Cách
đây hơn một thế kỷ, tại những quốc gia bị ngọai bang đô hộ, đất nước bị
chia cắt, văn hóa bản địa bị triệt hủy, tâm linh dân tộc bị nhục mạ,
dày xéo thì kẻ không ngoan biết thời biết thế đã chạy theo
ngọai bang để kiếm miếng đỉnh chung rồi quay trở lại kết tội và chửi
rủa ông bà tổ tiên mình. Tại Việt Nam trong bối cảnh mà:
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới chân ông cử ngổng đầu rồng (Trần Tế Xương)
Và khi nhà cửa, đình, chùa, miếu đền của đất nước tan nát:
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây (Nguyễn Đình Chiểu)
…thì tưởng nhớ hoặc tiếc thương hồn dân tộc chỉ là những tiếng khóc
than hoặc tiếng thở dài. Ngay cụ Tản Đà muốn bày tỏ lòng ái quốc cũng
chỉ dám nói bóng nói gió:
Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non.
Rồi nhà thơ Vũ Đình Liên muốn hồi tưởng lại uy linh của dân tộc năm xưa cũng chỉ đặt một dấu chấm hỏi:
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Thật đau khổ cho dân tộc Việt Nam với một quá khứ huy hoàng. Thế nhưng
bây giờ thì có khác. Sau khi thóat khỏi ách đô hộ, các quốc gia độc lập
đã học được bài học xương máu là nếu không phục hồi lại khí phách và tâm
linh dân tộc thì không thể nào đòan kết để đối đầu với những cuộc xâm
lăng của đủ thứ loại ngọai bang, công khai cũng như ngấm ngầm dưới mọi
hình thức. Sự trỗi dậy của các quốc gia Hồi Giáo, ngọai trừ hành động
quá khích của thiểu số, nó còn là một nỗ lực để bày tỏ khí phách và bảo
vệ giá trị tâm linh mà họ nghĩ rằng giá trị đó lúc nào cũng có thể bị
Tây Phương xâm thực và hủy họai. Vậy thì tâm linh dân tộc là cái gì mà
người ta phải dùng xương máu để bảo vệ? Chỉ cần nhìn vào thực tế chúng
ta sẽ thấy ngay câu trả lời. Chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm
rằng tâm linh của dân tộc Do Thái là Do Thái Giáo. Tâm linh của các dân
tộc Âu Châu, Canada, Úc Châu, Hoa Kỳ là Ky Tô Giáo, tâm linh của dân tộc
Ấn Độ là Ấn Độ Giáo…và hiển nhiên tâm linh dân tộc của Tích Lan, Tây
Tạng, Miến Điện, Lào, Trung Hoa, Nhật Bản, Thái Lan, Căm Bốt và Việt Nam
là Phật Giáo. Thế nhưng khác với các Thần Giáo, tâm linh dân tộc của
các xứ thấm nhuần tư tưởng Phật Giáo, chính yếu không phải là sự tuân
phục và thờ phượng thần linh - mà là sự thể nhập giáo lý một cách hài
hòa vào cuộc sống. Tại đây, sự thờ phượng là thứ yếu còn “cứu khổ độ
sanh, hộ quốc an dân” mới là cứu cánh. Đối với người Việt Nam, tâm linh
của dân tộc rất linh thiêng nhưng không huyền bí. Nó không huyền bí vì
nó không dựa vào Thần Linh. Đó là niềm tin vào giáo lý của Đức Phật bằng
xương bằng thịt, rồi từ đó rút ra những giá trị đạo đức cao nhất, rồi
chan hòa trong cuộc sống qua một thời gian rất dài rồi trở thành truyền
thống dân tộc. Chính tâm linh này đã soi rọi cho cách cư xử, nếp nghĩ,
phương châm hành động của ông bà chúng ta trong mấy ngàn năm, chẳng hạn
như:
- Chị ngã em nâng.
- Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ.
- Thương người như thể thương thân.
- Chín bỏ làm mười.
- Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.
- Làm lành lánh dữ.
- Ở hiền gặp lành.
- Hiếu thảo, báo đáp công ơn sinh thành.
- Báo tứ trọng ân (Ân tổ tiên, ân đất nước, ân Tam Bảo, ân đồng bào và nhân loại)
- Tháng Bảy ngày Rằm xá tội vong nhân…
Và chính ngôi chùa, qua bao ngàn năm kia đã là biểu tượng cho tâm linh
đó một cách tự nhiên. Cứ thử nhìn vào cấu trúc và sinh họat của làng
quê, xã thôn Việt Nam thì sẽ thấy:
- Đình làng là nơi hội họp để bàn về việc làng, việc nước, việc vua,
việc quan. Nó là biểu tượng của uy quyền thế tục. Tại đình làng phải có
tôn ti, trật tự và thứ bậc đâu vào đó. Đình làng sắp đặt thể lệ, thuế
má, đôi khi cũng trở thành tòa án để xét xử những vụ tình yêu trai gái
vụng trộm v.v.. Thành Hòang Làng là vị thần mà dân làng tin tưởng sẽ đem
lại mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt vì ngày xưa người dân sống về
nông nghiệp.
- Miếu, Văn Miếu để ghi công và thờ phượng các danh nhân, các bậc sĩ phu
của đất nước như miếu thờ Cụ Cao Bá Quát, Cụ Nguyễn Du, Cụ Chu Văn An,
Bà Công Chúa Liễu Hạnh, Cụ Ôn Như Hầu, Cụ Nguyễn Công Trứ, Cụ Nguyễn
Trãi, Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Cụ Lê Quý Đôn v.v.. Miếu và Văn Miếu biểu
tượng cho văn hóa dân tộc.
- Đền là nơi thờ phượng các vị anh hùng hoặc các vị có công dựng nước
như đền thờ Vua Hùng, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Bà Lê Chân, đền thờ Vua Lê
Đại Hành, Vua Đinh Tiên Hòang, Vua Lý Thái Tổ, Đức Thánh Trần, Vua Lê
Lợi, đền thờ Vua Quang Trung v.v..Đền thờ các anh hùng là biểu tượng
sống động của lịch sử và khí phách dân tộc. Tới Đền Kiếp Bạc để chiêm
bái Đức Thánh Trần chúng ta thấy khí phách hào hùng của dân tộc đã đánh
tan ba cuộc xâm lăng của Đế Quốc Nguyên Mông.
- Còn Ngôi Chùa là nơi thờ Phật và hiển nhiên là biểu tượng tâm linh của dân tộc, mà một vị nào đó đã nói:
“Mái chùa che chở hồn dân tộc”
Tất cả những gì nói ở trên, những sinh họat của Đình, Chùa,
Miếu, Đền của làng quê Việt Nam đã kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa từ mấy
ngàn năm để trở thành bản sắc dân tộc. Dưới đây chúng ta sẽ nói thêm về
những nét đẹp, nét dễ thương, nét hiền hòa, nét đôn hậu, nét trữ tình,
nét từ bi, nét bao dung của ngôi chùa.
1) Mái chùa không phải là nơi gieo rắc oan khiên mà là chỗ giải
oan. Chính vì vậy mà Đạo Phật không gieo rắc oan khiên cho nhân lọai là
như thế đó. Bao nhiêu ân oán giang hồ hễ tới chùa thì phải tiêu tan.
Chùa không phải là nơi phân xử đúng sai, có tội hay không có tội. Chùa
là nơi xả bỏ tất cả những gì gọi là Đúng Sai. Đạo đức của chùa nằm ở
lòng Từ Bi, Hỉ Xả. Muốn biết Đúng Sai, muốn biết có tội hay không có tội
xin đến tòa án, đến ông luật sư, đừng đến chùa.
2) Chùa không phải là nơi bàn bạc âm mưu khuất lấp mà cửa chùa rộng
mở. Nhà chùa không có gì phải che giấu cho nên Phật Giáo không có dòng
tu kín. Chỗ hành thiền, chỗ ở của ni /sư, nhà trù, nơi thọ trai, chánh
điện, nơi thờ Tổ …mọi người có thể thăm viếng. Sự linh thiêng của một
ngôi chùa không phải là phép mầu hoặc là nơi bao trùm bí mật…mà là giới
luật, đạo hạnh của sư, ni.
3) Mái chùa không phải là nơi mưu việc thống trị thiên hạ mà là
nơi cứu khổ độ sanh. Chùa không phải là trung tâm quyền lực của đất nước
hay của thế giới. Trung tâm quyền lực của đất nước nằm ở quốc hội, nằm ở
chính phủ, nằm ở người dân. Chùa không phong chức cho ai. Chùa không
ủng hộ ai mà cũng không bài bác ai. Chùa không phải là nơi chia chác lợi
lộc ngoài đời. Trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn,
nhiều Thánh tăng đã trở thành quốc sư, sứ thần của triều đình nhưng chùa
không bao giờ là nơi để thế gian thậm thụt tới lui xin xỏ quyền chức.
4) Mái chùa không phải là nơi gom góp tiền bạc, mà là nơi chu cấp
cô nhi, giúp người nghèo khó. Tiền bạc của đàn na thí chủ thì được dùng
vào việc phước thiện. Bởi vì đạo Phật quan niệm rằng không có sự giàu có
và phước báu nào bằng Bố Thí. Chất chứa của cải, vàng bạc đầy kho chỉ
là biểu hiện của lòng Tham. Đạo Phật là đạo diệt Tham chứ không phải là
đạo ôm ấp, bảo vệ lòng Tham. Người Nam trước đây có câu nói thật dễ
thương “Tiền Chùa”. Mượn tiền của người ta xài đã đời rồi không trả, chủ
nợ tức quá hỏi “Bộ tiền chùa hả?” Tiền chùa là tiền ai đến xin cũng
được. Chùa chỉ cho không và không bao giờ tính lời, tính lãi.
5) Dù bao nhiêu hưng-phế, bao cuộc hý trường, cười đau khóc hận đã
qua nhưng trái tim của chùa, tấm lòng của chùa vẫn hằng trụ, vẫn bất
biến, không bị hoen ố theo thời gian đó là cái Tâm Lành và Thủy Chung
với đất nước. Chùa có thể bị phá tan, nhưng chùa không bao giờ bị khuất
phục bởi bất cứ thế lực Cường Quyền, Thực Dân, Đế Quốc, Xâm Lược nào.
6) Qua vài ngàn năm, mái chùa là hình ảnh quen thuộc đã đi vào tiềm
thức của dân tộc. Tại sao thế? Bởi vì chùa - nơi mà sư cụ, sư bác thì
hiền từ, sư bà, sư cô thì dịu dàng. Đời sống của chùa đơn sơ đạm bạc,
phong cảnh chùa thì tịch tĩnh nên thơ, tiếng chuông chùa êm ả như tiếng
tỉnh thức của lòng mình:
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng (Chu Mạnh Trinh)
Mùa xuân Tết đến, sau những ngày vui chơi với gia đình, làng nước, người
người bảo nhau đi lễ chùa. Khi xuân còn phơi phới, lòng người hân
hoan, gió xuân hiền hòa, trăm hoa đua nở…thật trên đời không có gì đẹp
hơn là Đi Lễ Chùa.
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem Cầu Thê Húc xem Chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Bút Tháp chưa mòn
Hỏi ai xây dựng nên non nước này? (Ca Dao)
Chính vì thế mà Hội Chảy Chùa Hương là một hội lớn của dân tộc, giống
như những cuộc hành hương về Mecca mỗi năm của hằng triệu người Hồi
Giáo.
Hôm nay đi Chùa Hương
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy
Em vấn đầu soi gương (Nguyễn Nhược Pháp)
Thế nhưng lễ chùa để làm gì đây? Trước hết để cho tâm hồn thanh thản,
trút bỏ bớt muộn phiền, xả bỏ bớt Tham-Sân-Si, rồi nhân đó thắp một nén
nhang cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ. Sau đó đóng góp một phần nhỏ làm
công đức với chùa, rồi một phần lại đem về. Nhưng khác với đồ ăn thức
uống hoa trái chưa cúng Phật. Những gì sau khi đã cúng Phật rồi đều đựơc
coi là lộc đem lại tốt lành cho gia đình. Người Việt mình cứ tin như
thế cả ngàn năm rồi và cả tôi nữa, dù ở trên đất Mỹ hơn 25 năm cũng vẫn
tin như thế. Bữa cơm chay ở chùa dù là tương chao, dưa muối vẫn linh
thiêng hơn là bữa cơm thịnh sọan ở nhà. Chính vì thế mà người Tây Phương
thấy lạ là tại sao người Việt Nam, người Trung Hoa cứ thích tới chùa ăn
cơm chay. Xin thưa đó là nét đẹp của dân tộc chúng tôi mà nếu không
phải là người Việt Nam hoặc người Trung Hoa thì quý ngài không sao hiểu
được.
7) Mái chùa còn là nơi nương náu khi chúng ta gặp họan nạn, cùng
đường mà không ai dung chứa. Lỡ dại yêu nhau, sinh con không tiền nuôi
nấng, sợ làng xóm chê cười bèn đem con bỏ chùa. Do đó nhiều chùa đã trở
thành cô nhi viện để nuôi nấng trẻ em bạc phước. Chẳng hạn như Chùa Bồ
Đề ở bên kia sông Hồng, Chùa Đức Sơn ở Hương Thủy, Huế đã nuôi nấng, dạy
văn, dạy võ thuật cho 198 trẻ em khuyết tật hoặc mồ côi hoặc bị cha mẹ
bỏ rơi, để các em tự tin, dũng cảm để tự vượt qua nỗi bất hạnh của cuộc
đời. Mới đây nhất là chuyện một mục sư Nam Hàn đã vào chùa để lánh nạn
suốt 34 năm trời. Rồi chuyện của nhà độc tài quân phiệt khét tiếng Nam
Hàn là Tổng Thống Chun Doo Hwan sau khi hết quyền hết thế, bị lôi ra tòa
kết án tử hình. Cuối cùng phải cạo đầu, xin nương náu ở chùa, sau được
giảm án thành chung thân rồi được ân xá. Dĩ nhiên chùa đâu phải là nơi
dung chứa tội phạm. Thế nhưng khi một kẻ gặp bước đường cùng như thế,
nhà chùa làm sao có thể đuổi họ ra ngòai? Cửa chùa rộng mở là tôn chỉ
của chư tăng, ni mà. Cho nên kẻ phạm tội có thể tạm thời lưu tại đó cho
đến khi nhà chức trách biết được và mời ông ấy đi, chứ chùa không xua
đuổi ai cả.
8) Mái chùa còn là bối cảnh nảy nở bao mối tình đẹp như hoa còn
truyền tụng cho tới ngày nay. Trong Bích Câu Kỳ Ngộ Tú Uyên đã gặp Giáng
Kiều nơi cảnh Phật:
Ngọc Hồ có đám chay tăng ,
Nức nô cảnh Phật, tưng bừng hội Xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân ,
Ngổn ngang mã tích xa trần thiếu ai .
Thưởng Xuân sinh cũng dạo chơi,
Thơ lưng lưng túi, rượu vơi vơi bầu.
Rồi quan huyện Từ Thức, đẹp trai, hào hoa, may mắn gặp Tiên Nữ cũng tại
một ngôi chùa nổi tiếng của Huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh. Rồi chuyện Vua
Lý Thánh Tông đi thăm Chùa Dâu mà gặp cô thôn nữ tên Yến Loan tại đây.
Vua ưng ý đem về cung phong làm Ỷ Lan Phu Nhân, sau là Nguyên Phi cuối
cùng là Hoàng Thái Hậu. Bà sinh cho Vua hai hoàng tử nối dõi ngai vàng.
Nếu Vua không đi chùa, may mắn gặp cô Yến Loan thì chắc chắn sẽ tuyệt tự
vì năm đó Vua đã 40 tuổi mà không con. Có lẽ vì giai thọai này được
truyền tụng trong dân gian cho nên những ai hiếm muộn đều đến Chùa để
xin Phật Bà Quan Âm ban cho một mụn con gọi là “con cầu tự”. Chuyện cầu
tự có thể thấy trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam.
9) Ngày nay do xã hội phát triển quá nhanh, nhanh đến chóng mặt và nhiều
hư hỏng, cám dỗ cho nên nhu cầu giáo dục thanh-thiếu-niên là nhu cầu
bức thiết. Chính vì thế mà chùa đã trở thành trung tâm sinh họat của các
đoàn sinh Gia Đình Phật Tử. Các em đến đây để sinh hoạt, vui chơi, huân
tập để trở thành một công dân tốt được trang bị bằng những giá trị đạo
đức vững chắc, khi trưởng thành vào đời cố gắng vươn lên, góp phần vào
việc lành mạnh hóa xã hội và không quên giúp đỡ kẻ khác trong tinh thần
Bi-Trí-Dũng. Chùa làm bao lợi ích cho đời như thế cho nên những ai nói
rằng chùa yếm thế, chỉ lo việc Đạo không lo việc Đời hoặc “trốn việc
quan đi ở chùa” kẻ là thiếu hiểu biết hoặc ác khẩu.
10) Hiện nay trên tòan thế giới, từ Âu sang Á, thậm chí cả Phi Châu,
Tân Tây Lan, Úc Châu, Ấn Độ đã có khỏang 300 ngôi chùa do ni, sư Việt
Nam trụ trì. Dù có nơi còn rất khiêm tốn và chỉ như một ngọn đèn rất nhỏ
trong đêm tối. Thế nhưng dù là một ngọn đèn nhỏ vẫn là ngọn đuốc Từ Bi
và Trí Tuệ được thắp lên, những chủng tử lành bắt đầu được gieo trồng.
Mỗi bộ tộc, mỗi quốc gia đều có lương tâm và đạo đức riêng của họ. Nhưng
muốn thế giới này tồn tại trong yên vui thì con người cần phải có một
nền đạo đức chung. Chúng ta hãy nghe học giả Moni Bagghee nói “ Thế giới
ngày nay ngày càng hướng về Đức Phật vì ngài là người duy nhất tiêu
biểu cho lương tâm của nhân lọai.” (*) Cho nên sự hiện diện của ngôi
chùa, dù bất cứ ở đâu sẽ là biểu tượng của một nền đạo đức cao cả nhất
mà con người cần phải vươn tới. Chúng ta có thể tin tưởng vững chắc điều
này như nhà bác học Albert Einstein đã khẳng định cách đây hơn nửa thế
kỷ “ Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo tòan cầu, vượt lên trên
mọi Thần Linh, Giáo Điều và Thần Học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả
phương diện Tự Nhiên lẫn Siêu Nhiên đặt trên căn bản của ý thức đạo lý,
phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lãnh vực nói trên, trong cái
Nhất Thể đầy đủ ý nghĩa. Phật Giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó.”
(*)
Lời Kết:
Trải bao hưng phế, chùa đã nổi trôi theo dòng lịch sử và gắn
liền với vận mệnh dân tộc. Khi nào đất nước hưng thịnh, tự chủ thì chùa
chiền đông đúc, trăm họ âu ca, giáo lý hiền hòa phổ cập trong dân gian.
Khi nào đất nước loạn ly, ngọai xâm dày xéo thì chùa chiền tan nát và
cũng là lúc mà tâm linh của dân tộc tan nát, trầm vong!
Kinh qua lịch sử đau thương của những thời kỳ mất nước, và
nhìn vào những xung đột của thế giới ngày hôm nay chúng ta thấy vũ khí
tối tân để bảo vệ đất nước là điều phải có, nhưng sức mạnh của một dân
tộc không hoàn tòan nằm ở vũ khí. Một dân tộc muốn kết thành một khối
hùng mạnh nó phải dựa trên ba trụ cột: Văn Hóa, Khí Phách (Lịch sử) và
Tâm Linh. Chúng ta có thể mua vũ khí ở nước ngòai, nhưng chúng ta không
thể chờ hoặc nhờ ngọai bang tới để dạy dỗ văn hóa dân tộc, rao giảng,
truyền bá khí phách và tâm linh cho dân tộc chúng ta. Cứ thử tưởng tượng
ngày mai đây, tất cả các nhà thờ tại Âu Châu, Hoa Kỳ biến mất và được
thay vào đó bằng các thánh đường Hồi Giáo thì Hoa Kỳ và Âu Châu có còn
là Hoa Kỳ và Âu Châu nữa không? Ngược lại, tại các quốc gia Trung Đông
và Ả Rập, các đền thờ Hồi Giáo biến mất và được thay bằng các nhà thờ Ky
Tô Giáo thì Trung Đông và Ả Rập có còn là Ả Rập và Trung Đông nữa
không? Như vậy, xét về mặt tâm linh dân tộc, ngôi chùa là một biểu tượng
linh thiêng bất khả thay thế. Vậy thì đối với người Việt Nam, tô thắm
cho các ngôi chùa, khuyến khích mọi người đi lễ chùa, duy trì sự hiện
diện của ngôi chùa - là bảo vệ tâm linh và bản sắc dân tộc. Muốn đất
nước tồn tại, độc lập, hùng mạnh, tự chủ và phát triển trong tinh thần
nhân ái mà không mất bản sắc, thì từng giây, từng phút chúng ta không
thể phó mặc tâm linh của dân tộc muốn ra sao thì ra. Nói khác đi không
thể phó mặc chùa còn hay mất, sao cũng được.
Cước chú: dấu (*) Trích trong Đạo Phật Dưới Cái Nhìn Của Các Nhà Trí Thức: Buddhism in the Eyes of Intellectuals
Đào Văn Bình
(23 Tết Nhâm Dần, 2010)