Thật vậy, thử nghĩ xem cả thế giới này có đến 7 tỷ
người mà tại sao hai người lại tìm nhau được, để kết hợp thành cuộc sống vợ
chồng. Chẳng những phải có duyên mà còn có nợ nữa, như dân gian ta thường nói
có duyên nợ mới nên vợ chồng. Có duyên mà không nợ thì gặp nhau cũng không thể
chung sống. Có nợ mà không duyên thì
cũng chẳng thể thành vợ chồng. Duyên nợ tác thành vợ chồng, hay nói đúng
hơn là nghiệp lực đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hai người đến với
nhau để trở thành vợ chồng. Thực tế cho thấy có người phụ nữ rất ghét đàn ông
say rượu, nên họ lựa chọn rất kỹ người bạn đời là người sống mẫu mực. Khi tìm
hiểu nhau, chưa thành vợ chồng, người đàn ông sống rất tốt, không hề biết uống
rượu; nhưng đến khi lập gia đình, độ một năm sau, ông chồng này bỗng trở thành
con sâu rượu. Và người ta kết luận rằng ghét của nào trời trao của nấy. Nói
đúng hơn, người vợ có cái nghiệp phải sống với ông chồng nghiện rượu.
Nói như vậy,
không phải để mọi người xuôi tay, mặc cho cái nghiệp xoay vần. Ý thức về sự
hiện hữu của nghiệp nhân, nghiệp quả, nam nữ Phật tử muốn trở thành người chồng
tốt hay người vợ tốt phải biết áp dụng lời Phật dạy trong cuộc sống gia đình để
khắc phục những lỗi lầm, nghiệp chướng của mình và từ đó xây dựng gia đình hạnh
phúc.
Trong Trường Bộ II, kinh Giáo Thọ Thi Ca La
Việt, Đức Phật dạy về đạo nghĩa vợ chồng như sau:
Này gia
chủ, có 5 cách người chồng phải đối xử với người vợ: Kính trọng vợ, không bất
kính đối với vợ, trung thành với vợ, giao quyền hành cho vợ, sắm đồ nữ trang
cho vợ.
Này gia
chủ, được chồng đối xử như vậy, người vợ có lòng thương tưởng chồng theo 5
cách: Thi hành tốt bổn phận của mình, khéo tiếp đón bà con, trung thành với chồng,
khéo giữ gìn tài sản của chồng, khéo léo và nhanh nhẹn làm mọi công việc.
Này gia
chủ, người vợ được chồng đối xử theo 5 cách và người vợ tỏ lòng thương tưởng
chồng theo 5 cách như vậy, gia đình sẽ an ổn và thoát khỏi các sợ hãi.
Thiết nghĩ, trong cách đối xử của người chồng đối
với vợ, Đức Phật đã đưa ra những điều cải cách mà cả ngàn năm sau, các nước
trên thế giới mới áp dụng. Thật vậy, Đức
Phật quy định điều trước nhất là người chồng phải kính trọng vợ. Ngày nay với
chế độ nam nữ bình quyền thì điều này là việc bình thường, nhưng vào thời Phật
tại thế, nước Ấn Độ chịu sự chi phối của chế độ giai cấp rất hà khắc, nhất là
người vợ bị coi như một công cụ để phục vụ chồng, họ chỉ là một “cái máy đẻ”
chứ không có quyền hành gì, thì điều dạy này của Đức Phật phải nói là một sự
cải cách rất mạnh mẽ và Ngài là người duy nhất dám khẳng định điều đi ngược lại
với phong tục, tập quán cổ hủ có từ lâu đời, mà không ai dám chê trách.
Ngoài ra, Đức
Phật còn đặt định người chồng phải giao quyền hành cho vợ và người vợ được
quyền giữ gìn tài sản của chồng. Hai điều này cũng là sự thay đổi lớn vì vào
thời đó, người vợ giống như một người nô lệ không có quyền hành nào và tất
nhiên cũng không có quyền cai quản tài sản của chồng.
Lời dạy của
Đức Phật cũng rất chính xác về nghĩa vụ phải chung thủy của vợ lẫn chồng, một
điều tất yếu rất cần thiết trong việc giữ gìn hạnh phúc gia đình, mà chúng ta
thấy ngày nay phần lớn cuộc sống vợ chồng đi tới đổ vỡ, phải ly hôn, vì vợ
chồng không sống thủy chung với nhau.
“Sắm đồ nữ
trang cho vợ”, một trong những nghĩa vụ mà Phật đã quy định cho người chồng đã
thể hiện tấm lòng từ bi của Phật nghĩ đến công khó của người vợ trong gia đình.
Và quả thật Ngài cũng là nhà tâm lý siêu việt, nhìn thấu tận tâm can của chúng
sinh, biết chúng ưa thích gì, đặc biệt là nữ giới, mà điều đó ngày nay vẫn còn
có giá trị đối với các bà vợ.
Tóm lại, nam
nữ Phật tử nên suy nghĩ về đạo nghĩa vợ chồng mà Phật đã dạy để hoàn thiện suy
nghĩ, lời nói, việc làm của mình đúng theo tinh thần Phật đưa ra, chắc chắn sẽ
giữ vững được hạnh phúc lâu dài cho tổ ấm gia đình, chẳng những trong hiện đời,
mà còn làm cho người bạn đời của mình mong muốn được gặp lại và cùng chung sống
trong kiếp lai sanh.
Nguyệt San Giác Ngộ số 187