Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
SỨC KHỎE ĐẦU TUẦN.
25/12/2012 10:24 (GMT+7)





.

Sự đào thải tổchức ghép là nguyên nhân lớn nhất khiến các ca ghép mô tạng thất bại. Với sựcảnh giác của hệ miễn dịch, cơ thể xem cơ quan lạ đó là “kẻ thù” và tìm cách "đuổi" nó đi. Để khống chế quá trình này, bệnh nhân cần dùng thuốc chống thải ghép.

Sau khi ghép, để phòng ngừa hiện tượng đào thải, người ta đã sử dụng các thuốc ức chế hoặc ít ra cũng hạn chế các phản ứng miễn dịch. Về phương diện này, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều phân tử tác động lên nhiều giai đoạn của các phản ứng miễn dịch để giới hạn sự phát triển những phản ứng này. Đó chính là các chất loại bỏ phản ứng miễn dịch (immunosuppresseurs = IMS).

Hai nhóm thuốc đầu tiên được sử dụng trong lĩnh vực này là corticoid và azathioprine (thường được phối hợp với nhau). Từ lâu, người ta đã biết corticoid là chất kháng viêm mạnh, đồng thời cũng có tác dụng IMS. Điều bất lợi là việc dùng nhóm corticoid lâu dài sẽ dẫn đến các tác dụng phụ bất lợi cho người bệnh.

Từthập niên 80 thế kỷ 20, thuốc Ciclosporine A (Sandimum) bắt đầu được sử dụng đểphòng ngừa sự đào thải trong các ca ghép thận, kết hợp với corticoid hoặc azathioprine (Imurel). Chất này được ly trích từ một vi nấm, cho phép giảm bớt liều dùng corticoid, kéo dài sự sống của mô ghép trong cơ thể. Nhưng ciclosporine cũng có những tác dụng phụ, đặc biệt là trên thận. Độc tính ấy giờ đây đã được kiểm soát bằng cách giảm liều qua theo dõi định lượng máu 2 giờ sau khi dùng thuốc. Ngoài ra, ciclosporine còn làm tăng huyết áp và sự phát triển nang lông, dẫn đến chứng rậm lông.

Các thuốc IMS trở nên phong phú và đa dạng ở những năm 1990. Tacrolimus (Prograf) có mặt trên thị trường và trở thành chất dùng xen kẽ với ciclosporine nhờ được trình bày dưới dạng dễ hấp thu hơn (Neoral). Rồi acide mycophénoliqueđược các nhà chuyên môn sử dụng để tạo nên cơ chế chống đào thải hiệu quả nhất. Sự kết hợp nhiều loại dược phẩm nhóm này cho phép bệnh nhân theo đuổi việc điều trị chống đào thải mô ghép, đồng thời kéo dài tuổi thọ của mô ghép. Cuối thập niên 90, những chất kháng thể mới như basiliximab (Simulect) và daclizumab (Zenapax) được tung ra thị trường, góp phần hoàn thiện nhóm thuốc IMS, đạt được tác dụng chống đào thải mô ghép thật hiệu quả trong những ngày đầu sau khi mổ.

Từ năm 2000, nhiều thuốc mới đã xuất hiện như sirolimus (Rapamune), éverolimus (Certican), góp phần mang lại hiệu quả trong việc ghép tim.

Hiện nay, các viện nghiên cứu dược phẩm đang tiến hành tìm kiếm những phân tử mới thật đặc biệt, vừa tăng tác dụng chống đào thải vừa làm giảm độc tính của thuốc IMS. Mục tiêu của các cuộc nghiên cứu là tìm ra những phương pháp mới cho phépđạt được sự cân bằng tối ưu giữa hiệu quả điều trị và khả năng dung nạp của bệnh nhân, giúp họ có thể theo đuổi lâu dài liệu pháp cấy ghép và nâng cao chất lượng sống của mình.

 

Chuyên đề 2: Sử dụng thuốc kháng khuẩn bôi ngoài da

Có nhiều loại bệnh da, nhiều tác nhân bên ngoài gây nên các thương tích ngoài da có thể bịnhiễm trùng, làm mủ, rất lâu lành và khi lành sẽ để lại sẹo. Ngoài việc dùng thuốc kháng sinh toàn thân, chúng ta cần phải săn sóc chỗ da bị bệnh và bôi thêm thuốc kháng khuẩn tại chỗ. Vấn đề đặt ra là việc chỉ định dùng và cách dùng các thuốc bôi này như thế nào cho đúng.

Chỉ định dùng thuốc

- Dùng cho các bệnh nhiễm khuẩn da như: viêm nang lông, viêm da mủ, mụn trứng cá, viêm quầng, chốc, chốc loét, loét sâu quảng, nhọt và nhọt cụm...

- Trong các bệnh da có bội nhiễm: chàm bội nhiễm, tổ đỉa bội nhiễm, bệnh da bóng nước, ghẻbội nhiễm v.v...

- Trong các bệnh nội tạng có biểu hiện ra da: tiểu đường, loét lỗ đáo trong bệnh phong, loét da do tì đè khi bệnh nhân phải nằm lâu do hôn mê, tai biến mạch máu não...

- Chấn thương làm rách da, trầy da có thể bị nhiễm trùng.

Một số thuốc bôi có tính kháng khuẩn

- Các dung dịch sát khuẩn: nước muối sinh lý 0,9%, thuốc tím pha loãng nồng độ 1/10.000 dùng để rửa các vết thương, vết trầy sước do chấn thương, các vết loét.

- Thuốc đỏ,dung dịch xanh Méthylène, Eosine, Milian, Castellani ... có tính sát khuẩn tại chỗ, bôi tại chỗ để phòng và chống bội nhiễm.

- Các chếphẩm cream có pha các kháng sinh như Gentamycine, Tétracycline v.v... Các thuốc này được các hãng dược phẩm pha chế sẵn với một nồng độ thích hợp, đôi khi được thêm vào thuốc kháng viêm có Steroids và (hoặc) thuốc kháng vi nấm.

- Thuốc kháng khuẩn tại chỗ Bactroban: Thuốc có tên khoa học là Mupirocin, đây là một kháng sinh tại chỗ mới, phổ diệt khuẩn rộng có hoạt tính chống lại hầu hết các vi khuẩn gây nhiễm trùng da. Thuốc này dễ sử dụng, có hiệu quả tốt và ít tác dụng phụ, chưa có sự đề kháng của vi khuẩn.

- Dầu mù u là một loại thuốc bôi có tính sát khuẩn tốt, nhất là trong những trường hợp vết loét da lâu ngày do bệnh nhân nằm lâu. Dầu mù u là một loại thuốc cổ truyền vàđã được các thầy thuốc áp dụng rộng rãi.

Một số lưu y khi dùng thuốc kháng khuẩn tại chỗ

- Không tự ý lấy các thuốc kháng sinh toàn thân để dùng tại chỗ. Ví dụ: Rắc bột Penicilline hay Streptomycine lên vết thương, vì dùng kháng sinh nguyên chất, liều tác động lên tại chỗ rất cao sẽ làm kích thích da. Mặt khác, cách dùng thuốc như thế dễgây ra dị ứng và gây sốc phản vệ có thể làm chết người.

- Phải tuân thủ các nguyên tắc về việc sử dụng thuốc bôi ngoài da nói chung.

- Cần kết hợp "trong uống ngoài xoa", nhưng chú y sự tương tác của thuốc. Vì vậy tốt nhất là, nên có chỉ định của bác sĩ khi dùng thuốc.

 

Chuyên đề 3: Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả

Nguyễn Văn Tuấn

“Báo nguy! Tỉ lệ người Việt khám ung thư quá thấp.” Đó là tiêu đề của một bản tin trên một tờ báo tiếng Việt tại California. “Báo nguy”! “Ung thư”! Toàn những danh từ nghe qua phát sợ. Bài báo còn cho biết“Ung thư đứng hàng thứ hai sau bệnh tim về nguyên nhân tử vong ở California và trên toàn quốc. Phương thức cốt yếu để đề phòng ngừa là các cuộc xét nghiệm rà ung thư hầu phát hiện sớm khi bệnh dễ chữa trị nhất, và trong nhiều trường hợp, có thể chữa khỏi hoàn toàn.”.

Phát hiện ung thư sớm, điều trị có khả năng thành công cao. Đó là thông điệp mà một số người trong giới y tế không ngừng cho chúng ta biết. Thoạt đầu mới đọc qua những bản tin như trên thì thấy quá có lí: phát hiện sớm, chữa trị sớm, hết bệnh. Có gì phải bàn cãiđâu! Ấy thế mà có đấy. Nói phát hiện sớm để có thể chữa trị sớm là gián tiếp đề cập đến một giả định: đã có phương pháp chữa trị hiệu quả. Nhưng cũng như nhiều chuyện khác, đó là một giả định không đúng, và câu phát biểu trên quá đơn giản, đơn giản đến độ nguy hiểm. Hai nghiên cứu mới nhất vừa công bố trên tờ tập san New England Journal of Medicine (NEJM) và tập san của Hiệp hội Y khoa Mĩ (Journal of the American Medical Association hay JAMA) cung cấp cho chúng ta vài bài học đắt giá về cách hiểu và diễn dịch hiệu quả của các chương trình truy tìm ung thư.

Trong số các bệnh ung thư, ung thư phổi là một bệnh nguy hiểm nhất. Nguy hiểm là vì số trường hợp tử vong do bệnh này gây ra thuộc vào hàng cao nhất so với các bệnh ung thư khác [1]. Ở nước ta, ung thư phổi ở đàn ông là loại ung thư phát sinh với tần số cao nhất (với tỉ lệ 39 trên 100,000 dân số tại Thành phố Hồ Chí Minh) so với tất cả các bệnh ung thư khác [2]. Do đó, có thể hiểu được tại sao chúng ta tìm mọi phương cách để phát hiện bệnh càng sớm càng tốt, với hi vọng sẽ điều trị trước khi ung thư phát triển đến giai đoạn khó cứu chữa. Một trong những phương pháp đó là chương trình truy tìm ung thư bằng X quang hay các thiết bị hiện đại khác mà giới y tế Tây phương gọi là “screening”.

(Động từ screen không phải dễ dịch, vì nó không có nghĩachiếu phim hay che chắn; nó có nghĩa đen là sàng lọc. Khái niệmscreening cũng giống như khái niệm truy tầm những tên khủng bố trong nước Mĩ vậy. Nói một cách tóm tắt, giới chức dựa vào những thông tin liên quan đến đối tượng và từ đó ước đoán xác suất đối tượng có thể là một người có tiềm năng khủng bố. Do đó, tôi dịch chữ cancer screening truy tìm ung thư, vì trong thực tế nó là một cách truy tìm.)

Vấn đề đặt ra là các chương trình truy tìm ung thư như thế có hiệu quả hay không. Năm ngoái (2006), một bài bào công bố trên tập san NEJM kết luận rằng chương trình truy tìm ung thư phổi bằng CT (một dạng X quang ba chiều) có thể cứu sống bệnh nhân ung thư phổi [3]. Ngay sau khi công trình nghiên cứu được công bố, các nhóm vận động truy tìm ung thư ở Mĩ phátđộng một chiến dịch thông qua các tài tử điện ảnh và các ngôi sao thể thao đểkêu gọi mọi người nên tham gia vào các dự án truy tìm ung thư phổi.

Nhưng mới tuần qua (7/3/2007), tập san JAMA công bố một nghiên cứu khác [4] với kết luận rằng truy tìm ung thư bằng máy chụp cắt lớp điện toán tia xoay (spiral CT) không những vô hiệu quả, mà còn có thể gây tác hại cho bệnh nhân vì những phẫu thuật không cần thiết và có khi nguy hiểm.

Tại sao hai công trình nghiên cứu qui mô, được công bố trên hai tập san y học hàng đầu của Mĩ (và thế giới) lại đi đến hai kết luận hoàn toàn trái ngược nhau? Để trả lời câu hỏi này, thiết tưởng chúng ta cần phải hiểu rõ khái niệm truy tìm ung thư và những khía cạnh “kĩ thuật” đằng sau mục tiêu của các chương trình truy tìm ung thư.

Để trả lời câu hỏi này, cần phải thông hiểu hai khái niệm căn bản trong dịch tễhọc: khả năng sống sót (survivorship) và tử vong (mortality). Hai khái niệm này có liên quan, nhưng khác nhau, và phân biệt được có thể giúp cho chúng ta không hiểu lầm về các báo cáo y khoa. Có thể hiểu hai khái niệm này qua một ví dụ sau đây: Giả dụ một quần thể gồm 100 người, và tất cả đều tham gia vào chương trình truy tìm ung thư trong vòng 10 năm. Trong thời gianđó, chương trình truy tìm ung thư phát hiện được 30 người bị ung thư; và trong số này có 20 người tử vong vì ung thư trong thời gian theo dõi. Sau thời gian theo dõi nghiên cứu (sau 10 năm) còn có thêm 5 người nữa tử vong. Tỉlệ sống sót trong thời gian theo dõi là 80%; tỉ lệ sống sót ở bệnh nhân được chẩn đoán ung thư là 33.3%. Thế nhưng, con số thực tế là 75% và 16.7%, tươngứng; nhưng con số này không có báo cáo vì chương trình truy tìm ung thư đã kết thúc!

Do đó, nếu chỉ dựa vào tỉ lệ sống sót rất dễ sai lầm. Một “hiệu ứng” khác của vấn đề thẩm định hiệu quả của các chương trình truy tìm ung thư là vấn đềmà giới dịch tễ học gọi là “lead-time bias” (tôi tạm dịch là “hiệu dịch thời gian” mượn khái niệm bias trong vật lí học). Yếu tố này phát biểu rằng đơn thuần phát hiện bệnh sớm (như qua chẩn đoán bằng spiral CT trong các chương trình truy tìm ung thư) lúc nào cũng gia tăng chỉ số khả năng sống sót. Hãy xem xét một ví dụ cụ thể: Bệnh nhân A tham gia chương trình chẩn đoán sớm (screening), được chẩn đoán bị ung thư lúc 60 tuổi, và tử vong ởtuổi 70. Như vậy bệnh nhân này sống được sau khi chẩn đoán là 10 năm. Trong khiđó bệnh nhân B, vì không tham gia vào chương trình chẩn đoán sớm, bệnh nhân phát bệnh ở tuổi 67, và chỉ sống được sau đó 3 năm. Như thế dễ nhận thấy bệnh nhân A có thời gian sống sau chẩn đoán ung thư dài hơn nhiều so với bệnh nhân B (7 năm). Nhưng trong thực tế hai bệnh nhân A và B đều tử vong và có cùng một tuổi thọ như nhau là 70 tuổi.

Hiểu hai khái niệm đó, bây giờ chúng ta thử đánh giá hai nghiên cứu trên tập san NEJM và JAMA. Trong công trình nghiên cứu công bố trên tập san NEJM [3], các nhà nghiên cứu rà soát 31,567 đối tượng bằng CT và phát hiện 484 (tức khoảng 1.5%) trường hợp ung thưphổi. Tỉ lệ sống sót trong vòng 10 năm ở những bệnh nhân này là 80% — so với tỉ lệ 10% ở những bệnh nhân ung thư phổi trên toàn nước Mĩ.

Công trình nghiên cứu công bố trên tập san JAMA [4] thăm dò 3,246 đối tượng và phát hiện 144 (hay 4.4%) trường hợp ung thư phổi. (Tỉlệ phát hiện trong nghiên cứu này cao hơn vì phần lớn đối tượng là người cao tuổi và được theo dõi lâu hơn). Trong số 3,246 người này, 38 người chết vì ung thư phổi – và con số này tương đương với tỉ lệ tử vong ở những người cùng độ tuổi từng hút thuốc lá và không chụp spiral CT.

Mục tiêu tối hậu của các chương trình truy tìm ung thư là giảm tử vong — tức cứu người. Bởi vì công trình nghiên cứu trên tập san NEJM chỉ xem xét chỉ số sống sót, và do đó không cho chúng ta biết bao nhiêu người đã được cứu sống. Ngược lại, vì công trình trên tập san JAMA phân tích chỉ số tử vong (tức trực tiếp giải quyết mục tiêu của chương trình truy tìm ung thư), và do đó kết quả này cho chúng ta biết được rằng chương trình truy tìm ung thư không có hiệu quả. Kết quả của nghiên cứu trên tập san JAMA cũng phù hợp với các nghiên cứu trước: truy tìm ung thư phổi sớm có thể làm gia tăng chỉ số khả năng sống sót, nhưng không cứu sống bệnh nhân.

Chỉ số khả năng sống sót không phản ảnh được hiệu quả của chương trình truy tìm ung thư. Và, đây chính là sai lầm của kết luận trong bài báo trên tập san NEJM, mà một số bác sĩ và nhà nghiên cứu đã chỉ ra sau khi bài báo được công bố.

Hai nghiên cứu này còn cho chúng ta một khía cạnh khác của các chương trình truy tìm ung thư: Đó là hiện tượng “overdiagnosis” – hay “gán bệnh”. Đây là một vấn đề đáng quan tâm đối với phương pháp CT, bởi vì phương pháp này có thể phát hiện nhiều dấu hiệu bất bình thường hơn là phương pháp chụp X quang thông thường. Nói cách khác, các chương trình truy tìm ung thư thường phát hiện những trường hợp ung thư giai đoạn đầu. Thật vậy, các trường hợp ung thưgiai đoạn I và II hay N0M0 chiếm khoảng 70% đến 93% tổng số trường hợp ung thưphổi phát hiện bằng CT trong các chương trình truy tìm ung thư [5-6] Cụthể, một chương trình truy tìm ung thư phổi ở Nhật cho thấy sử dụng máy chụp spiral CT phát hiện số trường hợp ung thư cao gấp 10 lần so với X quang lồng ngực. Quan trọng hơn nữa, xác suất phát hiện ung thư phổi (qua chẩn đoán bằng máy spiral CT) ở những người hút thuốc lá bằng với xác suất ở người không hút thuốc lá [7]!

Nhưng tất cả các bệnh nhân với chẩn đoán ung thư phổi đều phảiđược điều trị, “gán bệnh” cũng có nghĩa là một số người được điều trị một cách không cần thiết hay điều trị sẽ chẳng đem lại lợi ích sức khỏe cho họ, và có thể gây tác hại. Phần lớn bệnh nhân được chẩn đoán ung thư phổi sớm đượcđiều trị bằng phẫu thuật để cắt bỏ một phần lá phổi, một cuộc giải phẫu lớn với khoảng 5% tử vong trong vòng 1 tháng [8]. Cần nói thêm rằng một phân tích tổng hợp (meta-analysis) năm 2005 cho thấy tỉ lệ tử vong ở những người tham gia các chương trình truy tìm ung thư phổi cao hơn những người không tham gia các chương trình đó [9].

Tuy nhiên, cả hai nghiên cứu (trên tập san JAMA và NEJM) đều không thể xem là kết luận sau cùng được, bởi vì cả hai đều không phải là những nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên, một chuẩn vàng trong nghiên cứu y học. Hiện nay, hai nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên đang được tiến hành (một công trình hợp tác giữa Bỉ và Hà Lan, và một công trình do Viện ung thư quốc gia Mĩ – National Cancer Institute– tài trợ). Kinh nghiệm gần đây cho thấy niềm tin có thể sai trước ánh sáng khoa học. Chẳng hạn như trường hợp thay thế kích thích tố nữ (hormone replacement therapy) ở những phụ nữ sau mãn kinh, những giả định về lợi ích trong điều kiện thiếu chứng cứkhoa học có thể gây tác hại cho bệnh nhân. Để tránh lặp lại sai lầm đó một lần nữa trong y học, chúng ta không nên khuyến khích truy tìm ung thư phổiđại trà bằng các thiết bị đắt tiền nếu chưa có bằng chứng về hiệu quả cứu sống bệnh nhân.

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Văn Tuấn. Truy tìm ung thư: lợi và hại. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ,2007.

2. Anh PH, et al. The situation with cancer control in Vietnam.Japanese J Clin Oncol 2002;32:S92-S97.

3. Henschke CI, et al. Survival of patients with stage I lung cancer detected on CT screening. N Engl J Med 2006;355:1763-71.

4. Bach PB, et al. Computed tomography screening and lung cancer outcomes. JAMA 2007;297:953-61.

5. Nawa T, et al. Lung cancer screening using low-dose spiral CT: results of baseline and 1-year follow-up studies. Chest 2002;122(1):15-20.

6. McWilliams A, et al. Lung cancer screening: a different paradigm.Am J Respir Crit Care Med 2003;168(10):1167-73.

7. Sone S, et al. Mass screening for lung cancer with mobile spiral computed tomography scanner. Lancet 1998; 351:1242-5.

8. Birkmeyer D, et al. Operative mortality with elective surgery in older adults. Effect Clin Pract 2001;4:172-7.

9. Manser R, et al. Surgery for early stage non-small cell lung cancer.Cochrane Database Syst Rev 2005;(1):CD004699

 

Chuyên đề 4: Làm gì khi bị dị ứng mỹ phẩm?

Cùng với sựtiến bộ mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, công nghệ làm đẹp ngày nay cũng có những bước phát triển đáng kinh ngạc trong thế giới của đồ mỹ phẩm, trong các cửa hiệu trang điểm, mỹ viện, việc sử dụng tia la-de chăm sóc làn da... tất cảnhững thành tựu muôn màu sắc ấy nếu được sử dụng hợp lý đúng cách sẽ giúp cải thiện phải đẹp ngày càng đẹp hơn. Tuy nhiên, đôi khi đồ mỹ phẩm và cách sử dụng không hợp lý khiến bạn gái phải chịu những tác hại không đáng có, mặc dù tỷ lệ đồ mỹ phẩm "chơi không đẹp" không nhiều so với số lượng người sửdụng. Theo một cuộc khảo sát quốc tế mới đây, trong số 1 triệu lượt dùng mỹphẩm có khoảng 680 lần bị phản ứng phụ. Tuy nhiên con số người dùng mỹ phẩm bị"khó chịu" trên thực tế còn nhiều hơn thé, nhưng mức độ không đáng phải đến bác sĩ điều trị. Thông kê của các phòng khám da liệu cho thấy có khoảng 10% người mắc bệnh là do s mỹ phẩm, có thể là do dùng "quá liều lượng", dùng sai phương pháp và mục đích, độ kiềm của mỹ phẩm, mỹ phẩm có nhiều chất bay hơi và vị trí sử dụng mỹ phẩm vòng quanh mắt. Ðiều mà bạn gái nên biết về những trường hợp được coi là "dị ứng" với mỹ phẩm là:

-Triệu chứng mà người sử dụng mỹ phẩm tự cảm thấy được như đau rát, ngứa theo từng đợt trong vòng 10 phút, thường mắc phải khi dùng mỹ phẩm trên khuôn mặt.

-Mẩn ngứa. Có thể lúc đầu mẩn ngứa ít rồi chuyển sang nhiều, thành những nốt ban đỏ, mụn nước. Vùng mắt nhất là quanh mắt thường bị hiện tượng này.

-Da mặt bịsưng tấy, đôi khi cảm thấy tức ngực khó thở như bị dị ứng thuốc nhuộm.

-Trên da có vết nhám đen hoặc nhám trắng do một số hoá chất hay chất chiết suất từ thực vậtđể lại dấu vết trên da khi phản ứng với ánh sáng. Một số trường hợp nổi mụn trứng cá.

-Móng tay, móng chân bị tróc, thay đổi màu, viêm nhức do thuốc sơn móng, rửa móng..

-Tóc giòn, gãy, xơ cứng do các loại thuốc nhuộm tóc, uốn tóc... Ngoài ra còn có những tác hại đối với các bộ phận khác của cơ thể, đôi khi để lại di chứng lâu dài.

Những loại mỹphẩm thường gây ra dj ứng: Qua các thử nghiệm y học, đồ mỹ phẩm dễ gây dị ứng nhất do các bạn gái là nước hoa, thuốc mọc tóc, kem làm trắng da, kem chống nếp nhăn, thuốc nước hoặc kem chống mọc lông. Tiếp đó thuốc làm đầu, nhuộm tóc, kem dưỡng tóc, hoá trang mặt, kem trứng cá, kem lót khi trang điểm, son môi, thuốc vệ sinh, kem tăm, thuốc chống nắng, thuốc khử mùi và giảm mồ hôi.

Ðiều bạn gái nên làm khi bị dị ứng mỹ phẩm: Nếu cảm thấy nghi ngờ mình bị bị ứng loại mỹphẩm nào, điều đầu tiên là bạn phải ngừng sử dụng ngay. Khi ngừng rồi mà triệu chứng dị ứng vẫn còn thì phải ngừng tất cả các loại mỹ phẩm mà bạn đang dùng, trừ son môi, mỹ phẩm trang điểm mắt, phấn rôm. Khi triệu chứng dị ứng khỏi có thể dùng dần từng loại một để xác định "thủ phẩm" gây dị ứng. Trong trường hợp bị dị ứng nghiêm trọng cần đến khám và điều trị theo chỉ dẫn của bác sĩ chuyên khoa. Tuyệt đối không cố tình sử dụng mỹ phẩm hoặc tự chữa vì có thểgây nguy hiểm cho bạn.

Cách lựa chọn mỹ phẩm thích hợp: Hiện nay nghệ thuật quảng cáo mỹ phẩm đạt đến trình độ rất cao, dễ làm xiêu lòng bạn gái. Nhưng các bạn nên làm theo lời khuyên chân thành và sáng suốt của các chuyên gia về y tế và thẩm mỹ: - Chọn mua những loại mỹphẩm mà bạn quen dùng và không hề gây dị ứng, không mua theo gười khác hoặc sựgiới thiệu của họ. Trường hợp dùng một loại mỹ phẩm mới phải thử trên một phần da (sau vành tai chẳng hạn) trong vòng 5-7 ngày. Nếu thấy an toàn mới dùng.

-Nên dùng mỹphẩm có nguồn sản xuất và chất lượng tin cậy được.

-Nên mua mỹphẩm có dung lượng lớn dùng được tương đối lâu nhưng trong quá trình dùng phải bảo quản và giữ vệ sinh cận thẩn.

Chuyên đề 5:

Tự chữa say tàu xe, không dùng thuốc và không phản ứng phụ!

Lương y VÕ HÀ

Sáng nay, cô Ph., nhà láng giềng, sau chuyến đi miền Trung về đã đến nhà và hồ hởi báo tin “Nhờ mấy con số anh cho chuyến nầy em đi xe rất thoải mái, không phải uống thuốc gì mà người vẫn nhẹ như mây!”

Cô Ph. 48 tuổi, đã có 5 con, người khoẻ mạnh, quanh năm suốt tháng hiếm khi thấy ốm đau, chỉ hiềm một nỗi mỗi lần có việc phải đi xe hơi là bị chóng mặt, nôn ói, người vả ra như bị tước hết sinh khí. Sống ở miền Nam, lần nầy, cô có việc phải ra Quảng Ngải để rước cô con dâu và đứa cháu nội vừa mới sinh được một tháng. Là người láng giềng, lại xem nhau như thân thuộc, cô thường gọi tôi là anh xưng em. Biết được chuyến đi và nghe cô than thở về nổi khổ bị say xe trên đường dài, tôi đã truyền cho cô một “bí kiếp” hộ thân. Đó là một mảnh giấy nhỏ ghi dãy số 720.640. Cô được căn dặn khi ngồi trên xe, thỉnh thoảng, khi rổi rảnh, hoặc lúc nhớ ra hãy nhẩm niệm trong tâm những con số “bảy hai không sáu bốn không bảy hai không sáu bốn không . . .”.

Hôm nay, cô kể lại, lúc ngồi trên xe thỉnh thoảng cô lại lẩm nhẩm trong miệng dãy số đó, mỗi đợt khoảng 5, 7 lần. Kết quả là suốt trên đường không bị buồn nôn, khó chịu như những lần trước. Sau chuyến đi cũng cảm thấy khoẻ hơn trước nhiều. Đặc biệt, cô con dâu 28 tuổi, vừa sinh con đầu lòng xong, cũng là người vẫn bị chứng say xe từ nhỏ. Nghe mẹ nói, cô cũng bắt chước niệm thử và cũng không bị say xe. Dãy số đã có hiệu quả tốt đối với cả 2 mẹ con.

Cơ chế chống say tàu xe.

Theo các nhà khoa học, say tàu xe là do rối loạn hoạt động ở tai trong làm ảnh hưởng đến cảm giác thăng bằng của cơ thể dẫn đến buồn nôn, nôn ói, chóng mặt, mệt mỏi. Đối với những người bình thường, sự khó chịu sẽ chấm dứt khi xong chuyến đi. Tuy nhiên, đối với những người bị bệnh tim mạch hoặc tiêu hoá, các triệu chứng có thể trầm trọng hơn hoặc thậm chí kéo dài sau chuyến đi.

Triệu chứng quan trọng và điển hình nhất của các chứng say tàu xe là buồn nôn, nôn ói. Theo Đông y, đây là biểu hiện của khí từ dạ dày nghịch lên. Theo học thuyết kinh lạc, dạ dày bị chi phối bởi kinh Dương Minh, một kinh nhiều khí nhiều huyết có chức năng phòng vệ cơ thể chống lại những biến động của môi trường bên ngoài. Do đó, về mặt cơ chế, chống say tàu xe phải bao gồm việc ổn định nội khí ở hạ tiêu và làm cho khí của kinh Dương Minh di chuyển thuận từ trên xuống dưới (thường gọi là thuận khí hay chống khí nghịch).

Chữa say tàu xe bằng tượng số bát quái.

Trong cách chữa trên, nhẫm đọc dãy số 720.640 là nhằm vận dụng phối hợp một số quy luật của khí công, chu dịch và y học truyền thống. Theo tượng số bát quái, số 7 là tượng số ứng với dạ dày thuộc dương thổ, số 2 là tượng số thuộc kim ứng với ruột già. Nhẫm đọc 720 sẽ gây ra hiệu ứng thuận khí ở kinh Dương Minh. Trong liệu pháp tượng số, khi nhẩm đọc một nhóm số, khí của con số trước sẽ chuyển cho khí ứng với con số sau. Như vậy, khi nhẫm đọc 720, khí ở kinh Dương Minh thay vì nghịch lên phía trên sẽ chuyển thuận xuống vùng ruột già theo quy luật tương sinh (Thổ sinh Kim). Do đó, đối với chống say tàu xe, nhóm số 720 là số chánh. Ngoài ra, số 6 là tượng số của Thận, số 4 là tượng số của Can, nhóm số 640 thêm vào có tác dụng dưỡng huyết, bổ Can Thận âm. Một trong những lý do của hư Hoả, của khí nghịch là âm hư. Ở đây, dùng 640 với mục đích bổ âm để tàng dương. Theo liệu pháp tượng số bát quái, số 0 được thêm vào các nhóm số để gia tăng tính hoạt hoá của hai khí âm hoặc dương. Dấu chấm ở giữa là dấu chỉ ngưng một tíc tắc khi đọc nhằm ngăn cách 2 nhóm số với tác dụng khác nhau. Trên thực tế, người bệnh có thể đọc liên tục bảy hai không sáu bốn không bảy hai không sáu bốn không . . . Say xe chỉ là những triệu chứng rối loạn khí hoá. Do đó, sự phối hợp của 2 nhóm số vừa giáng khí vừa tàng dương có thể nhanh chóng tạo sự ổn định chân khí nơi hạ tiêu để chống say xe.

Tác dụng dưỡng sinh của dãy số 720.640.

Nhóm số 640 có thể dưỡng âm bổ thận. Nhóm số 720 ngoài hiệu ứng giáng khí nghịch còn có tác dụng kích hoạt dương thổ, tăng cường khí hoá ở Tỳ Vị, giải phong hàn ở kinh lạc. Sự phối hợp của 2 nhóm số gồm đủ hai thuộc tính âm dương nên không sợ phản ứng phụ mà còn có những tác dụng dưỡng sinh nhất định. Ngoài ra, dãy số 720.640 còn có thể dùng để chữa một số trường hợp bệnh lý do âm hư gây ra như nhức đầu, mất ngủ, viêm xoang mãn tính hoặc một số trường hợp đau lưng, đau khớp do phong hàn.


Chúc các bạn luôn vui-khỏe...NDD

Các tin đã đăng:
Về đầu trang