Bệnh cao áp huyết là đệ
nhất cao thủ hợp cùng với tam quái khác là Ðường, Mỡ và Béo gây ra bệnh
tim mạch và tai biến mạch máu não. Bệnh cao áp huyết này còn có biệt
danh là Sát Nhân Thầm Lặng. Theo
cuộc thăm dò của cơ quan Y tế Hoa Kỳ, thì trên 10 triệu người Mỹ trong
số 43 triệu mắc bệnh cao áp huyết không biết là mình bị bệnh này. Còn
trong số những người biết mình bị thì có đến 16% không được uống hoặc
không chịu uống thuốc. Ngay cả những ai uống thuốc thì lại có đến hơn
50% áp huyết vẫn còn bị cao không hạ xuống theo đủ tiêu chuẩn.
Bác
sĩ hay cho biết 2 con số sau khi đo áp huyết: số đầu gọi là systolic
pressure (Huyết áp Tâm Thu) đo lường sức ép trên mạch máu khi tim co lại
và số thứ 2 gọi là diastolic pressure (Huyết áp Tâm Trương) đo sức ép
trên mạch máu khi tim dãn ra. Từ 18 tuổi trở lên: systolic dưới 130mm Hg
và diastolic dưới 85mm Hg là bình thường, nếu con số trên 140/90 thì
được coi là áp huyết cao, và chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1 = 140-159 (systolic) và 90-99 (diastolic)
Giai đoạn 2 = 160-169 (systolic) và 100-109 (diastolic)
Giai đoạn 3 = > 180 (systolic) và > 110 (diastolic)
Lý do gây ra bệnh:
95%
trường hợp là không biết rõ tại sao bệnh nhân bị (primary hay essential
hypertension): người mập, ít hoạt động thể thao, nghiện rượu, ít ăn đồ
có potassium, hay bị stress, di truyền, tuổi già thường dễ có áp huyết
cao.
Còn dưới 5% là do một bệnh khác gây ra (secondary
hypertension): một số loại bệnh thận, có bầu gần ngày sinh
(preeclampsia), nghẽn mạch máu nuôi thận, bệnh nang thượng thận
(pheochromocytoma, Cushing). Nếu bạn duới 35 tuổi mà bị áp huyết cao
trên 180/110, dùng nhiều thuốc mà không có hiệu quả, đột ngột có biến
chứng thì bác sĩ hay chú ý nhiều hơn để tìm một trong những nguyên do
vừa liệt kê.
Một vài bệnh nhân khi gặp bác sĩ hoặc y tá đo thì
trên 140/90 một chút, nhưng trở lại bình thường ở nhà thường được gọi là
"sợ bóng vía bác sĩ" (white coat hypertension), không nhất thiết phải
uống thuốc.
Triệu chứng bệnh cao áp huyết:
Bệnh
này thường không có triệu chứng ở vào thời gian đầu, bác sĩ khám phá ra
bệnh nhân cao áp huyết khi khám tổng quát hàng năm, hay khám vì một lý
do nào khác vì thế được mệnh danh là sát nhân thầm lặng. Có vài người
than phiền nhức đầu, hơi mệt, choáng váng mặt mày, tim đập mạnh nhưng
không đúng hẳn là do áp huyết cao gây ra. Nếu áp huyết đột ngột lên trên
180/110 thì may ra mới có triệu chứng như hoa mắt, nôn mửa, nhức đầu
mạnh (malignant hypertension).
Về lâu về dài nếu không chữa trị đúng mức sẽ gây ra nhiều biến chứng:
Bệnh sơ cứng động mạnh gây đau tim (heart attack)
Tai biến mạch máu não (Stroke)
Nhồi máu cơ tim (Congestive Heart Failure)
Suy Thận sẽ dẫn đến bị lọc hoặc thay thận (Kidney Failure)
Hư mắt (Retinopathy)
2. Tiểu Ðường
Bệnh
tiểu đường là một loại bệnh nội tiết thông thường nhất của mọi lứa
tuổi, nhất là những người có tuổi. Ðã có rất nhiều tài liệu, kể cả bằng
Việt Ngữ, nói về đề tài này, nhưng vì sự phổ biến và tầm quan trọng của
bệnh, thiết tưởng có nói thêm về đề tài bệnh Tiểu Ðường cũng không phải
là không có ích lợi.
Thế nào là bệnh tiểu đường?
Ðây
là một tình trạng đường gia tăng trong máu do cơ thể không sử dụng
đường được. Chúng ta phải hiểu "đường" là glucose, một trong 3 thành
phần hữu cơ của cơ thể, hai chất kia là chất đạm (protein) và mỡ
(lipid). Ðối với dân Mỹ da trắng, bệnh tiểu đường chiếm độ 5% dân số,
vào khoảng 16 triệu người mắc bệnh, gồm 8 triệu đàn ông và 7 triệu đàn
bà, và độ 100.000 thanh thiếu niên dưới 20 tuổi so với độ 3,5% dân Châu Á
bị bệnh này.
Mỗi năm độ 650.000 trường hợp mới chẩn đoán và hơn
170.000 người chết vì bệnh tiểu đường, phần lớn do biến chứng. Người
Việt chúng ta có cảm tưởng là khi di cư qua Mỹ, số người Việt mắc bệnh
gia tăng nhiều, điều này không chắc đã đúng, có thể ở Mỹ, nhiều người
được khám phá mắc bệnh tiểu đường do kết quả khám bệnh định kỳ đã tìm ra
những trường hợp khi chưa có triệu chứng hay biến chứng lộ ra ngoài,
còn ở Việt Nam, phần lớn bệnh tiểu đường được chẩn đoán sau khi đã có
biến chứng như nhiễm trùng lâu lành, đau thận, tê chân tay v.v...
Tại sao có bệnh tiểu đường?
Bệnh
này liên quan đến chất Insulin trong cơ thể. Ðây là một kích thích tố
được phân tiết ra từ tụy tạng (pancreas) hay còn được gọi là lá mía (có
người gọi lầm là lá lách (spleen) là một cơ quan của hệ bạch huyết). Tụy
tạng là một cơ quan nằm sâu trong bụng, sau dạ dày và vắt ngang xương
sống lưng. Tuỵ tạng vừa là tuyến ngoại tiết tiết ra điều tố vào ruột non
để tiêu hoá chất mỡ, vừa là tuyến nội tiết tiết ra Insulin vào máu.
Chất Insulin có nhiệm vụ chính trong sự vận chuyển đường vào trong tế
bào nhưng không có vai trò gì trong sự biến dưỡng của đường để tạo năng
lượng. Vì lý do nào đó, Insulin không được sản xuất hoặc sản xuất không
đủ, hoặc dù có được sản xuất ra Insulin bị cơ thể đề kháng không dùng
được, chất đường sẽ không vào tế bào được và ứ đọng trong máu và thoát
ra nước tiểu để sinh bệnh tiểu đường. Tuy nhiên chỉ khi nào đường huyết
cao trên 180mg/dl thì đường mới xuất hiện ở nước tiểu, cho nên nhiều khi
có bệnh tiểu đường mà vẫn không có đường trong nước tiểu là thế.
Có mấy loại bệnh tiểu đường?
Một
cách tổng quát, bệnh tiểu đường được chia làm hai loại chính: bệnh tiểu
đường loại 1, do Insulin không được sản xuất ra, và bệnh tiểu đường
loại 2, do Insulin sản xuất thiếu hay cơ thể đề kháng với Insulin. Loại 1
hay xảy ra ở tuổi trẻ hơn, có thể bắt đầu từ năm mười tuổi trở lên,
chiếm khoảng 10% mỗi trường hợp, loại 2 thường xảy ra ở tuổi lớn hơn
thường trên 50 tuổi, chiếm khoảng gần 90% mọi trường hợp. Về mặt di
truyền, bệnh tiểu đường có thể di truyền trong gia đình, nhưng cách di
truyền thế nào chưa được xác định. Phần lớn bệnh tiểu đường di truyền
thuộc loại 2.
Làm thế nào để chẩn đoán bệnh tiểu đường?
Sự
chẩn đoán bệnh tiểu đường dựa vào triệu chứng và thử máu và thử nước
tiểu. Thường thường bệnh tiểu đường không có triệu chứng trong khoảng
thời gian rất lâu. Trong một ít trường hợp điển hình, người bệnh có thể
hay khát nước, uống nước nhiều, đi tiểu nhiều và ăn nhiều mà vẫn ốm đi.
Những triệu chứng này thực sự không phải là triệu chứng riêng cho bệnh
tiểu đường. Một số trường hợp khác thì bệnh nhân hay bị mệt mỏi, suy yếu
và sụt cân, mắt mờ, tê tay chân, hoặc da khô và ngứa ngáy. Phần lớn
bệnh được khám phá là do thử máu định kỳ hàng năm thấy mức đường cao.
Bình thường mức đường huyết lúc đói từ 60 đến 110mg/dl, khi mức đường
huyết trên 126mg/dl được xem là có bệnh tiểu đường.
Trong
khoảng từ 110mg/dl đến 126mg/dl là nghi ngờ có bệnh tiểu đường, cần
phải làm một thử nghiệm uống đường 75gm đường và đo đường huyết sau hai
giờ. Nếu đường huyết trên 200mg/dl là có bệnh. Trong khoảng gần 10 năm
qua, người ta hay đo lượng Huyết sắc tố AlC (hemoblobin AlC) để thẩm
định mức đường huyết trong 3 tháng qua. Ðây là một thử nghiệm rất có giá
trị để kiểm soát bệnh tiểu đường trong 3 tháng qua có ổn định hay
không. Thử nước tiểu không giúp cho bệnh nhân nhiều vì chúng ta dùng máy
đo đường từ đầu ngón tay chính xác và tiện dụng hơn. Tuy nhiên thử nước
tiểu có thể cho biết thận có bị tổn thương hay không qua chất đạm
(protein) trong nước tiểu. Ngoài khám bệnh hàng năm, người ta nên truy
tầm bệnh tiểu đường trong những trường hợp sau này: mập phì, có nhiều
người trong gia đình mắc bệnh tiểu đường, sinh con trên 9lbs (trên 4kg),
áp huyết cao, cao mỡ cholesterol, hay phụ nữ có thai ở tuổi lớn hơn 25
hoặc đường huyết cao khi mang thai và sau đó trở lại bình thường sau khi
sanh.
Tại sao bệnh tiểu đường nguy hiểm?
Bệnh
tiểu đường, nghe tên bệnh không thôi thì tưởng như không có gì quan
trọng, nhưng thực tế nó đưa đến nhiều biến chứng rất phức tạp nguy hiểm
và khó chữa.
Những trường hợp biến chứng cấp tính như đường huyết
gia tăng quá cao thường trên 400-500mg/dl lên đến trên 1000mg/dl, có
thể làm bệnh nhân hôn mê và suy hô hấp do cơ thể bị khô nước do tiểu quá
nhiều, do nhiễm độc chất acetone và làm máu bị acid hoá. Phần lớn các
trường hợp này xảy ra vì bệnh nhân lơ là trong vấn đề trị bệnh không
dùng đủ thuốc chữa bệnh, hoặc đi kèm với những trường hợp nhiễm trùng,
bị căng thẳng (stress) như đi mổ chẳng hạn.
Những
trường hợp biến chứng kinh niên trong bệnh tiểu đường thì rất nhiều và
trầm trọng. Những biến chứng đó có thể là: biến chứng mắt, quan trọng
nhất là bệnh võng mạc đưa đến mù loà, và mù do tiểu đường là nguyên nhân
chính của các bệnh mù không bẩm sinh. Những bệnh mắt khác có thể là
bệnh mắt cườm, liệt có vận nhãn. Biến chứng thận có thể đưa đến suy thận
mãn tính, cuối cùng phải chạy thận nhân tạo và biến chứng thận do tiểu
đường là nguyên nhân hàng đầu của tất cả các bệnh thận phải lọc thận
nhân tạo. Biến chứng thần kinh ngoại biên làm tê và đau bàn tay bàn
chân, có khi làm chân mất cảm giác và nhiều khi chân bị thương tổn mà
bệnh nhân không hề hay biết, đưa đến nhiễm trùng trầm trọng, và nhiễm
trùng vốn cũng là một biến chứng quan trọng của bệnh tiểu đường. Bệnh
nhân hay bị nhiễm trùng và lâu lành do sức đề kháng bị suy giảm. Phối
hợp với hai biến chứng trên, biến chứng bệnh mạch máu làm nghẽn tắc mạch
máu ngoại biên ở tay chân rất dễ đưa đến chân tay bị hoại tử phải cắt
bỏ chân tay. Những biến chứng khác như bất lực, bệnh trầm cảm, loét chân
.... Nói chung biến chứng kinh niên của bệnh tiểu đường rất trầm trọng,
và một khi đã xảy ra những biến chứng này cứ từ từ tiến tới không ngăn
cản được dù bệnh nhân đang sống ở trên nước Mỹ này, làm bệnh nhân không
chết thì cũng bị tàn phế. Cho nên, phòng bệnh hơn chữa bệnh, người bệnh
phải luôn luôn cố gắng giữ mức đường ở mức bình thường càng lâu càng tốt
bằng cách dùng thuốc men đầy đủ và theo sự hướng dẫn của bác sĩ của
mình và không những về thuốc men, còn cả sinh hoạt hàng ngày và ăn uống
cẩn thận, vận động thể dục thể thao.
Ðể
kiểm soát biến chứng của bệnh tiểu đường, nên có một chương trình khám
định kỳ hàng năm, khám chân và móng tay để tránh nhiễm trùng - khám răng
nướu một hai lần mỗi năm - khám mắt với bác sĩ nhãn khoa
(ophthalmologist) mỗi năm một lần
3. Tam "Rol" (cholesterol)
Khái niệm tổng quát về bệnh cao cholesterol
Cholesterol
là một loại mỡ trong cơ thể. Vì mỡ lưu chuyển trong dòng máu (plasma)
của chúng ta, nó có thể bám vào bên trong của mạch máu và làm nghẽn
những mạch máu nhất là mạch vành tim (coronary arteries).
Cholesterol có trong đồ ăn nhưng cũng được chế tạo ra từ gan (liver) của chúng ta.
Cholesterol
được dùng để làm vỏ của tế bào (cells walls), chất kích thích tố
(hormones), vitamin D, mật xanh (bile acids) v.v.. Nếu lượng cholesterol
trong máu lên cao vì gan chế tạo quá nhiều cholesterol thì bệnh nhân sẽ
bị cao lượng cholesterol trong máu. Từ đó những mạch máu dễ bị nghẽn và
dẫn đến bệnh. Vì chỉ có động vật mới có cholesterol bệnh nhân ăn thịt
sẽ bị lên cholesterol nhiều hơn thực vật. Tuy nhiên, mỡ từ thực vật sẽ
biến chế trong cơ thể bệnh nhân để tạo ra cholesterol. Vì thế ăn nhiều
dầu (tức là mỡ thực vật), sẽ dẫn đến bệnh cao cholesterol.
Những loại mỡ cholesterol
Khi
đi thử máu, phòng thử nghiệm sẽ đo lượng cholesterol tổng cộng, lượng
cholesterol HDL (mỡ tốt), và lượng Triglycerides. Từ đó họ sẽ tính ra
lượng cholesterol (LDL) xấu. Phòng thí nghiệm máu có thể đo lượng
cholesterol LDL xấu nhưng ít khi bác sĩ cần đo như vậy.
Cholesterol
LDL xấu vì nó làm nghẽn những mạch máu dẫn đến bệnh. Cholesterol HDL
tốt vì nó giúp cholesterol xấu ra khỏi mạch máu và làm mạch máu bớt bị
nghẽn.
Sơ lược lịch sử của bệnh cholesterol
Vào
đầu thế kỷ 20, khoa học gia khám phá được chất Nicotinic acid (Niacin)
và Nicotinamide (vitamin B3) là một loại Vitamins B cần thiết trong đồ
ăn. Vào năm 1955, ông Altschul khám phá được tính chất giảm Cholesterol
của Niacin. Năm 1961, bác sĩ Parsons trị cho 50 bệnh nhân bị bệnh cao
Cholesterol và cho biết Cholesterol xấu LDL và Triglyceride giảm 23-29%,
và Cholesterol tốt HDL lại tăng. Ông cũng diễn tả chính xác những ảnh
hưởng xấu của thuốc này (xin xem bài Thuốc Dùng Trị Bệnh Cao
Cholesterol).
Vào thập niên 1960, cơ quan Y Tế Thế Giới (World
Health Organization, gọi tắt là WHO) dùng thuốc Clofibrate để thử trị
bệnh cao Cholesterol. Ðến bây giờ, cuộc nghiên cứu này vẫn là cuộc
nghiên cứu lớn nhất. Hơn 10 ngàn người đã tham dự chương trình thử
nghiệm này. Kết quả vào năm 1978 cho thấy thuốc Clofibrate làm giảm
Cholesterol 8%. Tuy nhiên chương trình khảo cứu này có nhiều khuyết
điểm, và thêm vào đó vì tỉ lệ những người tham gia chương trình khảo cứu
này chết vì các bệnh khác không phải vì bệnh tim mạch khá cao, bác sĩ
đã không xem trọng cuộc khảo cứu lớn này.
Vào năm 1984, kết quả
của cuộc nghiên cứu từ Trung Tâm Khảo Cứu Mỡ (Lipid Research Clinics)
được phổ biến. Hơn 3,8 ngàn người bệnh cao Cholesterol được trị bệnh
bằng thuốc Cholestyramine (Questran). Kết quả cho thấy thuốc
Cholestyramine làm giảm lượng LDL Cholesterol và tăng HDL Cholesterol,
và đồng thời tỉ lệ bệnh tim mạch cũng giảm xuống. Năm 1987, kết quả của
cuộc nghiên cứu thuốc Gemfibrozil (Lopid) từ nhiều trung tâm thuộc
Helsinki Study được phát hành. Hơn 4 ngàn bệnh nhân bị cao Cholesterol
được uống thuốc Gemfibrozil. Thuốc này làm giảm Cholesterol xấu LDL
(11%), giảm mỡ Triglyceride (35%), và làm tăng lượng Cholesterol tốt HDL
được 11%. Tỉ lệ chết vì bệnh tim mạch cũng được giảm xuống.
Vào
năm 1987, cơ quan Food and Drug Administration (FDA) chấp thuận cho
thuốc Lovastatin (Mevacor) được bán ra ở Hoa Kỳ. Thuốc này được bào chế
ra từ một loại thuốc tương tự là Mevastatin (xuất phát ra từ con nắm
Penicillium citrinum). Lovastatin là một khám phá lớn trong lịch sử
thuốc trị bệnh cao Cholesterol, vì đây là thuốc đầu tiên của nhóm thuốc
Statins mà hiện nay đang được thông dụng vì có rất ít ảnh hưởng phụ xấu
mà lại có nhiều hiệu quả.
Từ lúc có Lovastatin, những thuốc
Statins tương tự khác như Pravastatin, Simvastatin, Fluvastatin,
Atorvastatin, Cerivastatin đã được cơ quan FDA chấp thuận bán ra thị
trường. Những cuộc nghiên cứu lớn gần đây như WOSCOPS (Pravastatin),
AFCAPS/TexCAPS (Lovastatin), 4S Study (Simvastatin), CARE (Pravastatin),
LIPID (Pravastatin) chứng minh chắc chắn rằng dùng thuốc Statins để trị
bệnh cao Cholesterol sẽ giúp cho bệnh nhân ít bệnh tim mạch, tai biến
mạch máu não, và sống khỏe, sống lâu hơn.
Cao lượng cholesterol sẽ dẫn đến triệu chứng gì?
Lượng
Cholesterol cao sẽ không gây ra triệu chứng gì cả nhưng cao cholesterol
sẽ đưa đến những biến chứng làm ra triệu chứng bệnh. Nhiều bệnh nhân
nghĩ rằng cao lượng Cholesterol sẽ gây ra nhức đầu, mệt mỏi, khó chịu
trong người. Những điều này không đúng. Nếu chúng ta bị cao lượng
Cholesterol nhưng chưa bị tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim, nghẽn
mạch máu chân, v.v... thì sẽ không có triệu chứng gì cả tuy nhiên một
khi bị rồi thì thường hay quá trễ. Một trường hợp ngoại lệ là những bệnh
nhân có lượng Triglyceride trên 1.000 (ngàn) thì dễ bị sưng tụy tạng
(acute pancreatitis).
Tại sao ta phải trị bệnh cao cholesterol?
Như
đã đề cập ở trên, lượng Cholesterol cao trong máu sẽ dễ dẫn đến những
bệnh tim mạch như nghẽn mạch vành tim, nhồi máu cơ tim (Coronary Heart
Disease), tai biến mạch máu não, nghẽn mạch chân. Vì vậy, làm giảm lượng
Cholesterol trong máu sẽ giúp bệnh nhân tránh hay ít bị những bệnh này.
Bệnh nhân có phải uống thuốc giảm cholesterol suốt đời hay không?
Vì
gan là bộ phận chế tạo Cholesterol trong người của chúng ta, nếu không
có thuốc mỗi ngày thì lượng Cholesterol sẽ từ từ tăng lên. Vì vậy chúng
ta phải uống thuốc giảm Cholesterol mãi mãi. Thế nhưng những bệnh nhân
chịu tập thể dục thường xuyên và cữ ăn theo đúng tiêu chuẩn để lượng
Cholesterol thấp xuống thì có hy vọng bỏ thuốc được. Có nhiều bệnh nhân
bỏ uống thuốc sau khi đã dùng vài tháng vì họ đo lại lượng Cholesterol
và thấy xuống thấp. Ðiều này rất sai lầm vì chỉ trong một thời gian ngắn
thì lượng Cholesterol của họ sẽ bị lên cao trở lại.
Làm thế nào để tránh bị bệnh cao cholesterol?
Vì
cholesterol có trong đồ ăn có nguồn gốc động vật, chúng ta phải ăn ít
những loại đồ ăn như mỡ, thịt, trứng. Nếu uống sữa tươi thì dùng loại
low fat hay nonfat. Vì dầu là loại mỡ có nguồn gốc thực vật và giúp cho
cơ thể chế tạo ra nhiều cholesterol, nên chúng ta cần nên ăn ít những
loại dầu. Những loại dầu dừa hay đậu phộng hay vegetables làm nghẽn mạch
máu nhiều hơn dầu granola hay dầu olive. Chúng ta nên ăn ít lại nếu bị
nặng cân hay bị mập vì giảm cân thì cholesterol cũng giảm.
Chúng ta cũng đừng quên tập thể dục vì thể dục cũng giúp giảm lượng cholesterol LDL xấu và làm tăng lượng cholesterol HDL tốt.
Có khám phá mới gì trong vấn đề trị bệnh Cholesterol gần đây hay không?
Gần
đây bác sĩ đã nghiên cứu được rằng những người đã có bệnh nghẽn mạch
vành tim, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, hay bệnh tiểu đường
thì cần có lượng Cholesterol thấp hơn những bệnh nhân khác. Vì thế,
những bệnh nhân này nên để ý đến lượng Cholesterol và sức khỏe của mình
kỹ hơn.
Vậy lượng Cholesterol bao nhiêu mới được xem là tốt?
Khi
bác sĩ nói đến Cholesterol của bệnh nhân, họ thường đề cập đến lượng
Cholesterol tổng cộng (total Cholesterol). Con số được coi là "trung
bình" nằm vào khoảng 200. Nếu thấp hơn 200 thì được xem là "tốt". Nếu
nằm trong khoảng 200 đến 240 thì được xem là "hơi cao" hay borderline.
Và nếu trên 240 thì xem là cao nhiều. Tuy nhiên, lượng Cholesterol tổng
cộng gồm có Cholesterol xấu LDL, Cholesterol tốt HDL, một phần của mỡ
Triglyceride. Phòng thí nghiệm máu thường chỉ đo lượng Cholesterol tổng
cộng, Cholesterol HDL, lượng Triglyceride và từ đó họ tính ra lượng
Cholesterol LDL. Vì vậy, dùng số lượng Cholesterol cá nhân LDL, HDL, và
lượng Triglyceride sẽ chính xác hơn. Chương trình Quốc Huấn (National
Cholesterol Education Program) khuyên ta nên đo Cholesterol tổng cộng,
lượng Triglyceride và Cholesterol tốt HDL ít nhất 5 năm một lần. Bệnh
nhân cần nhịn ăn sáng trước khi thử. Bắt đầu từ tuổi 20 bệnh nhân cần
thử ít nhất một lần mỗi 5 năm. Nếu lượng cholesterol bị cao thì cần thử
lại thường hơn.
4. Tứ Béo
Việt
Nam nghèo đói nên đa số người Việt thường là nhỏ gầy. Mấy cô mà người
nhỏ nhắn và gầy thì được khen là mảnh mai liểu yếu đào tơ. Mấy anh mà
đôi khi gầy quá chỉ có "da bọc xương" thì được an ủi là có bộ xương cách
trí.
Người
Việt mình bị bệnh còi tức thiếu ăn gây ra bởi các bệnh liên quan đến
thiếu dinh dưỡng. Ngược lại, xứ Mỹ này là xứ dư thừa nên dân Mỹ không bị
bệnh "đói" mà ngược lại bị tốt da dư thịt tức bệnh béo. Người Việt di
cư qua Mỹ chúng ta sống rất hoà đồng với dân bản xứ theo đúng chủ nghĩa
"bình đẳng cấm kỳ thị" (Equal Right Amendment) cho nên cơ thể cũng thay
đổi trở thành phì nhiêu như dân bản xứ Hoa Kỳ theo năm tháng sống trên
đất Mỹ này. Người Việt từ ngày qua đây hết khỏi hẳn bệnh đói thiếu ăn
nhưng lại lây phải bệnh "phì lũ".
Thống kê Hoa Kỳ ước lượng
khoảng hai phần ba dân số Hoa Kỳ là mập hay nặng ký hơn trọng lượng lý
tưởng cho cơ thể và một phần ba dân số là bị bệnh "béo" làm nguy hại cho
sức khoẻ. Ngay cả trẻ em cũng không tránh được bệnh này. Thống kê gần
đây ước lượng khoảng 10% trẻ em tuổi từ hai tới năm tuổi nặng hơn trọng
lượng cần thiết cho cơ thể. Y khoa Hoa Kỳ dù tiến bộ vượt bực nhưng vẫn
chưa chữa được bệnh mập phì. Bệnh mập này hiện được bác sĩ coi là một
bệnh kinh niên (chronic disease) như các bệnh khác như áp huyết, tiểu
đường, mỡ cao cần phải chữa trị lâu dài và hiện đang được coi là mối đe
dọa y tế ở Hoa Kỳ. Chính phủ ước lượng tốn phí khoảng 230 tỷ Mỹ kim mỗi
năm, 20% phí tổn y tế, cho việc chữa bệnh béo và các bệnh liên hệ do
bệnh béo gây ra. Hiện chính phủ Hoa Kỳ đang làm đủ mọi nổ lực để giảm
căn bệnh phát triển "chiều ngang" không biên giới này.
Bệnh mập phì tai hại như thế nào?
Bệnh
mập là đầu dây mối nhợ có thể đưa đến các bệnh khác như tiểu đường, cao
huyết áp, bệnh tim và nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não. Người mập
còn dễ bị bệnh ngáy ngủ, và thiếu dưỡng khí lúc ngủ (sleep apnea). Ðàn
bà mập có tỉ lệ cao bị ung thư vú, tử cung và ung thư túi mật. Ðàn ông
mập có tỉ lệ cao bị ung thư tuyến tiết niệu. Mập làm tăng tỷ lệ ung thư
ruột và bệnh sạn mật, ợ chua lở thực quản, sưng gan. Nghiên cứu mới nhất
gần đây được đăng trong báo y khoa Annals of Internal Medicine tháng 1,
2003 cho thấy bệnh Mập làm giảm tuổi thọ. Phụ nữ hay đàn ông lứa tuổi
40 mà mập thì có thể mất đi ba năm tuổi thọ so với người không mập.
Mập
làm cho cơ thể bị nặng nề ít muốn hoạt động. Hãy tưởng tượng cơ thể
phải vác 10-20 kg thịt mỡ dư thừa mỗi giây phút ngày này qua tháng nọ
thì cơ thể sẽ mệt mỏi như thế nào. Khối thịt mỡ đè nặng lên các khớp
xương lớn như xương sống lưng, xương chân, và háng làm cho các khớp
xương lớn này dễ bị mòn và hư cũng giống như ống nhún xe nếu chở đồ nặng
quá nhiều và lâu ngày thì dễ bị hư và bị gãy. Cho nên người mập dễ bị
đau phong thấp nhất là đau lưng, đầu gối và xương chậu.
Tại sao bị mập?
Mập
là một bệnh tạo ra do sự thiếu quân bằng giữa sự dinh dưỡng (ăn uống và
hấp thụ) và tiêu thụ năng lượng của cơ thể. Một cách giản dị mập là do
mình ăn quá nhiều đồ bổ dưỡng năng lượng nhiều hơn là cơ thể cần dùng
nên các chất bổ dưỡng, đường và mỡ tích tụ lại trong người. Hai yếu tố
chính tạo ra bệnh mập là di truyền và hoàn cảnh sinh sống (environmental
factors):
Bệnh mập do đặc tính di truyền:
nghiên cứu các trẻ em sinh đôi cho thấy bệnh mập bị ảnh hưởng của di
truyền tới 70%. Di thể (chromosome) của bệnh mập được tìm thấy ở
chromosome số 2. Các di thể này ảnh hưởng và kiểm soát sự ham muốn ăn
uống và sự tự đốt năng lượng của bộ phận cơ thể (body metabolic rate).
Môi trường sinh sống:
Người có di thể mập chỉ sẽ phát triển tuỳ vào môi trường sinh sống.
Chẳng hạn bệnh mập ít khi xảy ra ở những nước nghèo khổ thiếu ăn. Một
người có di truyền mập sẽ bị mập nếu sinh sống trong môi trường ăn uống
đầy đủ và thiếu sinh hoạt. Ngược lại, một người có di truyền bệnh mập
nhưng ăn uống chừng mực, hoạt động hàng ngày và tập thể thao đều đặn thì
sẽ không bị mập vì năng lượng tiêu thụ mất đi của cơ thể quân bằng với
năng lượng hấp thụ. Ngược lại, người không có di thể mập nhưng ăn uống
quá nhiều số năng lượng cần thiết thì cũng có thể bị mập "giàu rửng
mỡ!". Ðây là trường hợp xảy ra cho Việt Nam ta. Xứ Hoa Kỳ giàu có tân
tiến, đồ ăn dư thừa, cho nên người Việt di cư cũng được hưởng theo ơn
mưa móc.
Ngày ăn ba bữa chưa kể ăn snack lặt vặt giữa các bữa;
sáng phở điểm tâm, trưa cơm chiên, bánh xèo, bánh cuốn, tối thì cơm
chiên nhậu với thịt bò bít tết. Còn lúc xưa ở Việt Nam thì cơm trắng
ngày chỉ đủ hai bữa; đi bộ, đi xe đạp, nhảy xe lam rượt xe buýt. Ôi kéo
cày lao động vinh quang làm sao! Qua Mỹ thì xe Hoa Kỳ 8 máy chạy êm ru,
máy lạnh mát mẻ, xe chạy dzù dzù, sướng mé đìu hiu thành ra dù nhà hàng
xóm có cách nửa block cũng không đi bộ mà phải lái xe qua. Ði shopping
mua sắm thì phải lựa chỗ đậu xe gần cửa chính của shopping center để
khỏi đi bộ sợ long thể bất an; lên lầu tại sở làm thì có thang máy không
phải đi thang chân. Cuối tuần thì thay vì đi sở thú, đi chơi thể thao,
thì vừa nằm nhà coi "TV thể thao" vừa nhậu nhẹt với bạn bè; vui nữa thì
karaoke vừa vui vừa tiện lợi lại đỡ mệt; hoặc phải đi ăn đám cưới cơm
tàu mười món. Chính vì tiện lợi và ăn nhiều hơn làm cho người Việt mình
cũng to "bề ngang" và "bề dọc" giống như Mỹ đúng như câu "Nhàn cư vi tất
Mập".Ợ Tuổi: khi mình lớn tuổi cơ thể đốt năng lượng chậm đi nên năng
lượng cần thiết cho cơ thể giảm đi. Thêm vào đó lớn tuổi thường ít hoạt
động hơn trẻ thanh thiếu niên. Cho nên người lớn tuổi thường dễ bị mập. Ợ
Tâm lý ảnh hưởng tới thói quen ăn uống. Nhiều người ăn để "giải khuây
hay giải sầu" khi bị buồn, lo âu hay tức giận.Ợ Bệnh - có một số bệnh
gây ra bệnh béo như bệnh yếu bướu cổ; bệnh óc ...Ợ Thuốc - một số thuốc
men có thể làm lên ký ...
Thế nào là Mập (overweight) và là Phì (obesity)?
Hoa
Kỳ rất là thực tế và khoa học chứ không giống như người Việt mình "mập
béo tuỳ người đối diện" hay "trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo
thì lòng mới ngon". Bác sĩ dùng đơn vị gọi là Body Mass Index để định
cho chính xác và khoa học thế nào là vừa cơ thể và sao là mập béo.Body
Mass Index: Y Khoa định bệnh mập và phì theo thể trọng và chiều cao của
cơ thể "Body Mass Index" gọi tắt là (BMI). Tỷ lệ này dựa theo sự tính
toán tỷ lệ của trọng lượng cơ thể so với chiều cao. Tỷ lệ này tương quan
với lượng mỡ trong cơ thể. Tỷ lệ trọng lượng cơ thể này chính xác hơn
là chỉ đo trọng lượng cân không thôi.
Quý độc giả nên làm quen
với phương cách tính tỷ lệ trọng lượng cơ thể body mass index này. Trọng
lượng cơ thể kg chia đôi cho chiều cao cơ thể (meter).
Thí dụ:
một người cao 5feet 6 tức 1,69meter và trọng lượng là 140lbs tức 63,6kg
thì tỷ lệ trọng lượng cơ thể hay BMI là: 63,6/(1,69x2) = 22,6 Dựa theo
bảng BMI mà bác sĩ cho biết cơ thể chúng ta thuộc vào hạng "kiến ròm",
hay "kiến phì lũ".
Ðo vòng eo (waist circumference):
Vòng
eo là một phương cách thông thường đo mỡ bụng. Nghiên cứu cho thấy
người có bụng bự tức nhiều mỡ bụng có nguy cơ cho các bệnh tim và mạch
máu dù là cơ thể tổng quát coi không mập. Người Việt mình thường khen
người có bụng bự kiểu ông địa là phúc hậu. Tuy nhiên, về phương diện y
khoa thì bụng bự có thể là "yểu tướng" vì dễ bị bệnh và chết sớm. Ðàn
ông nếu vòng eo trên 40 inches (102cm) và đàn bà vòng eo trên 35,5
(88cm) thì có tỷ lệ nguy cơ dễ bị bệnh. Tuy nhiên nếu chiều cao thấp hơn
5 feet thì vòng eo giới hạn trên không áp dụng được.
Tỷ lệ vòng eo trên vòng mông (waist to hip ratio):
Tỷ
lệ vòng eo chia cho vòng mông cũng là phương pháp đơn giản để đo bệnh
mập. Mỡ tập trung ở vòng bụng tăng tỷ lệ nguy cơ bị bệnh hơn là mỡ tập
trung ở mông hay đùi. Nếu người có tỷ lệ của vòng bụng so với vòng mông
lớn hơn một thì dễ bị bệnh tim và các bệnh liên quan do bệnh béo. Phái
nam tỷ lệ dưới 0,9 và cho phái nữ dưới 0,8 là tốt. Cho nên "bụng eo đít
to" như mấy cô kiểu mẫu không những đẹp người mà còn tốt tướng nữa.Một
vài phương cách khoa học khác để đo tỷ lệ mỡ cơ thể như đo độ dày của da
mỡ (skin fold), đo điện cơ thể, đo tỷ trọng cơ thể trong nước
(underwater immension).
Làm sao để tránh bị mập?
Căn
bản rất đơn giản tránh bị mập là giữ cân bằng năng lượng hấp thụ vào
trong cơ thể (qua ăn uống) với năng lượng tiêu thụ bởi cơ thể (qua hoạt
động, thể thao và năng lượng cần thiết cơ bản nuôi cơ thể). Thí dụ với
một người cao một thước năm và nặng 50 kí lô và làm công việc nhẹ ngồi
bàn 8 tiếng mỗi ngày thì cơ thể cần 1500 calories mỗi ngày. Nếu người
này ăn trên 2000 calories mỗi ngày thì cơ thể sẽ dư 500 calories mỗi
ngày và năng lượng tích tụ lại làm cho bị mập. Ngược lại, nếu người này
ăn bớt đi giới hạn năng lượng lại chỉ ăn 1000 calories mỗi ngày và thêm
vào đó tập thể thao đốt 500 calories mỗi ngày thì cơ thể sẽ thiếu hụt
1000 calories mỗi ngày. Ðể có đủ năng lượng cần dùng cơ thể sẽ phải tiêu
thụ các mỡ thặng dư trong cơ thể biến chế thành năng lượng để tiêu xài
và như vậy cơ thể sẽ mất mỡ và người xuống cân.
Ăn uống
Thức ăn:
Nên dùng nhiều rau, trái cây, thức ăn có chất sợi, cá, thịt nạc thay vì
thịt ba rọi, thịt mỡ; sữa ít béo hay không béo (low fat hay nonfat
milk); tránh ăn đồ ăn ngọt như bánh kem, cookies. Tránh ăn chè nhất là
các chè với nước cốt dừa rất nhiều cholesterol và cao năng lượng. Tránh
uống các loại nước ngọt soft drinks, nước trái cây (fruit juice); nên
uống nhiều nước mỗi ngày; nếu thèm uống nước ngọt thì uống loại diet.
Cách sửa soạn nấu ăn:
Hấp, nướng hay luộc tốt hơn là chiên xào. Ăn cá hấp hay cá nướng cuốn
bánh tráng tốt hơn là cá tẩm bột chiên, chả giò hay tôm chiên.
Nghệ thuật ăn: Mỹ
có câu "You are what you eat". Việt Nam ta có câu hơi tương tự "Ăn để
mà sống, chứ không phải sống để mà ăn". Cho nên để tránh bị mập nên thực
hành câu "ăn lấy hương lấy hoa" chứ không ăn lấy, ăn để, ăn cố... vì dĩ
nhiên ăn càng nhiều thì năng lượng hấp thụ càng cao thì người càng phì.
Tránh đừng ăn vặt :
Ði ra một viên kẹo đi vô một miếng bánh. Những đồ ăn nầy làm rất nhiều
mỡ và đường mà ngon miệng cho nên tay bốc miệng nhai quen miệng ăn hoài
nhưng không làm no bụng. Nhiều bệnh nhân của tác giả bị mập nói với tác
giả rằng chẳng ăn gì mà cứ lên cân hoài nhưng lúc hỏi kỹ lại thì các bữa
ăn thì ăn không nhiều thật nhưng ăn lặt vặt giữa các bữa ăn tới chục
bánh cookies và chục viên kẹo, đậu phọng.
Bỏ tật ăn đồ ăn thừa
của con hay người khác để lại vì sợ đổ đi phải tội. Không biết ai bị tội
khi phải bỏ đồ ăn thừa đi nhưng nếu ăn cố thì tội bụng mình và cơ thể
mình vì ăn như vậy sẽõ ăn quá phần trong khi để bớt năng lượng mình cần
ăn bớt phần ăn lại.
Ăn ba bữa đều đặn mỗi ngày nhưng ăn cho đủ no
đừng quá ăn cố vì ngon miệng hay ăn tham. Tránh đừng nhịn đói bỏ các
bữa ăn để diet rồi đói quá. Cách nhịn ăn như vậy không tốt vì cơ thể
thiếu ăn sẽ làm mình mệt mỏi không sinh hoạt bình thường được. Thêm vào
đó lúc bị đói quá thì ăn lấy ăn để ăn bù thành ra ăn hơn là không diet.
Ba nữa là nếu nhịn đói cơ thể sẽ tự động đốt bớt năng lượng để tự bảo vệ
cho nên không giúp giảm cân nhiều như ăn đều đặn nhưng ít phần.
Nếu
đi ăn tiệm hay đám cưới mà sợ ngon miệng ăn quá độ thì có thể ăn ít
trái cây và uống nhiều nước trước khi đi cho bụng hơi no. Khi ăn nhai đồ
ăn chậm và kỹ như vậy giúp để no ăn đủ phần chứ không ăn mau ăn mạnh ăn
cho chóng lớn chóng phì và tránh "mắt to hơn bụng".
Ăn khi buồn
bã hay tức giận làm cho người thêm năng lượng không cần thiết. Ăn như
vậy làm thành thói quen xấu. Ăn khi không đói và không cần ăn và tránh
trực diện vấn đề cần phải giải quyết. Hãy "uốn lưỡi bảy lần" trước khi
cho đồ ăn vô miệng. Khi buồn hay tức giận hãy tập thể thao thay vì mở tủ
lạnh kiếm đồ ăn. Tránh đừng để "cái miệng hại cái thân".
HOẠT ÐỘNG
-Năng
hoạt động tập thể thao ít nhất 3 tới 5 ngày mỗi tuần, mỗi lần khoảng
30-50 phút và cần phải tập cho chảy mồ hôi, tim đập nhanh. -Các thể dục
tốt như đi bộ lẹ, đi bộ lên dốc, chạy bộ, nhảy dây, xe đạp, bơi lội ...
Nên tập cho khoẻ cho dẻo dai chứ không phải thành đô lực sĩ loại kiến
càng vai u thịt bắp.
-Ði bộ lên hay xuống cầu thang thay vì dùng thang máy." Ðậu xe ở xa để đi bộ vô các chỗ shopping hay sở làm.
-Cắt cỏ, làm vườn, rửa xe ...
-Chơi
thể thao thay vì nằm coi thể thao vì coi thể thao chỉ tập được bắp thịt
mắt mà thôi không tập được các bắp thịt khác của cơ thể và hoàn toàn
không đốt được năng lượng nào cả.
Phương cách chữa bệnh phì:
Phương
cách chữa bệnh béo là tránh đừng để bị béo, "tránh voi chẳng xấu mặt
nào" và nếu đã bị mập rồi thì ráng giữ đừng để lên cân nữa. Một vài điểm
chính trong việc chữa bệnh béo là tuỳ theo độ béo nhiều hay ít và người
béo có các nguy cơ bị bệnh tim và các bệnh khác có thể bị trầm trọng
hơn vì bệnh mập.
Ðối với bệnh nhân chỉ bị bệnh béo mập mà không
bị bệnh khác thì chỉ cần tập thể thao đều đặn và tránh đừng để lên cân
nữa cũng đủ hơn là phải ráng xuống cân. Bác sĩ nhận thức được rằng làm
cho bệnh nhân xuống cân nhiều là một điều rất khó làm và thiếu thực tế.
Khoảng phân nửa những người xuống cân sẽ lên ký trở lại trong vòng 5
năm. Ðiều khích lệ là nghiên cứu cũng cho thấy bệnh nhân bệnh mập phì
chỉ cần làm giảm cân chút ít cũng có thể giúp cho sức khoẻ cơ thể bằng
cách làm giảm nguy cơ bệnh tiểu đường, bệnh tim, cao áp huyết. Cho nên
các bác sĩ khuyến cáo và giúp bệnh nhân bệnh mập xuống được 10% đến 30%
trọng lượng cơ thể là cũng đủ rồi không cần xuống cân tới trọng lượng lý
tưởng.
Dinh dưỡng và hoạt động: Ðiều
căn bản giản dị để làm xuống cân là sự thay đổi dinh dưỡng, thói ăn
uống và ăn ít năng lượng đi và thứ hai là phải năng động hoạt tập thể
thao để đốt năng lượng của cơ thể. Rất khó mà xuống cân nếu không có tập
thể thao. Nếu bạn chỉ mập tương đối với BMI dưới 30 thì có thể theo
phương pháp giữ tránh đừng lên cân như trình bày ở trên. Nếu body mass
index trên 30 thì có thể cần chữa bệnh và dinh dưỡng dưới sự theo dõi
của bác sĩ.
Thuốc:
chỉ nên dùng chung với dinh dưỡng ăn khem và tập thể thao. Chứ uống
thuốc mà vẫn ăn như điên lại hay đi "thiền hay nằm" không tập thể thao
gì cả thì không có thuốc nào hiệu nghiệm cả. Hiện nay không có thuốc nào
làm cho tan mỡ hay kích thích cơ thể tự đốt thêm năng lượng để làm cho
người xuống kí. Các thuốc quảng cáo làm xuống cân trong vòng vài ngày
sau khi uống thuốc thật ra chỉ có đặc tính lợi tiểu làm cho cơ thể mất
nước qua đi tiểu chứ không có làm tan mỡ. Ða số các thuốc hiện nay làm
cho cơ thể cảm thấy đầy không muốn ăn (bulking agent, appetite
suppressant). Thuốc Ephedrine đang được xài phổ thông trong cả thuốc tây
và thuốc bắc để làm xuống cân hiện đang bị chính phủ điều tra vì đã có
bao nhiêu người chết vì xài thuốc này.
Thuốc
làm thay đổi các chất tín hiệu (brain chemicals) trong óc khiến cho
người dùng thuốc không thích ăn nhưng thuốc không có công dụng làm cho
tan mỡ hay đốt năng lượng cơ thể cho nên rất khó mà xuống cân vì thói
quen thích ăn thành tật cho nên dù không đói nhưng vẫn thèm và vẫn cứ ăn
và cơ thể không đốt thêm năng lượng. Các thuốc này bán có tên như
Sibutramine, Phentermine. Thuốc Orlistat với tên thương mãi là Xenical
của hãng bào chế Roche làm tan các chất điều tố tiết từ tụy tạng có
nhiệm vụ pha biến các chất mỡ trong đồ ăn giúp cho ruột non hấp thụ các
phân tử mỡ này vô tế bào ruột và giữ lại trong cơ thể cho nên các đồ ăn
mỡ sẽ không được hấp thụ vào cơ thể mà sẽ đi tiêu ra ngoài. Nếu bệnh
nhân ăn nhiều thức ăn có mỡ béo họ sẽ đi cầu chảy ra mỡ dầu (oily
stool). Toa thuốc này không công dụng lắm cho người Việt vì thức ăn Việt
Nam nặng về đường, chất đạm như cơm, mì, chứ không nhiều chất béo mỡ
như thức ăn Mỹ. Thuốc nầy không có làm tan chất đường hay chất đạm, cho
nên năng lượng vẫn hấp thụ như thường.
Giải phẫu: Thường
ít được dùng chữa bệnh mập và thường chỉ được khuyến cáo cho các bệnh
nhân quá béo phì và có nguy cơ tạo ra các bệnh khác nguy hại cho sức
khoẻ. Nếu tỷ lệ trọng lượng cơ thể BMI trên 35, bị béo phì trên 5 năm,
bệnh nhân không bị bệnh tâm lý, không uống rượu và phải trên 18 tuổi. Mổ
để chữa bệnh mập phì là phương cách "cực chẳng đã" bác sĩ phải dùng
thường là sau khi bệnh nhân đã dùng đủ mọi phương pháp trên mà không
thành công và thêm vào đó bệnh nhân bị mập tạo ra các bệnh nguy hiểm tới
sức khoẻ. Có hai cách giải phẫu để chữa bệnh mập:
Cách khâu nhỏ bao tử: bác
sĩ khâu bao tử lại để bệnh nhân sẽ không ăn được nhiều vì bao tử nhỏ,
bệnh nhân sẽ xuống cân và ăn ít đi. Phản ứng phụ như ói mửa nếu ăn
nhiều.
Cắt bỏ một phần bao tử và nối vô ruột non: cách
này tương tự như phương cách trên và làm bao tử nhỏ lại nên ăn ít đi.
Thêm vào đó đồ ăn không đi qua một phần của ruột non cho nên đồ ăn bổ
dưỡng hấp thụ ít đi. Với cách này bệnh nhân có thể bị phản ứng phụ như
bị nhợn, toát mồ hôi, chóng mặt, nếu đồ ăn đi xuống ruột non quá lẹ;
bệnh nhân có thể thiếu chất bổ sắt, calcium.Hy vọng các độc giả sẽ áp
dụng và thực hành được ít nhất một vài điều trên để giúp chúng ta có
được một tinh thần minh mẫn trong một cơ thể tráng kiện không béo mập có
hại cho sức khỏe để có thể sống vui, sống khỏe, sống mạnh nhưng không
cần sống mãi. Sống ở Mỹ sướng quá có đầy đủ vật chất thuận tiện mà bị
bệnh đau yếu hay chết sớm thì uổng quá.
Hiền Lê