năm 9 tuổi đã đọc bản tiếng Hán cuốn Abhidharma (Thắng
pháp). Cuộc đời khó khăn vì cha mất khi Dōgen mới lên 2, mẹ mất lúc 7
tuổi. Một người trong họ là Minamoto, một vị quan trong triều đình, đem
Dōgen về nhận là con nuôi và tính dạy dỗ Dōgen theo con đường khoa bảng
để sau này nối nghiệp. Nhưng vì hoàn cảnh mồ côi sớm đã gây xúc động
mạnh khiến Dōgen thấy rõ lý vô thường nên quyết định xuất gia để tìm
hiểu ý nghĩa về vấn đề sinh, tử. Đến năm 13 tuổi Dōgen xuất gia tại núi
Hiei với thiền sư Kōen thuộc tông Thiên Thai, và được ban cho pháp danh
là Buppō-bō Dōgen. Trong khi tu tập Dōgen vẫn thắc mắc, nghi hoặc với
vấn đề: theo các kinh điển thì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vậy
tại sao phải khổ công tu hành để chứng đạt được Phật tánh và giác ngộ.
Không tìm được sự giải đáp nơi vị trụ trì Kōen nên Dōgen rời đến thiền
viện Mii-deraji với vị trụ trì là Kōin nhưng vị này cũng không giải đáp
được và có khuyên Dōgen đến gặp thiền sư Myōan Eisai (Minh Am Vinh Tây)
tại thiền viện Kenninji (Kiến nhân) ở Kyoto. Thiền sư Eisai (1141-1215),
đã qua Trung hoa và đem tông Lâm Tế về truyền bá tại Nhật, được coi là
vị tổ khai sáng Thiền tông tại Nhật.
Nhờ sự chỉ dạy của Esai nên Dōgen đã sáng hiểu phần nào nên quyết định ở
lại theo học Eisai. Tiếc thay năm sau thì thiền sư Eisai qua đời. Dōgen
tiếp tục ở lại thiền viện để theo học thiền sư Myōzen (1184-1225) là
người kế thừa Eisai. Nơi đây Dōgen được chỉ dẫn tu tập theo pháp môn
tông Lâm Tế và rời bỏ tông Thiên Thai.
Năm 1223 Dōgen lúc đó được 23 tuổi, theo thầy Myōzen qua Trung Hoa để
tiếp tục tu học. Trước hết Dōgen đến tu viện Ching-te tại núi T’ien
t’ung (Thiên Đồng) thọ giáo vị trụ trì Wu-chi, thuộc tông Lâm Tế. Ở đó
Dōgen đã có nhiều tiến bộ trong sự học hỏi về Thiền tông, nhưng vẫn chưa
hoàn toàn thỏa mãn nên sau đó lại đi tham vấn nhiều thiền sư khác. Thất
vọng về việc đi tìm học đã lâu mà chưa đem đến kết quả, Dōgen có ý định
trở về Nhật thì tình cờ được biết là vị trụ trì ở T’ien t’ung đã qua
đời và vị kế nghiệp là Ju-ching (Thiên Đồng Như Tịnh, Tendo Nyojo)
(1163-1228), vị tổ thứ 13 tông Tào Động, rất nổi tiếng, nên Dōgen quay
trở lại đó.
Thiền sư Ju-ching tổ chức thiền viện rất là nghiêm chỉnh, đặc biệt chú
trọng vào việc ngồi thiền. Nương theo gương của sư phụ nên Dōgen ngồi
thiền chăm chỉ ngày đêm. Nhờ sự chỉ dạy của Ju-ching nên đã đạt được ước
vọng và chứng ngộ, nên trong các tác phẩm sau này Dōgen luôn ghi nhớ
công ơn đó. Sau khi đã được chứng ngộ Dōgen vẫn còn ở lại đó để tiếp tục
tu hành thêm 2 năm nữa.
Năm 1227 Dōgen quyết định trở về Nhật để truyền bá Thiền tông. Ju-ching
chấp thuận việc đó và có tặng cho Dōgen chiếc áo cà sa của Fu-jung Tao
ch’ueh (Phù dung Đạo giai) (1043-1118), một vị tổ tông Tào Động, và hai
cuốn sách nổi tiếng của tông Tào Động: Pao ching San Mei (Hōkyō Zammai,
Bảo cảnh Tam muội) và Wu wei Hsien chueh (Goi Kenketsu) (Goi: Động sơn
ngũ vị) cùng một bức họa chân dung của mình. (Yokoi, tr. 32)
Sau khi trở về Nhật Dōgen trở lại thiền viện Kenninji. Ở đó được 3 năm
Dōgen thất vọng thấy tình trạng tu hành của tăng đoàn quá suy thoái so
với trước. Sư kể lại là thấy các tăng ở phòng riêng, đồ đạc sang trọng,
quần áo là lượt, thích nói những danh từ hoa mỹ, còn thì quên cả nghi
lễ, chánh pháp. Sư từ giã thiền viện Kenninji và dọn tới thiền viện
An’yō-in.
Sau đó sư dọn tới thiền viện Kōshōji và lập thiền đường để huấn luyện
tăng ni cùng các cư sĩ. Vì nhu cầu nên sư phải lập thiền đường để có chỗ
huấn luyện nhưng sư vẫn luôn nhắc nhở là việc xây chùa lớn nguy nga
không phải đương nhiên là dẫn tới giác ngộ. Dù ở trong một chòi nhỏ,
dưới gốc cây mà có theo hiểu được lời Phật dạy và hành trì theo đúng
pháp thì Phật giáo mới thịnh hành được. Trong buổi khai mạc thiền đường
sư nói là qua Trung Hoa thì sư ngộ được là “mắt ngang, mũi dọc”, “tay
không” khi trở về Nhật, sư không đem theo một cuốn kinh nào.
Trong thời gian ở thiền viện Kōshōji, Dōgen tiếp tục viết nhiều bài để
giảng thêm về Thiền tông, mặc dầu số đệ tử càng ngày càng đông khiến sư
không có nhiều thì giờ như trước. Ngoài ra tông phái của sư còn bị các
tăng của tông Tendai (Thiên Thai), đang có nhiều thế lực lúc đó, vì ganh
tị thấy tiếng tăm, ảnh hưởng của sư mỗi ngày gia tăng nên kiếm đủ cách
để ngăn cản, phá rối tới mức là ra lệnh phá thiền viện Kōshōji.
Sư và một số đệ tử phải dời đến một ngôi thiền viện nhỏ là
Yoshimine-dera. Nơi đây nhờ sự bảo trợ của quận trưởng Yoshishige có thế
lực và rất sùng bái đạo Phật. Sau đó ông quận trưởng xây một ngôi thiền
viện vĩnh viễn cho sư trụ trì, đó là thiền viện Daibutsu, mà sau đó
được đổi tên là thiền viện Eiheiji (Vĩnh Bình, Eternal Peace) là một
trong hai tổ đình của tông Tào Động và cũng là ngôi chùa Thiền tông được
coi như lớn nhất của Nhật.
Sư mất năm 53 tuổi tại Kyoto vào ngày 28 tháng 8 năm 1253.
Tác phẩm chính của Thiền sư “Chánh pháp nhãn tạng” đã được dịch ra Tiếng Việt.
Người dịch: Nguyễn Thu Hà
Biên tập: VCĐ