Sen
thuộc họ sen súng, là cây mọc ở dưới nước, có thân hình trụ (ngó sen),
từ đây mọc lên lá sen hình toả tròn, có cuống dài. Hoa to, màu trắng hay
đỏ hồng, có nhiều nhị vàng và những lá noãn rời gắn trên một đế hoa
hình nón ngược (gương sen). Các lá noãn về sau thành quả, mỗi quả chứa 1
hạt. Trong hạt có 1 chồi mầm (tâm sen).
|
Cây
mọc hoang và được trồng ở vùng Đông Dương, Malaxia. Ở nước ta thường
thu hái từ tháng 7 đến tháng 9. Các bộ phận của sen đều có giá trị trong
sinh hoạt đời thường và làm thuốc:
Hạt sen:
Phần màu trắng bên trong vỏ cứng của quả và bỏ chồi mần bên trong, được
gọi là liên tử. Trong hạt sen có nhiều tinh bột (60%), đường
(raffinoza), chất đạm (16%), chất béo (2%), một số khoáng chất (canxi:
0,089%, photpho: 0,285%), các alcaloid với tỷ lệ thấp (lotusine,
demethyl coclaurine, liensinine, isoliensinine. Hạt sen là thực phẩm cao
cấp dùng cho người già yếu,trẻ em hoặc dùng làm các món ăn quý có chất
lượng cao: mứt, chè sen; là phụ liệu cho nhiều món ăn dân tộc: phồng
tôm.... Trong y học cổ truyền, hạt sen có vị ngọt, tính bình, có tác
dụng bổ tỳ dưỡng tâm, sáp trường, cố tinh. Dùng làm thuốc bổ, chữa tỳ hư
sinh tiết tả (ỉa chảy), di mộng tinh, băng lậu, đới hạ, mất ngủ, thần
kinh suy nhược. Ngày 10 - 30g dạng thuốc sắc hay thuốc bột.
Tâm sen:
Chồi mầm màu xanh ở giữa hạt, gồm 4 lá non gấp lại, gọi là liên tử tâm.
Có chứa 5 alcaloid chính (liensinine, isoliensinine, nuciferine,
lotusine, methylcorypaline), tỷ lệ 0,89% - 1,06%. Vị rất đắng, có tác
dụng an thần nhẹ. Chữa sốt và khát nước, di mộng tinh, tim đập nhanh,
huyết áp cao, hồi hộp hoảng hốt, mất ngủ. Ngày dùng 1,5-3g.
Gương sen:
Đế hoa hình nón ngược, đã lấy hết quả, gọi là liên phòng. Có 4,9% chất
đạm, 0,6% chất béo, 9% carbonhyđrat và lượng nhỏ vitamin C. Có tác dụng
tiêu ứ, cầm máu. Chữa các bệnh chảy máu: chảy máu tử cung, băng huyết,
ỉa và đái ra máu, đau bụng dưới do ứ huyết. Trong các bài thuốc chữa
băng huyết, rong huyết thường có liên phòng cùng các vị thuốc khác. Ngày
dùng 10 - 15g.
Tua nhị sen: Là chỉ nhị của
hoa sen đã bỏ phần nhị (hạt gạo), gọi là liên tu. Có nhiều tanin. Vị
chát, tính ấm, có tác dụng sáp tinh, ích thận, thanh tâm, chỉ huyết.
Dùng để chữa băng huyết, thổ huyết, di mộng tinh, trĩ, bạch đới, đái
dầm, đái nhiều; ngày 3 - 10g.
Hạt gạo: Hạt màu trắng ở trên tua
nhị sen, đây là bao phấn, có hương thơm. Người ta thường chọn bông sen
sắp nở, tách lấy hạt gạo để ướp chè. Chè tàu loại ngon, ướp hương sen
này, pha với nước sương hứng trên các lá sen vào sáng sớm là thú vui ẩm
thực tao nhã của người xưa.
Lá sen: Gọi là hà
diệp. Có đến 15 alcaloid và chiếm 0,21 - 0,51%, chất chính là nuciferin
(0,15%); ngoài ra còn có acid hữu cơ, tanin, vitamin C. Lá sen có vị
đắng, tính bình, vào can tỳ vị; có tác dụng hạ huyết áp, an thần, thanh
thử, lợi thấp, tán ứ, chỉ huyết. Lá sen dùng để gói cốm làm cho cốm dẻo
và có hương thơm mát đặc biệt khó quên.
- Lá sen chữa say nắng
kèm theo bụng phiền, miệng khát, họng khô, đái ít mà đỏ: Lá sen tươi
40g, rễ sậy tươi 40g, hoa bạch biển đậu 10g. Sắc nước uống.
- Lá sen
tươi 20g giã nhỏ, ép lấy nước, thêm 1 chén nước nguội vào bã rồi ép lấy
nước; trộn với nước ép trên cho uống. Trị thổ tả do trúng thử.
- Chữa các chứng xuất huyết: (trừ ứ, cầm máu): Lá sen tươi 80g, trắc
bách diệp tươi 20g, lá ngải tươi 24g, sinh địa 40 . Giã vụn sau đó ngâm
vào nước hoặc sắc lấy nước uống. Trị thổ huyết do táo nhiệt
Chữa viêm ruột, chảy máu dạ dày và các chứng chảy máu khác, ngày dùng 5 -
12g. Kinh nghiệm dân gian dùng lá sen chữa bệnh béo phì: Lá sen tươi
hoặc khô: 1 lá, thái ngắn, hãm hoặc đun với 400 - 500ml nước trong 10 -
20 phút, mỗi sáng uống 1 ấm.
Mầm ngó sen: Gọi
là ngẫu tiết, có chứa tinh bột; 8% asparagin, arginin, trigonellin,
tyrosinglucose; các vitamin: C, A, B, PP và một ít tanin. Vị ngọt chát,
tính bình, vào kinh can tâm vị. Có tác dụng thu liễm cầm máu, tráng
dương, an thần.
- Ngó sen 20g, cuống sen 12g. Sắc nước uống. Trị nôn ra máu.
- Ngó sen tươi 40 g, huyết dư thán 10g, sắc uống. Trị đái dắt ra máu.
- Ngó sen 20g, cỏ nhọ nồi 20g, bạch cập 16g, trắc bách diệp tươi 16g.
Phơi khô hoặc sấy ở nhiệt độ thấp, nghiền thành bột mịn, thêm nước làm
hoàn, mỗi hoàn 10g; ngày uống 3 viên với nước sôi để nguội. Trị chứng
lao phổi ho ra máu hoặc khi nôn ra máu.