Phim rất ý nghĩa sâu sắc do sử gia Bettany Hughes trực tiếp thăm viếng
7 kỳ quan:
.........................
1. Bồ Đề Đạo Tràng Ấn Độ
2. Bảo Tháp Boudhanath, Kathmand,
Nepal
3. Chùa Răng (Temple
Of The Tooth), Kandy,
Tích Lan
4. Wat Pho Temple,
Bankok, Thái Lan
5. Angkor Wat, Campuchia
6. Giant Buddha, Po Lin, Hồng Kông
7. Hsi Lai Temple,
Los Angeles, Hoa Kỳ
Thuyết minh, tường thuật, diễn giải sâu sắc về cuộc đời Đức Phật, sự hành trì kế thừa
suốt 26 thế kỷ, và đưa ra kết luận rất hay …
Phụ họa với sử gia Bettany Hughes, có giáo sư Robert
Thurman dạy triết lý Phật Giáo đại học Columbia, Tiến Sĩ Ulrich Pagal về ngôn
ngữ tôn giáo, và ông Richard Coombrich, đại học Oxford.
***
Mở đầu:
Đạo Phật là một trong những hệ thống niềm tin cổ xưa nhất
trên thế giới, Phật Giáo vừa là một nền triết học vừa là một tôn giáo, chúng ta
chỉ có thể thoát khỏi khổ đau bằng trí tuệ của riêng mình. Ngày nay hơn 350 (1)
triệu người thực hành theo Phật Giáo, có rất nhiều người cảm thấy bị thu hút
vào một tôn giáo, mà quyền quyết định là ở mỗi cá nhân con người.
Tôi sẽ du lịch đến 7 kỳ quan của Phật Giáo trên thế giới, 7
kỳ quan cho ta thấy một cái nhìn sâu sắc về lịch sử phong phú và lâu dài của Đạo
Phật ở mỗi nơi, tôi sẽ nhờ những người
theo Đạo Phật giúp ta hiểu về những quan niệm đặc trưng mà nó tạo nên
niềm tin Phật Giáo ở địa phương đó. Tôi sẽ tìm hiểu nó, nó bắt đầu như thế nào?
Nơi nào mà nó đi qua, và một số các di tích ngoạn mục nhất được xây dựng trên
toàn thế giới bởi người Phật tử, và cố gắng khám phá một cách ngắn gọn, sự hấp
dẫn của nền triết học mà nó đã cống hiến cho nhân loại trong gần 2500 năm qua
những con số liên quan đến Phật Giáo tăng lên hằng năm và tôi sẽ giải thích lý
do tại sao khi tôi thưởng ngoạn qua 7 kỳ quan hiện đại và cổ kính Phật Giáo thế
giới.
Đây là miền Đông Bắc Ấn Độ, nơi đây Phật Giáo đã bắt đầu
khoảng 500 năm trước Chúa Kitô. Hàng triệu người hành hương đến đất nước này,
thành phố thiêng liêng với Bồ Đề Đạo Tràng, để viếng thăm nơi mà vị Thái tử trẻ
Ấn Độ đã trải qua một cuộc đời chuyển hóa tự thân vĩ đại và sau này được biết
là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi đã nghiên cứu các giai đoạn lịch sử khi Đức
Phật sống trong hơn 20 năm đầu và tôi rất thích thú vì nó đang ở độ tuổi trưởng
thành. Đó là thời gian khi một con người như Đức Phật hay như Socrates Hy Lạp
cổ đại đã đảo lộn niềm tin của thế giới thay vì chuyên tâm vào truyền thống quy
ước những nghi lễ. Họ đã giải quyết bằng đạo đức và năng lực tâm trí của con người,
và tôi đặc biệt cuốn hút theo các dấu vết của Phật Giáo. Bởi vì như nền triết
học đã trải qua 25 thế kỷ, nó đánh dấu một con đường cao thượng thẳng tắp, từ
xã hội cổ đại đến thế giới ngày nay.
1. Đây là Bồ Đề Đạo Tràng
(Mahabodhi Temple,
Bodhgaya, India)
Ngôi tháp “Đại Giác Ngộ” tại Bồ Đề Đạo Tràng ở miền Đông
Bắc Ấn Độ là kỳ quan Phật Giáo thế giới đầu tiên của chúng ta. Tất cả những lý
do Bồ Đề Đạo Tràng ở đây là vì 2500 năm trước, một con người đã trải qua một sự
giác ngộ nội tại, bằng tự thân khi ngồi dưới gốc cây Bồ Đề. Đó là tất cả những
gì với sự bắt đầu hết sức tĩnh lặng và bình dị.
Người đàn ông đó chính là Sidhatha Gautama, và chúng ta được
kể rằng Ngài đã từ bỏ quyền thế và gia đình để dấn thân vào một cuộc tìm kiếm
khắc khổ. Một cuộc hành trình tìm hiểu những khó khăn vốn dĩ của con người, tạo
nên bởi sự thất vọng, đau khổ và bất toàn mà Ngài đã chứng kiến qua mình. Đó là
một cuộc hành trình lâu dài và khó khăn. Tất Đạt Đa từ bỏ những tiện nghi của
thế giới vật chất, Ngài thiền định vào những tuần cuối cùng. Ngài phá bỏ những
hiện trạng tôn giáo mà nó đã được thống trị bởi nhiều vị thần cổ xưa từ ngàn
năm trước. Cuối cùng Ngài đạt được Niết Bàn, là những gì mà chúng ta miễn cưỡng
dịch là “Giác Ngộ”, và đã trở thành Phật hay “Một bậc giác ngộ”.
Đức Phật, theo kinh điển Phật Giáo đã đi theo con đường
riêng của mình với một sự kiên định, cho đến khi Ngài tìm ra câu trả lời cho sự
đau khổ của thế giới. Vì vậy, nơi đây, 2500 năm trước, vào một đêm mùa Xuân ấm
áp, Đức Phật đã đến đây và ngồi xuống, chúng ta được biết rằng Ngài bị quấy phá
suốt đêm bởi nhiều thế lực xấu ác, nhưng sau đó khi mặt trời vừa mọc ở hướng
Đông, Ngài đã bừng ngộ. Tháp Bồ Đề Đạo Tràng là Thánh địa của Phật Giáo. Đó là
nơi Đức Phật đã giác ngộ, nhiều Phật tử tin rằng cây Bồ Đề và các thế hệ sau
của nó vẫn còn phát triển nơi đây. Vì thế, nhiều Phật tử đã đến đây để nhớ lại
sự giác ngộ vĩ đại, sự khám phá của Đức Phật về bản chất thật sự của vũ trụ
bằng sự thành kính hình ảnh của Đức Phật, nhiều du khách ở đây đến từ khắp nơi
trên thế giới, từ hơn 90 quốc gia, nơi mà Phật Giáo đang khởi sắc. Bồ Đề Đạo
Tràng là một trong những địa điểm quan trọng đối với Phật tử khắp năm châu. Nó
có công dụng như một nam châm hay một điểm trung tâm cho Phật tử từ khắp nơi
bốn bể. Bạn có thể khẳng định đó là nơi Phật Giáo bắt đầu. Tôi không phải là
Phật tử nhưng nếu bạn hỏi bất cứ ai biết đến Phật Giáo, họ sẽ cho bạn biết đó
là một nền triết học hết sức phức tạp để chỉ dạy hay giải thích, mà cách tốt
nhất để hiểu là thể nghiệm chính nó, và bằng sự trải nghiệm trong đạo Phật, tôi
sẽ cố gắng giải thích những điểm trọng tâm của một nền triết học mà đôi khi dường
như quá phức tạp, vượt ngoài tầm với. Tôi sẽ bắt đầu với ba ngôi báu quan trọng
trong Đạo Phật như những gì chúng ta biết là “Tam Bảo”.
Đầu tiên là cuộc đời hình ảnh của Đức Phật. Tất cả Phật tử
được khích lệ phương pháp tiếp cận cuộc sống theo kiểu của Ngài. Điểm quan
trọng nhất trong giáo lý của Đạo Phật, và cũng là sự khác biệt rõ ràng với các
tôn giáo khác là Đức Phật dạy rằng mỗi chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm với
cuộc sống của riêng mình và tự cứu độ lấy chính chúng ta. Không một ai khác có
thể chịu trách nhiệm thay, Đức Phật không tự xưng là một vị thần nào cả cũng
không phải một vị cứu tinh riêng biệt nào. Ngài tự xem mình là một người thầy
hay một người dẫn đường. Thông điệp của Ngài áp dụng cho mọi người thuộc tất cả
tầng lớp trong xã hội cổ đại Ấn Độ từ thương gia, nông dân, đến giai cấp nô lệ.
Đức Phật trong quá trình thức tỉnh tâm linh của mình, đã từ chối một số phương
pháp của Ấn Độ giáo. Ngài bác bỏ một số yếu tố triết lý của đức tin Hindu, Ngài
phê phán cái địa vị của Bà La Môn hay thần thánh trong xã hội bấy giờ mà nó là
một địa vị rất ưu đẳng, Ngài thuộc tầng lớp quan trọng trong hệ thống giai cấp
nhưng Ngài tự đặt mình ngoài hệ thống ấy.
Đức Phật đã dùng những năm tháng về sau của mình qua lại
trong các khu rừng sâu trong nhưng khu vườn xoài, từ làng này đến làng nọ những
người hiểu đạo sẽ mang thức ăn và quần áo đến cho nhà minh triết và nhóm đệ tử
của Ngài, và đổi lại, Ngài khuyến khích họ xét lại mục đích và lối sống, để xác
định nền tảng đạo đức cho họ. Mặc dù Đức Phật đã không thiết lập một hệ thống
thờ tự, hoặc chùa chiền, nhưng qua những thời gian, những địa điểm quan trọng
trong cuộc đời Ngài dần dần biến thành những nơi thờ tự.
Nguyên Bồ Đề Đạo Tràng chỉ là một nơi tôn nghiêm được đánh
dấu bằng một lan can đá, sau Phật nhập Niết Bàn 200 năm, một ngôi tháp vĩ đại,
tháp Bồ Đề đã được dựng lên nơi này. Khoảng 400 năm sau, ngôi chùa đầu tiên xây
dựng ở đây để tưởng niệm cây Bồ Đề được thay thế bởi kiểu chùa xây dựng để tôn
thờ Xá Lợi và hình ảnh Đức Phật vốn rất phổ biến thời bấy giờ.
Các ngôi chùa và đặc biệt là Đại Tháp Bồ Đề, thể hiện tầm
quan trọng của đền đài Phật Giáo, và theo đó bạn biết được ý tưởng xây dựng
ngôi tháp này là để phụng thờ tôn tượng, bắt đầu từ đây. Vì Phật Giáo trải qua
nhiều thế kỷ, có lẽ không thể tránh khỏi việc đồng hóa nhiều khía cạnh của một
tôn giáo, với nhiều đền chùa, khách hành hương và sự phân cấp tín ngưỡng, có
thể bạn được ban phước trong một Đạo Phật bị ngộ nhận như một trong những điều
kỳ diệu hay những niềm tin vào thần thánh trên thế giới, nhưng có một sự khác
biệt quan trọng bằng việc tập trung nhấn mạnh vào hệ thống đạo đức cá nhân và
phá vỡ đi những truyền thống quy ước và nhiều nghi lễ cũ. Đức Phật là một trong
những con người đã cho chúng ta một thế giới tiến bộ, và dù chưa bao giờ phủ
nhận thần thánh mà chỉ đơn giản dạy rằng: bạn không cần nương tựa vào thần
thánh để mọi thứ được tốt đẹp.
Theo nhiều nguồn Phật Giáo, một quan niệm mới cho rằng Đức
Phật nhập Niết Bàn năm 80 tuổi, báo thân của Ngài đã được hỏa táng, nhưng Xá Lợi
vẫn còn, chúng được phân phát cho nhiều bộ lạc, vương quốc, vua chúa khác nhau,
những người đang theo đạo hiện nay muốn tôn vinh giáo chủ của mình bằng cách
xây dựng nhiều tượng đài và bảo tháp, để bảo lưu những gì còn sót lại của Ngài.
2. Tháp Bodanath, Khathmandu,
thủ đô của Nepal.
Kỳ quan Phật Giáo thế giới thứ hai của chúng ta là tháp
đứng Bodanath, lần đầu tiên nó được xây dựng vào thế kỷ thứ 5 hoặc đầu thứ 6
trước Công Nguyên, sau đó được trùng tu lại một vài lần, cuối cùng xây kèm theo ngôi mộ khổng lồ
này vào thế kỷ thứ 14, nó lớn nhất tiểu lục địa Ấn Độ, một nơi linh thiêng cho
hàng ngàn Phật tử khắp năm châu, tôi sẽ tìm hiểu thêm tại đây về Tam Bảo trong Đạo
Phật, Phật Giáo, và những gì liên quan đến Đạo Phật, bao gồm trong ba điều mà
họ gọi là Tam Bảo. Ba điều này liên quan
mật thiết với nhau.
Đầu tiên là Phật: giáo chủ tôn giáo của họ. Thứ hai là
Tăng: đó là đoàn thể của những vị xuất gia. Thứ ba là Pháp: pháp liên quan đến
những lời dạy và giáo lý của Đức Phật. Nói cách khác, chính là những gì Đức
Phật đã khám phá và cũng là chơn lý.
Ở đây bạn luôn luôn có cảm giác đang được dõi theo bởi cặp
mắt chính biến tri của Đức Phật luôn thấy bạn ở mọi hướng. Một cách ngẫu nhiên,
nét cong giữa gương mặt Ngài không phải mũi của Ngài, nó chính là ký tự số 1 trong tiếng Phạn để biểu trưng cho
niềm tin hiệp nhất của Phật Giáo, bạn sẽ không thấy cái gì biểu hiện đôi tai
của Đức Phật và có một lý do đặc biệt cho điều đó. Chúng được kể rằng không bao
giờ muốn nghe mình được tôn thờ, và dĩ nhiên đó là những gì độc đáo về Đạo
Phật. Đây là tôn giáo không có cơ quan thẩm quyền trung ương, thay vào đó chỉ
có một tôn chỉ rằng con người là chủ nhân ông của chính mình, chính con người mới
có khả năng điều khiển số phận của mình. Nó không phải là vô thần, bởi vì họ
tin vào sự tồn tại của nhiều loại thánh, chỉ đơn giản là họ không tin rằng
những vị đó tạo ra vũ trụ, và vì thế họ không thể cứu được khỏi khổ đau. Chính
họ cũng cần sự cứu khổ vì tuơng lai của họ sẽ hết phước ở cõi Trời và trở thành
những chúng sanh mẫn, cảm với khổ đau.
Tại tháp Bodanath, rất nhiều người đến để nhiễu tháp và tỏ
lòng tôn kính Đức Phật. Ani Choying là một sư cô nổi tiếng khắp Nepal qua giọng
hát ngọt ngào của mình. Thực tế, cô ấy được biết đến như một nữ tu ca sĩ, chúng
tôi xem đây là một nơi hết sức tâm linh, là một nơi linh thiêng và chúng tôi
tin rằng tất cả Xá Lợi quan trọng của Đức Phật đều ở trong tháp này và nó giữ
một vị trí tín ngưỡng đặc biệt. Mọi người đến quanh đây luôn thầm niệm chú và
chuyên tâm thiền định, họ hữu nhiễu, lễ lạy, giữ thân tâm an lạc và ý niệm
trong sạch để trì tụng kinh chú cũng như cầu nguyện. Vậy nên hãy cố gắng đưa
bạn vào chánh niệm và oai nghi. Đây là một nơi vô cùng phước lạc.
Ani đến từ Tây Tạng, hàng nghìn Phật tử Tây Tạng hiện đang
sống ở Nepal là những người tị nạn, các thương hiệu Phật Giáo theo kiểu Tây
Tạng nhưng lại là của những người Nepal. Tính linh hoạt và đa dạng luôn là một
trong những điểm mạnh của Phật Giáo. Chính Đức Phật đã nói không nên có một
ngôn ngữ Phật Giáo duy nhất. Thay vào đó Phật tử được khuyến khích chú trọng
vào tính tùy duyên dựa trên nền tảng tuệ giác của Đức Phật. Vài người ở đây sẽ
kể cho bạn nghe về việc một mảnh xương Xá lợi Phật được chôn sâu trong bảo
tháp. Bây giờ tôi không chắc chúng ta có thể chứng minh điều đó, nhưng chắc
chắn đây là ngôi tháp lớn nhất của Nepal, đồng thời là một trong những bảo tháp
lớn nhất thế giới, và nó vô cùng ấn tượng, nhưng ý nghĩa thực sự của nó, không
phải vẻ bên ngoài vì nó được xây dựng để tượng trưng những điều đặc biệt gì đó.
Vì người ta tạo ra nó muốn thực hiện hóa trí huệ của Đức Phật, biểu tượng của
bảo tháp rất thú vị vì nó có các yếu tố đất, nước, gió, lửa và không gian,
nhiều hình dạng khác nhau, để diễn tả chúng, họ đặt chúng trong một hình thức
thẩm mỹ cao, mà lấy ý niệm là tâm thức giác ngộ của Đức Phật cho rằng thế gian
là môi trường lý tưởng cho con người để giải phóng khổ đau.
Đức Phật tập hợp quanh mình những ai chia sẻ cùng Ngài một
nhận thức và mục đích, dần dần nhóm này trở thành một cộng đồng chính thức, mà
cái tên của nó lấy từ những hội đồng quý tộc cổ xưa. Tăng già, Tăng đoàn Phật
Giáo đã trở thành một truyền thống tu viện bao gồm những vị xuất gia nam và nữ
và Tăng là một trong Tam Bảo của Đạo Phật.
Cảm giác đầu tiên của tôi về Tăng là tiếp cận một giờ hành
lễ nghiêm trang. Mỗi buổi sáng ở Bodanath, bình minh vừa lên, các vị Tăng ở mọi
lứa tuổi đều tập hợp để thực hiện nghi lễ đầu tiên của mình và nghi thức trong
ngày. Tăng đoàn là một trong các tổ chức tâm linh hoạt động diễn tiến lâu đời
nhất trên thế giới.
Tụng kinh: những gì đang được tụng ở đây là một bài
Tarapuja (một buổi lễ cúng dường) nó là một bài chú có mục đích giải thoát đau
khổ, nó thực sự thú vị vì “Tara” được cho là một nữ hóa thân từ trí huệ của Đức
Phật, một điều gì đó cực kỳ linh nghiệm, ý tôi thì nó chỉ là một khái niệm trừu
tượng của trí tuệ mà là một loại ý niệm trị liệu khổ đau, thực sự mạnh hơn cả
chính thuốc uống.
TIẾNG CHUÔNG TRỐNG
Tăng đoàn bao gồm cả nữ giới được thiết lập cho phép những
người nữ mong muốn học Phật trong một môi trường kỷ luật và thời gian khép kín
để tập trung vào giáo pháp, nhằm thoát khỏi những phiền não của lối sống thế
tục. Một vài dặm bên ngoài Kathmandu. Ani, Sư
cô ca sĩ đang làm việc cho tu viện của mình. Đó là buổi quy y cho các bé gái,
nhiều em nhỏ chỉ mới 10 tuổi, độ tuổi mà chúng có thể bắt đầu cuộc sống của một
chú tiểu.
Những cô gái ở đây hầu hết đến từ những gia đình khó khăn,
rất nghèo khổ và một điều nữa là cha của chúng thường là những người thất học,
và chúng thường bị đối xử một cách tệ hại, và họ không cho rằng đứa con mình đi
học là một việc tốt, nên tôi cố gắng cưu mang chúng, và giúp chúng những gì tôi
có thể. Đã từng xảy ra việc tranh luận cho phụ nữ có mặt trong hàng ngũ Tăng
già. Đức Phật đã cho phép phụ nữ trở thành Tỳ kheo ni, để sống một cuộc đời
cống hiến cho sự phát triển tâm linh. Giống như chư Tăng, chư Ni cũng phải sống
đời sống phạm hạnh thanh tịnh, vì theo họ là một trong ba báu vật của Đạo Phật,
họ không chỉ là những người “lính” theo chân Đức Phật mà còn là một hiện thân
cho niềm tin của chính mình.
Như vậy, tôi đã nói về hai trong ba ngôi báu của Phật Giáo,
Đoàn thể Tăng già và cuộc đời Đức Phật, nhưng còn yếu tố thứ ba là Pháp hay
những lời dạy thì sao?
Cô có thể giúp tôi hiểu đôi chút về Pháp, Pháp được mô tả
như thế nào? Cô hiểu thế nào về Pháp?
Theo tôi hiểu Pháp là những gì bạn làm, rất thực tế, tiện
nghi, vì lợi ích của tất cả chúng sanh, không phương hại và vì phúc lợi của mọi
người, cho bạn, chính là Pháp.
Dharma is not Hindu or Buddhist
Not Sikh, Muslim or Jain
Dharma is purity of heart
Peace,
happiness, serenity.
Pháp có nghĩa là sự thanh tịnh tâm, Pháp là sự yên tĩnh, và
Pháp là niềm an lạc của tất cả mọi người.
Có thể đạt Pháp bằng nhiều cách đặc biệt không? Có phải
nhiều nguyên tắc hướng dẫn những điều cô làm?
Chúng tôi được dạy những gì có thể gây ra đau khổ, và làm
thế nào để tránh gây ra đau khổ trong cuộc sống của riêng mỗi người, và khi bạn
thực hiện những lời dạy này tôi nghĩ rằng đó là những gì thực sự có thể cống
hiến cho mình và tha nhân, và tôi nghĩ đó là Pháp. Trong kinh điển Phật Giáo,
đề cập đến giáo lý của Đức Phật như những gì Ngài đã khám phá trong tiến trình
đưa đến giác ngộ của Ngài.
Thực tại của pháp giúp bạn thoát khỏi khổ đau, đó là nghĩa
gốc từ pháp có nghĩa là để giữ lấy, và Phật dạy pháp giúp chúng sanh khỏi đau
khổ. Đến Nepal
tương đối dễ dàng nhận ra hai bảo trong Tam Bảo của Phật Giáo. Chính ý nìệm về
Đức Phật và hình ảnh của Ngài ở khắp mọi nơi, còn chư Tăng tại Kathmandu có
khắp các góc phố, nhưng điều khó là xác định được Pháp, là hệ thống niềm tin,
triết học hay tôn giáo, hoặc bất kỳ cái gì bạn muốn gọi nó trong Phật Giáo. Có
lẽ thiếu thực tế để tôi hy vọng có được một định nghĩa độc lập cho khái niệm
rộng lớn như vậy?
Chính Đức Phật nói pháp giống như muối trong đại dương, chỉ
thuần một vị mặn duy nhất, vì vậy, Đức Phật ngụ ý pháp có thể được nếm ở bất cứ
nơi nào, bởi bất cứ ai, nhưng cũng như một sử gia, vấn đề của tôi là làm thế
nào để pháp “vị” đó trở nên phổ biến, đặc biệt cách thức Phật Giáo tự thiết lập
như là một hệ thống niềm tin toàn cầu. Pháp Phật rất phù hợp trong thời đại của
chúng ta, nhưng với tất cả những ý tưởng lớn tân thời, họ cần một làn sóng hỗ
trợ phổ biến, một sự bảo trợ, hoặc cả hai để có được một chỗ đứng vững chắc và
thật sự linh động. Bằng sự quan tâm đúng mức những gì Ngài dạy, Phật Giáo phát
triển mạnh sau Phật nhập diệt khoảng 200. Năm 250 trước Tây lịch, vị hoàng đế
bá quyền, cường bạo Asoka đã thống nhất hầu hết Ấn Độ cổ đại, triển khai một
đồng minh lớn nhất của Phật Giáo. Asoka bị ám ảnh bởi những ký ức mà ông đã gây
ra do kết quả của việc tranh giành quyền lực và ông quyết định hoàn thiện để
sám hối sai lầm đó, ông mạnh mẽ phát huy tư tưởng Phật Giáo trên khắp tiểu lục
địa Ấn Độ. Theo hệ thống Phật Giáo trong nhiều thế kỷ sau sự bảo trợ của Asoka,
tư tưởng và triết học Phật Giáo phát triển thành ít nhất là 18 trường phái. Một
trong chúng ta là Phật Giáo Nguyên Thủy vẫn còn tồn tại đến ngày nay và còn chủ
yếu ở phía Nam và Đông Nam Châu Á. Một
nhánh khác được gọi là Đại Thừa, nghĩa là “Con đường lớn” hay “Bánh xe lớn”,
hầu hết ngày nay nó được thấy ở phía Bắc và phía Đông châu Á qua việc ứng dụng
Phật Giáo, ông đặc biệt chú trọng kết quả của những gì mình làm cũng như suy
nghĩ và lối sống của ông nói chúng là nghiệp của ông. Nghiệp là từ phổ biến ở
phương Tây ngày nay, nguồn gốc của nó có từ hệ thống niềm tin cơ sở Ấn Độ, nhưng
giá trị của nó trở nên một cơ sở quan trọng trong khái niệm Phật Giáo, tôi sẽ
tìm hiểu điều đó.
3. Temple of The Tooth, Kandy, Sri Lanka.
Tại ngôi Chùa Răng ở Kandy,
Sri Lanka cũng
là kỳ quan Phật Giáo kế tiếp của chúng ta. Phật tử Sri Lanka tin rằng Xá lợi Răng Phật
được đất nước họ mua vào khoảng năm 300 trước TL. Việc giữ gìn Xá lợi đã trở
nên thành trách nhiệm của các vị vua trong nhiều năm qua, những người giám hộ Xá
lợi đã trở thành biểu trưng cho quyền cai trị. Đức Phật được cho là đã có hai
gia tài cho các thế hệ tương lai là lời dạy từ bản thân Ngài là Giáo pháp, và
cũng chính từ thân thể vật lý của Ngài là Xá lợi. Và ngày nay nó được phân tán
trong nhiều đền thờ khắp toàn cầu và một trong những cái quý nhất được giữ ở
đây, trong Chùa Răng này, Xá lợi làm sinh động hình ảnh Đức Phật với mọi người,
nó tiếp thêm nguồn năng lượng cho họ. Thực tế thì Xá lợi có khắp nơi trong
nhiều chùa chiền trên thế giới, một mảnh xương hay một cái gì đó, cũng giống như
ở Châu Âu, bạn có nhiều Xá lợi của các vị Thánh, đó là một cách làm cho sự hiện
diện của một người trở nên gần gũi hơn, tô tạo ra nhiều năng lượng hơn, như một
nam châm thu hút những ai tín ngưỡng.
Đền thờ đứng ngay trong tâm của một khoảng sân lát đá, trần nhà được
trang trí với đá hình mặt trăng và nhiều thiết kế hoa văn, có nhiều phù điêu
hình mặt trăng và hình ngà voi trên các cửa ra vào. Phòng bên trong có chứa xe
răng và nhiều vật thiêng liêng khác bao quanh là một dãy hành lang rực sáng màu
sơn, các Tăng sĩ thực hiện việc thờ cúng hằng ngày ở bên trong tháp bảo vì nghi
lễ được tiến hành vào lúc bình minh, giữa trưa và buổi tối, Xá lợi Răng ở tầng
trên của một tháp vàng, và chỉ được hé một phần nhỏ. Xá lợi linh thiêng được
tắm biểu trưng bằng “nước thơm” từ nhiều loại hương hoa thảo dược, nước thiêng
này được tin là có đặc tính chữa bệnh, nó được chia cho những người có mặt ở
đó. Mỗi tuần một lần, nhiều người mẹ cùng với con của họ tập trung tại chùa,
tất cả những bé thơ này đang đợi các vị Tăng sĩ chúc phúc để được sự tiếp nhận,
sự hộ trì của Đức Phật cho đời sống sau này của chúng.
Chúng được quấn quanh cổ tay một xâu chuỗi màu trắng, điều này có nghĩa
là từ đây Đức Phật sẽ bên chúng cho đến hết cuộc đời. Nhận được phước lành ở độ
tuổi thơ bé này là hết sực quan trọng với bọn trẻ, vì mọi thứ mà chúng làm từ
đây, những hành động tác ý của chúng, từ suy nghĩ, lời nói đến việc làm, nói
chung là nghiệp của chúng sẽ ảnh hưởng đến việc tái sinh của chúng ở đời sau.
Nghiệp là một trong những khái niệm chính yếu của Phật Giáo. Đó chính là niềm
tin về bất kỳ một hành động tác ý nào của chúng ta, dù suy nghĩ hay việc làm sẽ
được phản ảnh lại bởi một cái đó tương tự xảy ra trong tương lai của chúng ta.
Vì vậy, nếu bạn hại một ai đó, bạn sẽ bị hại lại. Luật nhân quả này có thể mang
đến hiệu quả hoặc tốt xấu trong tương lai tùy thuộc những gì chúng ta đã làm.
Bởi vì nhiều Phật tử tin chúng ta có nhiều kiếp sống nên kết quả có thể ảnh hưởng
hết kiếp này đến kiếp sau.
Nghiệp có nghĩa là những gì bạn làm, nghĩa đen của nó là hành động. Phật
dạy rằng: tất cả nghiệp bao gồm cả thiện trong bất thiện do bạn tự quyết định
lấy. Bây giờ chúng ta nhớ rằng với Đạo Phật, cuộc đời của bạn sẽ tiếp tục nhiều
hơn là những gì bạn thường nghĩ chỉ có trong đời này. Thực tế, bạn được tái
sinh từ vô số lần cho đến khi bạn có khả năng kết thúc chúng.
Phật Giáo dùng một ẩn dụ để giải thích nghiệp, họ nói rằng nếu bạn gieo
hạt giống cây kế (một loại cây gai), bạn không thể mong đợi cây táo lớn lên sau
đó, và nó rất rõ ràng. Đó là luật nhân quả cơ bản và như là một sử gia, tôi
biết rằng nguyên tắc đó hết sức hợp lý, chúng ta đều bị ảnh hưởng từ quá khứ và
tương lai của chúng ta sẽ bị chi phối bởi quá khứ và hiện tại. Do đó Phật dạy
rằng chúng ta nên chánh niệm với những hành động của mình và Ngài cũng làm sáng
tỏ một điều gì đó về con người, tất nhiên, vấn đề là nghiệp có cả tốt và xấu.
Ở Sri Lanka
những năm gần đây, luật nhân quả đã được kiểm chứng. Trong gần ba thập niên đất
nước này bị tàn phá trong cuộc nội chiến đẫm máu gần 100,000 người đã thiệt
mạng. Hiện nay Sri Lanka
đang phục hồi từ cuộc xung đột làm suy kiệt đất nước giữa nhóm nhỏ người Ấn
Giáo Tamil và phần lớn người Phật giáo Singhalese. Ngôi chùa Răng hư hỏng nặng
vì sự tàn phá suốt cuộc chiến tranh, ngày nay nó được trùng tu đầy đủ. Phật tử
tin rằng họ có thể chấm dứt cái vòng quay của sự chết và hủy diệt này. Họ chắc
chắn rằng thực hành một con đường sáng suốt nào đó có thể giải thoát sự sanh tử
liên tục, mà trong Phật Giáo nó có cái tên là: Luân Hồi. Và bây giờ tôi sẽ tìm
hiểu về khái niệm luân hồi. Khi đến kỳ quan Phật Giáo thế giới tiếp theo, vì tư
tưởng Phật Giáo đã phát triển mạnh ở Sri Lanka, quốc vương xứ này gởi nhiều vị
sứ giả đến các quốc vương lân cận ở Đông Nam Á để truyền bá đạo Phật.
Vào thế kỷ thứ 11, Phật Giáo Nguyên Thủy đã được thiết lập rộng rãi ở
Thái lan, và ở tại Bangkok này, gần 90% người Thái là Phật tử. Lý do mà Phật Giáo
phát triển mạnh mẽ và bền bĩ ở đây là vì ngay từ buổi ban đầu của nó, đã có sự
hỗ trợ của vua Thái. Một vị vua khao khát thành Phật. Ông đã là một vị tu sĩ
thực thụ trong 25 năm trước khi lên ngôi. Mỗi khi những gia đình hoàng gia xây
dựng một cung điện mới, họ cũng thiết lập bên cạnh một tu viện hay một quần thể
thờ tự như một loại dấu hiệu biểu lộ sự công chính của mình và do vậy tạo ra
một Phật Giáo đầy hứa hẹn, quần thể chùa tại Bangkok này chắc chắn dành cho một
vị vua. Đây là Wat Pho, kỳ quan Phật Giáo thế giới tiếp theo:
4. Wat Pho Temple, Bangkok, Thailand.
Đó là một hợp thể chùa cổ xưa và lớn nhất Bangkok, ngôi chùa của hơn
một ngàn tượng Phật. Quần thể bao gồm một ngôi chùa, khung viên ứng dụng và sân
chùa rộng lớn, một rừng tháp dày đặc, những họa tiết hoa sen thủ công tinh tế ở
bên trong cung điện lộng lẫy là tượng Phật nằm bằng vàng, tượng Phật này dài
gần 43m cao 15m, phải mất 5 năm xây dựng, bắt đầu từ năm 1788. Đây là một trong
những công trình nghệ thuật tượng đài kỳ vỹ và lộng lẫy nhất mà tôi từng chứng
kiến, phải nói rằng tôi thích sự hoành tráng của nó. Tôi thích điều mà nó muốn
nói “hãy xem tôi, xem những gì con người có thể làm”, “con người có thể tạo ra
cái đẹp từ những thứ bỏ đi”, bởi vì ở đây cả hàng ngàn mảnh ngọc trai được sử
dụng và 153 lá vàng nhưng nó có vẻ không đơn giản như những gì tôi nói, mà đây
là hiện thân của con đường trung đạo, khái niệm chính yếu của Đạo Phật về sự
thái quá cũng như cực đoan nên tránh ở mọi trương hợp, vì không có sự nghi ngờ
đây là một điều phung phí tượng Phật nằm, qui mô lớn được xây dựng trên khắp
trung tâm nước Thái. Để xây dựng một tượng Phật nằm, không phải là một quá
trình đơn giản vì hầu hết tượng Phật không được đúc mà được làm từ gạch, thạch
cao, xi măng. Đó là một hình ảnh rất được tôn kính, vì vậy nó phải được trang
trí bằng những vật liệu giá trị và dĩ nhiên vật liệu quí nhất được tô điểm cho
Đức Phật bằng vàng.
Trong Phật giáo, vàng được tượng trưng cho mặt trời và lửa. Điều giá
trị nhất của kim loại, nó phù hợp cho những bức tượng linh thiêng là qua sự kết
hợp của nó với mặt trời, thần mặt trời trong đền thờ Ấn Giáo. Phật Giáo Thái
Lan và những nước Nam Á khác thì vàng là minh chứng tối thượng cho lòng mộ đạo
của một con người.
Công đức ép vàng lên thân Phật là để tưởng niệm Đức Phật khi còn sống.
Ngài là một vầng hào quang vàng rực rỡ tỏa sáng. Họ tin như vậy, nhưng vàng tượng
trưng cho sự giàu có hùng mạnh của nó trở thành cái cớ cho các vua Thái thể
hiện lòng mộ đạo của mình nhằm tạo dựng một mối quan hệ vững chắc giữa tư tưởng
của Đạo Phật với quyền lực nhà nước. Vua Rama thứ III
là người sở hữu một bức tượng Phật nằm được phục hồi tráng lệ trong thời đại hưng
thịnh của ông vào giữa thế kỷ thứ 19, nó được gọi là “tướng nằm sư tử” khi nhập
Niết Bàn, Ngài cũng ở trong tư thế sư tử ngọa. Nó được mô tả Ngài nằm nghiêng
phía bên tay phải nâng đầu trong tư thế nghỉ ngơi.
Lý do mà Đức Phật có một nụ cười thanh thản là do Ngài đã đạt giác ngộ
Niết Bàn. Điều này đồng nghĩa Ngài thoát khỏi những gì được gọi là luân hồi
trong đạo Phật, vòng sanh tử vô tận của cuộc đời, của ái dục và vô minh mà nó
chỉ dẫn tới đau khổ. Chính luân hồi tạo nên vòng tái sanh một cách hiệu quả
cũng như chúng ta sinh ra vô số lần trong luân hồi chuyển từ kiếp này sang kiếp
khác, ta có thể sanh làm ngưòi, làm trời hay bạn có thể bị tái sinh làm loài
vật.
Kể cho tôi nghe bạn nghĩ gì về luân hồi, với tôi nó không chỉ là một
bức tranh vật chất, như bạn biết, của cái vòng tròn sinh, già và chết. Với tôi
nó cũng là một cái gì đó thuộc trạng thái tâm thức. Bạn phải xử lý cảm xúc tiêu
cực nếu bạn có nhiều vấn đề, nếu bạn đang đau khổ, hay cảm thấy thất vọng, bạn
sẽ không biết làm thế nào để giải quyết nó, nhưng nó chỉ là một điểm nhỏ trong
nhiều điều xấu xảy ra với bạn, chỉ cần liên tục quán chiếu về nó bạn sẽ tìm
thấy được hạnh phúc và an lạc thật sự. Bánh xe cuộc đời là một hình ảnh miêu tả
quen thuộc trong Phật Giáo. Vào thời Đức Phật bắt đầu truyền giáo, nhiều người
đã hiểu cuộc đời như một vòng quay bất tận mà trong đó mọi loài được sinh ra,
già, yếu và chết đi để rồi tái sanh trong một kiếp khác. Đó là đầm lầy vĩnh
viễn, trong đó không có sự tự do nhưng được Đức Phật cảm thấy có một lối thoát
có thể thực hiện. Ngài dạy rằng qua hành động của người, nghiệp và qua cách
sống được thiết lập bằng trí tuệ, đạo đức và từ bi, bằng thiền định, sự chuyển
hóa tâm khỏi những tham ái, dục vọng, sự phóng túng thì có thể đạt được giải
thoát Niết Bàn. Ngài tin rằng sự giác ngộ này sẽ tạo nên năng lực để giúp họ
thoát khỏi luân hồi.
Tụng kinh:
Tư tưởng này tạo nên đặc tính riêng biệt cho những vấn đề tang ma trong
Phật Giáo, những người hiện diện này đang khóc thương cho sự mất mát của họ nhưng
cũng hy vọng rằng nhờ nghiệp tốt đã tạo, người chết ít nhất cũng tiến được một
bước gần đến giác ngộ, họ có cơ hội tái sinh tốt hơn và một ngày nào đó có thể
thoát khỏi luân hồi. Chỉ là sự lẩn quẩn của luân hồi, tôi tin như vậy, thân này
giống như ngôi nhà tạm mượn ở trong giây lát, sau khi chết ta phải tìm một nơi
ở mới, nó chỉ là vật tạm bợ mà thôi. Vì vậy những người Phật tử thuần thành tin
rằng nếu ta sống tốt ở kiếp này thì bảo đảm được một nơi tốt hơn sau khi ta
chết.
Đạo Phật cho rằng chỉ có duy nhất một con đường để thoát khỏi luân hồi
là chấm dứt những khao khát, dục vọng và những não phiền trong cuộc sống thường
nhật. Nói được bây giờ rất dễ nhưng thực hiện thì rất hết sức khó khăn, nên qua
nhiều thế kỷ, người Phật tử đã ứng dụng nhiều phương pháp nghiêm túc để loại
trừ những trắc trở và cám dỗ của thế gian, họ tự đặt mình vào con đường giác ngộ,
đi đến Niết Bàn, mà chính Đạo Phật là một tấm gương điển hình để noi theo, Ngài
tin rằng trong mỗi chúng ta đều có khả năng đạt được sự giải thoát và sự giác
ngộ của riêng mình.
Phải mất nhiều năm Đức Phật mới có được niềm tin triệt để này. Ngài đã
phát triển tư tưởng qua kinh nghiệm cá nhân của riêng Ngài, nhất là trong cảnh
giới thiền định đặc biệt, và đó là thiền định Phật Giáo mà tôi sẽ tìm hiểu ở kỳ
quan Phật Giáo thế giới kế tiếp của chúng ta. Phật Giáo vẫn tiếp tục truyền bá
trong suốt thời kỳ Trung Cổ đến thế kỷ thứ 13. Phật Giáo hưng thịnh tại vương
quốc Khmer, ngày nay là Campuchia.
5. Angkor
Wat, Cambodia.
Hệ thống chùa Angkor này là kỳ quan
thứ 5 của chúng ta. Đầu tiên Angkor Wat là một hệ thống cung điện linh thiêng
của một hoàng đế Khmer, trên thực tế, ông ủng hộ Ấn Độ Giáo qua tư tưởng Phật
Giáo, chúng không phải chỉ là những tòa nhà, mà còn là một khát vọng to lớn,
toàn bộ khu phức hợp này được cho là một biểu tượng, tượng trưng vũ trụ quan Ấn
Độ Giáo. Nguyên thủy một ngôi chùa là để tôn thờ thần Vishnu của Ấn Giáo và hóa
thân như là một trung tâm vật chất và tâm linh của vũ trụ, một ngọn núi huyền
thoại. Một loạt năm bức tường hình chữ nhật tượng trưng cho các ngọn núi khác
nhau và tường thành ở đây gợi lên hình ảnh một vũ trụ bao la. Nơi này nồng nặc
của sự hòa hợp giữa quyền lực trần thế và thần linh, và của mối liên hệ khắng
khít giữa các vị vua và thánh thần, và dĩ nhiên chính niềm tin trong mối quan
hệ đó là cảm hứng cho việc tạo nên phức hợp kiến trúc này, nhưng đối với một số
người, nó thì quá đẳng cấp, quá độc quyền và Đạo Phật đưa ra một số giải pháp.
Chính vị vua Jayavarman VII đã cải
đạo sang Phật Giáo và chế độ của ông đánh dấu một đường phân chia rõ ràng với
Ấn Độ Giáo trong quá khứ.
Trước năm 1200, nghệ thuật trong các ngôi chùa hầu hết miêu tả khung
cảnh đền thờ của Ấn Giáo. Sau sự cải đạo của vua, cảnh phong Phật Giáo bắt đầu
xuất hiện như là những mô tiếp tiêu chuẩn. Trong suốt triều đại của ông, có
nhiều cuộc thảo luận cho việc xây dựng các thư viện, tu viện, công trình cộng
đồng và nhiều cơ sở “thế tục”, để dễ tiếp cận với tầng lớp dân chúng. Vì vậy
trong quá khứ lịch sử của Campuchia đã đặt nặng tính nhân bản của con người và
Phật Giáo bắt đầu, phổ biến rộng rãi, bạn sẽ thấy nhiều hình ảnh kiến trúc của
Phật và chư đệ tử nổi tiếng khắp nơi … trong các cửa cổng, tường thành và đền
điện. Để bây giờ Angkor đang hiện diện cho thế
giới một bộ mặt rất người.
Quần thể Angkor là một mô hình tiêu
biểu theo phong cách kiến trúc cổ điển Khmer. Vào thể kỷ thứ 12, kiến trúc
Khmer đã trở nên tinh xảo và bề thế, bề mặt những di tích có các khối đá sa
thạch tinh xảo. Angkor nổi tiếng trong sự thiết
kế hài hòa của nhiều tầng thế giới. Đặc tính nổi bật của kiến trúc là những tòa
tháp được tạo dựng giống hình những búp sen. Một nửa các phòng trưng bày mở
rộng ra các hành lang, phần còn lại kết nối các dãy vào xung quanh nhiều mô tiếp
bậc thang xuất hiện dọc theo những con đường chính của ngôi đền. Các bức tường
được trang trí bằng nhiều bức phù điêu để biểu thị những nhân vật thần thoại Ấn
Giáo và nhiều quang cảnh sinh hoạt chi tiết. Điều này mô tả như một sự dậy sóng
của đại dương, những yếu tố thiết kế khác đã bị mai một do nạn cướp phá và sự
bào mòn của thời gian. Một số trong chúng được trát vữa và mạ vàng trên những
mái nhà và các cửa ra vào được chạm trổ rất tinh vi. Đây là tòa nhà linh thiêng
quy mô nhất thế giới, dù ngay nơi này chỉ còn lại vẻ đẹp cổ sơ kỳ bí, nhưng bạn
phải tưởng tượng nó vào thời điểm hoàng kim. Tất cả những tảng đá này sáng rực
màu sơn và tại hành lang này có cả hàng trăm bức tượng Phật được dát vàng, ánh
sáng từ những bức tượng phản chiếu với tường thành, được đính kèm theo các loại
ngọc thạch, ngọc bích và hồng ngọc. Bên ngoài có rất nhiều Tăng sĩ với cặp mắt
khép lặng trong trạng thái thiền định, gương mặt của họ ánh lên như ngọn đuốc
sáng làm từ nhựa rừng vì Phật Giáo chủ yếu là một hệ thống giáo dục, nên thiền
định là một thành phần cốt yếu của hệ thống giáo dục đó.
Thiền định là nghệ thuật giúp bạn nhận thức trực cảm tất cả những mối
liên hệ tương quan sâu sắc trong vũ trụ, và bạn phải trực tiếp cảm nhận nó để vượt
thoát khỏi hệ lụy của tiến trình vô minh, và sự tự do này là giải thoát, là
Niết Bàn. Tôi được một nhóm hành giả thiền mời đến chia sẻ kinh nghiệm thiền
định, nhiều Tăng sĩ trong Tăng đoàn có thể mất hàng giờ mỗi ngày trong thiền
quán, cách ngồi của họ, cũng như vị trí đôi tay của họ, được mô phạm lại cách
thực tập của chính Đức Phật ngày xưa. Khi họ tập trung vào hơi thở thì không có
một điều gì làm thay đổi cách thở của họ, họ không quan tâm điều gì dù là tốt
hay xấu, tịnh hóa những vọng tưởng của tâm thức những cảm thọ, sự sợ hãi, tức
giận … và những não phiền của thế giới bên ngoài, chỉ theo dõi từng hơi thở đến
và đi. Tôi hoàn toàn không thể kiểm soát để ngăn cản những âm thanh cứ tiếp
diễn có vẻ nó rất khó giữ sự yên lặng này một cách lâu dài, nhưng nếu bây giờ
ai có thể hỏi tôi có sự sân hận nào trong tâm hay không, tôi sẽ nói không.
Trong kinh điển Pali dạy rằng có nhiều nơi đặc biệt tốt cho việc thiền
tập. Một ngọn núi, dưới sườn đồi, trong hang đá, một nghĩa trang, một cánh đồng
rộng, hay khu rừng thoáng, dưới một gốc cây hay sào sâu trong rừng, và chắc
chắn những nơi này phù hợp cho những tiêu chuẩn như vậy. Nhưng tôi phải nói có
lẽ tôi sẽ thực tập thiền theo cách của riêng mình trong một lúc. Thật sự tôi chưa
thể thâm nhập sâu vào hơi thở và ngồi trong tư thế hoa sen, nhưng tôi hết sức
xem trọng việc thực hành thiền định, nó rất tốt vì nó là một niềm tin tự thân
về năng lực tâm thức của con người để chuyển hóa nhiều vấn đế trong cuộc sống
này, chúng ta không cần nương tựa vào các thần thánh hay một quyền lực lớn mạnh
nào khác mà chỉ cần quán chiếu tâm thức của riêng mình.
Nên chắc chắn con người Camphuchia có nhiều phương pháp để tìm ra năng
lực nội tại cho việc giải quyết những vấn đề mà thế giới ném vào họ. Camphuchia
đã hứng chịu một trong những cuộc diệt chủng và bạo lực tồi tệ nhất của thế kỷ
qua. Giữa năm 1968 đến 1976, hơn 3 triệu người Campuchia đã bị giết trong cuộc
chiến tranh tàn khốc ở Việt Nam và các nước Đông Nam Á, tiếp theo đó là những
cuộc khủng bố và diệt chủng của chế độ Khmer Đỏ, một phong trào Cộng sản đã
lãnh đạo Campuchia trong 4 năm (1975-1979).
Người Khmer Đỏ đối xử hết sức tàn tệ với Phật Giáo, hàng ngàn Tăng sĩ
bị tàn sát và rất nhiều chùa chiền bị phá hủy, và nếu ai cố gắng giữ gìn niềm
tin của nó, thì thường bị tra tấn và giết chết, nhưng dần dần, khi cơn ác mộng
bắt đầu mờ dần, cũng là lúc Phật Giáo đang thiết lập lại ở đây một lần nữa và
khi đến Angkor, bạn sẽ thấy đền thờ khiêm tốn đang hoạt động trong những góc
nhỏ như thế này.
Ở Campuchia, Phật Giáo đang khẳng định lại chính mình, ngày nay, với
những nỗi kinh hoàng đó, đất nước này đang dần thanh bình sau cuộc cai trị tàn
bạo của chế độ Khmer Đỏ đó bây giờ lại là một địa điểm du lịch hấp dẫn của thế
giới.
Thật cảm động khi đến Campuchia, vì nơi này đã là quê hương của những bước
ngoặc ấn tượng nhất trong vận mạng của Phật Giáo, có nhiều thế kỷ Phật Giáo được
coi như là một nền triết học cho cả vua quan và dân chúng, và sau đó chính
những nỗi kinh hoàng của người Khmer Đỏ mang lại sự thay đổi, làm cho Phật Giáo
bị triệt tiêu hoàn toàn gần như không chớp mắt, nhưng ngày nay nó đang được
phục hồi từ từ với một tiềm năng lớn ở nơi đây và một lúc nào đó trong tương
lai nó có thể lại trở thành trung tâm Phật Giáo năng động và quy mô nhất thế
giới.
Trong Phật Giáo Campuchia đang bừng sáng từ đêm trường của chế độ Khmer
Đỏ, thì Phật Giáo Hongkong, ở Trung Quốc cũng đang khẳng định chính mình, một
truyền thống cổ đang phục hồi trong xã hội hiện đại. Lại một lần nữa Phật Giáo
trổi dậy một phần có lẽ chính thái độ tích cực của nó rất thích hợp với sự phát
triển siêu tốc của thời đại, đặc biệt phổ biến là thiền trong Phật Giáo. Một
chút ngạc nhiên là dù ngày nay thiền song hành với Nhật Bản, nhưng khởi nguồn
mạch ở Trung Hoa và tôi sẽ khám phá Thiền ở một trong những nơi sôi nổi nhất
trên thế giới.
6. Giant Buddha, Polin, Hongkong.
Kỳ quan thứ 6 của chúng là một tượng Phật khổng lồ nhìn ra thành phố
châu Á sầm uất này, bức tượng đồng khổng lồ này được hoàn thành vào năm 1993,
nó biểu tượng cho mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người, con người và tôn
giáo. Tòa nhà Đức Phật khổng lồ ở Hongkong là một sự khẳng định truyền thống Đạo
Phật cổ xưa về những công trình hình tượng Phật Giáo khổng lồ và những Tăng sĩ
xướng lên dự án này ở Hongkong đã viếng thăm nhiều nơi ở Trung Quốc đại lục và
Nhật Bản, thấy nhiều hình tượng Phật khổng lồ thời Trung cổ và họ cố gắng dựng
lại một điều gì đó tương tự ở Lantan, nó là bức tượng Phật duy nhất nhìn ra hướng
Bắc đối diện với Bắc Kinh, và được đặt tên là Thiên Tân sau chùa Thiên Đường ở
thành phố đó, khi Phật Giáo bắt đầu truyền đạo, dường như mọi người tích cực
ứng dụng như một Đạo Phật hiện thực trong cuộc sống. Nhưng sau đó, khi Phật
Giáo đi qua những vùng đất như Afganistan, nó chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ Hy
Lạp, do cuộc xâm chiếm của Đại đế Alexander, triết học Phật Giáo chỉ xem Đức
Phật như một con người.
Ngày nay khi hệ thống niềm tin này truyền vào Trung Quốc, đầu của Đức
Phật cong hình mái vòm, muốn thể hiện trí tuệ tuyệt vời của Ngài, một truyền
thống mới được phổ biến rộng rãi, không chỉ diễn tả được Đức Phật dưới hình
thức một con người mà còn làm điều đó với một quy mô rộng lớn, là một hình thức
nghệ thuật đang được hồi sinh ở Hongkong. Mọi thứ về bức tượng này đều biểu thị
cho một điều gì đó. Đức Phật đang ngồi trên một tòa sen, thể hiện Ngài thích vẻ
đẹp tinh khiết của hoa sen lớn lên từ bùn lầy, gương mặt xinh đẹp tròn trịa của
Ngài như một sự phản chiếu từ ánh trăng rằm 16. Đôi bàn tay trông thực thú vị
vì tay phải đưa lên như là một động tác của phước lành. Đó là lời nguyện của
Đức Phật muốn giải thoát toàn bộ thế gian khỏi khổ đau. Trên ngực của bức tượng
có một biểu tượng hình chữ Vạn, và tất nhiên, không may khi nó cũng là chữ Vạn
của Phát Xít Đức một thời (2), dù họ biểu thị nó cho mục đích không chân chính,
nhưng nó thực sự có nghĩa là sức mạnh của vũ trụ, vì vậy điều này thể hiện từ
bi và trí tuệ của Đức Phật luôn sẵn có trong tất cả muôn loài.
Phật ngồi trên một tòa sen trên đỉnh của bệ thờ lớn. Tượng được bao
quanh với sáu bức tượng đồng nhỏ hơn, đang dâng cúng dường hoa quả, những phẩm
vật khác như tượng trưng cho nhiều phương diện triết học Phật giáo, vì tất cả
công đức đều rất cần thiết cho việc đạt giác ngộ. Bức tượng khổng lồ này là một
phần của Tu viện Polin và hệ thống chùa được thiết lập gần 100 năm qua bởi ba
thiền sư. Thiền đã phát triển thành một phần của Phật Giáo Đại Thừa, trường
phái này được thực hành ở Trung Quốc và ở một số nước khác ở Bắc Á. Hành giả
thiền tin rằng tất cả mọi người đều có những phẩm chất mà Phật có, và nhấn mạnh
rằng những điều đó có thể được phát triển không chỉ riêng Đức Phật.
Mục đích của thiền là khám phá phẩm chất này bên trong mỗi người, bằng
thiền định và thực hành lời Phật dạy. Mục đích tối hậu là trở thành bậc giác
ngộ hoàn toàn, một vị Phật.
Thiền được phát triển ở Trung Quốc tên gọi từ chính tiếng Phạn Dhyana
mà thật sự rất khó dịch, nó có nghĩa là một loại trạng thái tỉnh thức và nhạy
bén của tâm, ở Trung Quốc nó được gọi là thiền và khi đến Nhật Bản nó có tên là
Zen.
Đó là trường phái Phật Giáo nhấn mạnh việc thực hành thiền định trên
những phương pháp nhất định nào đó, những gì bạn nên thực hiện là làm cho tâm
bạn trống rỗng. Đây là trạng thái tâm mà tư duy logic không giúp chúng ta có được
giác ngộ hay Niết Bàn. Không xa tượng Phật lớn, thiền được thực tập trong một
tu viện nhỏ hẻo lánh. Phương pháp thiền im lặng là trọng yếu của thiền và nó được
cả 2 giới tại gia và xuất gia thực hành. Một số người thấy rất khó để tìm ra
một khái niệm về thiền.
Bạn sẽ định nghĩa nó như thế nào? Thiền có nghĩa là sự kết hợp giữa
cuộc sống và sự thực hành của chúng ta. Thiền là trong 24 giờ đồng hồ khi bạn
đi, đứng, nằm, ngồi không bao giờ tách biệt khỏi thiền, cuộc sống hàng ngày và
sự thực tập của chúng ta không thể tách biệt được, không phải hai thứ tách
biệt. Thiền cũng có nghĩa là bên trong nội tại, như bạn biết trong tâm của
chúng ta, và những trần cảnh bên ngoài, trong và ngoài trở thành một, đó là
thiền. Vì vậy bạn không nên tạo sự tách biệt giữa thực hành thiền và đời sống
hàng ngày. Có nghĩa khi bạn làm mọi thứ, khi bạn lau nhà, chuẩn bị thức ăn, hay
lau chùi một cái gì đó, thì chính hành động đó là thiền. Thiền có nghĩa là
những gì bạn đang làm, vì vậy, cũng có người đạt được giác ngộ khi họ đang
trong bữa ăn, rửa bát, tất cả những điều này được thiết lập để giúp chúng ta
sống với hiện tại, và có thể trong giây phút đó tâm bạn trở nên thanh tịnh và
cuộc đời bạn cũng tươi sáng hơn. Đây đưọc gọi là thủy bát thiền, mục đích là
mang nước đi mà không đổ giọt nào, bạn có thể thực hiện điều này qua việc ứng
dụng thiền, vì nếu bạn vọng tưởng trong khi đang mang bát nước, bạn sẽ bị dao
động làm đổ đi ít nhiều, nếu tịnh hóa tâm mình một cách triệt để, bạn sẽ hoàn
toàn thành công.
Ở phương Tây nhiều người đã nghe về thiền, nó là một cái gì đó rất phổ
biến, bạn nghĩ rằng điều đó một phần bởi vì nhu cầu cuộc sống của con người và
thiền đáp ứng phương pháp cho họ, không chỉ phương Tây bận rộn mà phương Đông
càng bận rộn hơn, đó là sự thật! Đó là sự lôi cuốn về tiền bạc, mọi người luôn
lo lắng về cuộc sống, vì vậy rất quan trọng để biết cách thư giãn tâm trí của
chúng ta. Sống trong giây phút hiện tại và giữ nó trong sáng. Nếu bạn có thể
sống trong hiện tại. Ngay khi những rắc rối xuất hiện thì nó cũng ok, với tâm
thức trong sáng của mình, bạn sẽ không bị kích động. Tôi nghĩ đây là sự thực
hành quan trọng cho mọi người.
Những hành giả thiền ngày nay không thích dùng những từ ngữ đặc biệt để
giới hạn phạm vi của thiền, nhưng nếu bạn muốn tìm một định nghĩa cho sự thực
tập thì như một điều gì đó đại khái là niềm tin trọn vẹn vào năng lực trực giác,
và một sự đơn giản nhạy bén. Tôi có thể thấy trực giác nội tại đang sống trong
từng phút giây, trong từng ngày, bằng cái tâm trong sáng là một cách thức hữu
hiệu để sử dụng thời gian của bạn, đó có lẽ là lý do tại sao trong nhiều trường
hợp, Phái Phật Giáo Thiền đặc biệt thu hút những ai đang sống trong thế kỷ 21
bề bộn này.
THIỀN
Thiền là một phương thức hết sức thực tiễn của trí tuệ Phật Giáo. Nó
khích lệ quá trình phục hồi đời sống đơn giản. Truyền thống thiền nhấn mạnh
rằng sự giác ngộ có thể thực hiện ở đây và bây giờ, nó có phải là một pháp môn
khó hơn rất nhiều so với những phương pháp khác?
Thiền có nghĩa là trực tiếp chỉ thẳng vào tâm của bạn, có nghĩa là thức
tỉnh ngay đây, ý thức rõ ràng những gì bạn đang làm bây giờ, thực ra tâm chúng
ta không phức tạp, mà chính vọng tưởng chúng ta về cuộc đời tạo nên sự rắc rối,
vì vậy thiền là một công cụ giúp chúng ta đưa tâm quay lại với cuộc sống hàng
này và đơn giản hóa nó.
Thiền cũng như tất cả sự thực hành của Phật Giáo triết học thành công
cụ để hỗ trợ đời sống hàng ngày. Thiền cũng được thực tập để mang lại một hiệu
quả thực chứng, hiểu biết về thế giới hay năng lực để ta giải quyết đau khổ, mà
chúng ta thấy xung quanh hay bên trong chính mình, một điều làm tôi ấn tượng là
bất kỳ sự đổi thay địa phương nào của Phật Giáo, thì vấn đề khổ đau vẫn là
trung tâm của triết học.
Ngày nay còn thú vị hơn khi mà gần hơn 2500 năm các nền văn hóa Á Đông
không hề nao núng trực nhận sự khổ đau, họ không ngại đặt nó vào vị trí trọng
yếu nhất. Trong khi ở phương Tây đây là vấn đề đôi khi chúng ta hết sức bối
rối, ví dụ ngày nay chúng ta bị cho rằng đang cố gắng trốn tránh cái chết, nhưng
hãy nhìn vào bức tượng này, chính Đức Phật hứa khả giải quyết tất cả những đau
khổ trên thế gian, vì vậy làm cho bạn tự hỏi liệu rằng Phật Giáo trong tưong
lai có thể là một hệ thống niềm tin toàn cầu?
Chuyện gì sẽ xảy ra khi những tư tưởng Á Đông, đang đặt khổ đau vào vị
trí quan trọng bắt đầu bám rễ ở Tây phương, tư tưởng và triết học Phật Giáo
ngày một trở nên phổ biến trong thế giới cạnh tranh cao với nhịp độ nhanh ở
tiểu bang California, Hoa Kỳ. Những khái niệm trong thời đại mới lẫn lộn với
nền văn hóa lập dị vào những năm 1970 đã tạo nên những từ như nghiệp hay một
Niết Bàn tầm thường. Phật Giáo cống hiến một cuộc sống tâm linh và chú trọng
vào đạo đức mà không quá áp đặt, Phật Giáo khi mới truyền qua phương Tây, đặc
biệt là bờ biển phía Tây Hoa Kỳ vào thế kỷ thứ 19 là do lao động Nhật Bản và
Trung Quốc đến làm việc trên đường sắt, những ngôi chùa Phật Giáo đầu tiên được
xây dựng vào đầu thế kỷ này. Ngày nay, thành phố này là quê hương của một trong
những ngôi chùa lớn nhất phương Tây.
7. Hsi Lai Temple, Los Angeles, Hoa Kỳ.
Chùa Tây Lai, Hacienda Heights,
California, kỳ quan Phật Giáo thế giới thứ 7 của chúng ta. Bây giờ tôi sẽ cố
gắng tìm hiểu những gì được gọi là khái niệm quan trọng nhất trong Đạo Phật,
cũng là mục đích tối hậu bất tử (Niết Bàn). Việc quy họach và xây dựng ngôi
chùa vào những năm 1980 đã chịu nhiều sự hoài nghi và chống đối từ cộng đồng
địa phương. Việc xây dựng ngôi chùa ở vị trí hiện thời này, được duy trì với
sáu điều lệ và 165 buổi giải thích. Cuối cùng, vào năm 1985, ngôi đền đã được
cấp giấy phép xây dựng. Nó được hoàn thành vào năm 1988. Tôi sẽ kể bạn nghe sự
hoàng tráng ở đây, chính là những bức tượng Phật, tôi chưa bao giờ thấy nhiều
như thế, phải hơn con số ngàn.
Vâng, có hơn 10,000 tượng Phật ở
đây, nếu bạn nhìn vào những bức tượng Phật này, bạn sẽ thấy ở đó có một vài cái
tên. Đó là một cách tu của người Trung
Quốc, họ cúng dường và sau đó được ghi tên gia đình của mình trên bức tượng, đó
là tượng của họ. Đó cũng là một hình thức hộ trì ngôi chùa, họ đến và nói “Tôi
có một Đức Phật ở đây”. Nó giống như một sự kết nối giữa Đức Phật ngoại giới và
Đức Phật nội tại, một trong nhiều người Mỹ đã đến chùa này là Mario Lee, anh đã
trở thành Phật tử sáu năm nay. Có rất nhiều người nói rằng sự thu hút của đạo
Phật đối với nhiều người Mỹ bởi vì tinh thần hài hòa của nó, đến từ Đông phương,
nhưng lúc đó nó cũng phù hợp với lối sống vật dụng “cái gì cũng tốt”, bạn có
thể nói thế nào về điều đó? Tôi không có ý thiếu tôn trọng về điều này, nhưng
tôi có một số người bạn, họ dùng Đạo Phật và thuyết Einstein, triết học
Einstein, họ trộn lẫn nó vào triết học thời đại mới. Nó ổn thôi, nếu nó thuận
tiện cho họ, nhưng mối quan tâm của tôi là nó là thuyết mọi chuyện đều tốt, như
bạn biết, đó là một thị trường tự do tâm linh. Bất kỳ điều gì tôi đang nói và
suy nghĩ hôm nay cũng đều tốt, vì ta có những giáo lý cốt lõi này nó sẽ giúp ta
tự kiểm soát chính mình, vì vậy chúng ta không xen vào bất cứ điều gì “nếu nó
cảm thấy tốt, đó là ok”. Chúng ta đang hết sức cố gắng để tránh nó. Phật Giáo
cho tôi một nguyên tắc mà không cần dựa vào Thượng đế ban thưởng hay trừng phạt
tôi. Hiện con số Phật tử đã tăng lên gấp mười lần. Ở Châu Âu và Mỹ trong 40 năm
qua, hầu hết các nhà quan sát đưa ra con số từ 2 - 3 triệu tín đồ Phật Giáo
thuần thành ở Mỹ.
Ngôi chùa Tây Lai này là một trong những ví dụ của chủ nghĩa bành trướng
hiện đại Phật Giáo, nhiều Phật tử đến chùa này để lễ bái … những người khác đến
đây để tu thiền. Ở phương Tây, hiện nay có sự quan tâm đặc biệt đến Yoga đơn
giản như một phương pháp điều hòa hay như một hình thức thiền định. Yoga có
nguồn gốc từ truyền thống Ấn Độ, có trước cả Ấn Độ Giáo và Phật Giáo, và đôi khi
nó được người theo Ấn Giáo dùng để khẳng định tâm thức với vật chất. Với Phật
tử, Yoga là một sự hỗ trợ chìa khóa cho việc đạt được giác ngộ tự thân. Phật
Giáo là một nền triết học rất cổ xưa nhưng trong một vài cách thức nào đó, bạn
có thể nghĩ rằng nó rất thích hợp cho
đời sống người Mỹ. Bởi vì nó có tính khả thi, thật sự khả thi với Mỹ quốc, một
lý do là chúng ta bị vật chất hóa, chúng ta biết điều đó, và tôi thấy bằng
chính kinh nghiệm của mình, nó không thể giúp bạn có đựợc nơi mà bạn muốn, tôi
không thể tin chỉ duy nhất mình tôi chịu sự ảnh hưởng này, tôi không thể tin
điều đó, có nhiều lý do để giải thích, tôi chắc nhiều người cũng như tôi, để
rồi đi tìm một thứ khác. Tôi không ngạc nhiên vì nó là một điều phổ quát, nó
không chống lại bất cứ một tôn giáo nào cũng không ngược lại khoa học, nó rất
phù hợp với mọi thứ. Ngôi chùa này được nhiều Phật tử Mỹ đến thăm với nhiều lý
do, nhưng nếu bạn là một người mộ đạo thì một trong những động lực chính để đến
đây là tìm kiếm sự giác ngộ … Niết Bàn.
Tôi rất muốn nói cho bạn về một định nghĩa giáo khoa, Niết Bàn là gì?
Nhưng hãy xem Đức Phật nói rằng nó vượt qua ngôn ngữ, logic, tôi e ngại nó sẽ
là một khái niệm thật sự khó khăn để định nghĩa. Niết Bàn chắc chắn là một
trạng thái của tâm, mà nó bỏ hoàn toàn những cảm xúc âm tính của nhiều sự khao
khát (tham), hay sự ghét bỏ (sân), cũng như trạng thái mê mờ (si). Đó là một
trạng thái tâm mà bạn đạt được ở giây phút đó mãi về sau, bạn sẽ cảm nhận được
một sự tĩnh lạc vô biên và con đường đó, Niết bàn là điểm cuối cùng, có phải là
mục đích của bạn?
Vâng, Niết Bàn, Giác Ngộ, Sự Hiểu Biết tròn đầy, Sự Thức Tỉnh, tất cả
những thuật ngữ có nghĩa tương tự nhau. Với tôi, nó là sự hiểu biết về chân lý
là sự hiểu biết những gì là thực tại. Sao bạn tin Niết Bàn là mục đích bạn có
thể đạt được? Tôi lạc quan một cách dè dặt về điều đó, còn nó thì sao? Có một
số người nói rằng đó là một điều có thể, và đây là những người rất thông minh,
tôi đang theo lời khuyên của họ, tôi nghĩ nó có thể thực hiện được, tôi nghĩ nó
có thể được thực hiện.
Giống như nhiều thứ trong Phật Giáo, Niết Bàn rõ ràng phải được cảm
nhận, không thể giải thích, nhưng đối với Phật tử thì con đường bạn đi, cuộc
hành trình để đến đích dường như vô cùng quan trọng, Phật tử sẽ kể cho bạn nghe
rằng Niết Bạn vượt ngoài không gian và thời gian, thật sự nó cũng có một chút
hài hước bởi vì một trong những nơi được xem như là cố định trong những mẫu
chuyện Phật Giáo, là nơi mà chính Đức Phật đã tìm thấy giác ngộ. Chúng ta được
kể rằng điều này đã diễn ra ở phía Bắc Ấn Độ dưới những tàn lá rộng của cội cây
Bồ Đề.
Nơi mà tôi bắt đầu nhiệm vụ của mình, chính nơi này, Bồ Đề Đạo Tràng, nơi
mà triết học Phật Giáo được cho là thật sự bắt đầu hơn từ 2500 năm qua. Trong
cuộc hành trình này tôi đã khám phá nhiều khía cạnh niềm tin trong Phật Giáo,
và có được một vài hiểu biết cụ thể hơn với những vấn đề trọng yếu của triết
học Phật Giáo, là Pháp. Pháp đơn giản là quy luật của vũ trụ. Tất cả chúng ta
có thể sống một cuộc đời tốt nhất, nếu chúng ta thực hành theo một con đường cao
thượng mà nó cho phép chúng ta có thể đối diện với thế giới một cách nhiệt
thành, từ ái, tích cực sáng suốt đến mức có thể.
Bây giờ, dù những sự giải thích hay hoán đổi nào của Phật Giáo, đối với
tôi dường như rất đơn giản và rõ ràng. Tôi học về nghiệp, cách mà những hành
động cố ý tác động vào đời sống của chúng ta. Cách thức mà Phật Giáo có trách
nhiệm nhận ra chân lý cho tất cả chúng ta. Khi Phật Giáo du hành, nó chuyển hóa
các nền văn hóa thâm nhập để truyền bá, cũng như nó bị bản địa hóa.
Bạn tự hỏi Đức Phật đã từng có thể đoán trước, đặc biệt là một điều gì
đó mà Ngài chắc chắn về sự ảnh hưởng từ những tư tưởng của mình, đến lịch sử
nhân loại, cái mà sự vô thường và đổi thay như là một hiển nhiên của thế giới
này.
Hãy nghe điều này, đây là một trong những hình ảnh thơ mộng nhất mà
Ngài đã dùng:
“…Vì vậy bạn phải nghĩ rằng thế gian này chẳng có gì bền lâu.
Đời phù du chớ mong cầu
Tựa
ánh sao sáng vào đầu ban mai
Như
bong bóng nước trải dài
Trong
dòng suối chảy tan ngay tức thì
Như
một tiếng sét vang đi
Trong
đám mây hạ thôi thì còn đâu
Như
đèn nhấp nháy đêm thâu
Như
hình bóng ảo vui sầu chiêm bao”
Những giác mơ của Đức Phật từ
2500 năm qua vẫn còn đây với chúng ta, và chúng ta là hóa thân của những hệ
thống niềm tin kiên cố nhất trong mọi thời đại, cũng như nhiều di tích lộng lẫy
mang tính biểu tượng cao nhất trên thế giới.
HẾT