạc với tác giả theo địa chỉ:
BS. Nguyễn Thanh Giản
2304 Monte Vista Dr.
Pinole, CA 94564
ĐT: (510) 758-0346
Đào Văn Bình
( California
19-12- 2010)
(*) Trong suốt cuốn sách tác giả dùng danh từ
A-Mi-Đà Phật thay vì A Di Đà Phật với lý do giải thích nơi trang 36: “Cả hai
cách gọi đều đúng. Cách gọi thứ nhất (A-Mi-Đà) thì giống âm hơn. Người Tàu gọi
là Amituofo. Còn cách thứ hai A Di Đà Phật đã có từ ngàn xưa và xem ra vẫn có
hiệu quả đưa ta về Cực Lạc”
(**)Tứ Hoằng Thệ
Nguyện bao gồm: Chúng sanh vô biên
nguyện độ tận. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Pháp môn vô thượng thệ
nguyện học. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
(***) Dù sách biếu
không, cũng xin quý vị gửi theo cước phí để chia xẻ gánh nặng với tác giả nếu phải
gửi biếu vài trăm cuốn.