Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
Sao chỉ so mình với chính mình
GS. Tương Lai Tạp chí Tia Sáng, 2006
28/11/2010 08:41 (GMT+7)


Đọc Người thường gặp của Trần Đăng Khoa, tôi cứ suy ngẫm mãi, băn khoăn mãi về cái mà nhà văn gọi là “trong vắt một bầu khí quyển nông dân” và ở trong bầu khí quyển trong vắt ấy họ chỉ biết so sánh mình với chính mình thôi. Phải chăng chính cái tập quán đó là một lực cản rất đáng sợ cho sự phát triển, vì nó đang thực hiện điều mà có thể chính nó cũng không hiểu được, cái nguy hại của việc thần thánh hóa cái trạng thái cũ đã suy đồi để cho con người quỳ lạy, khấn vái.

Nếu mô hình xã hội, làng xã là một trong những yếu tố quyết định để dân tộc ta tồn tại và phát triển qua bao hy vọng và thử thách, thì bên cạnh những giá trị cần bảo lưu và đổi mới, cần phải thấy rõ chính đó là nguồn mạch của sự thiển cận và thủ cựu. Mô hình ấy dễ làm nảy sinh và duy trì một lối sống dễ bằng lòng với cái hiện có, dễ thỏa hiệp. Cái đã có vốn quen thuộc và có uy lực vì nó mang tính ổn định trì trệ.

Cái đã định hình ấy khước từ mọi sự canh tân. Nó củng cố tính bảo thủ được khoác cho những tấm áo đủ mọi màu sắc để xoa dịu những số phận bị kìm hãm, để đánh lừa những đầu óc muốn đổi mới. Tâm lý trâu ta ăn cỏ đồng ta ngăn chặn mọi sự đổi mới, vươn xa, bóp chết những khát vọng giải phóng cá nhân, kích thích tìm tòi phát huy năng lực mới, cổ vũ những suy nghĩ táo bạo và sáng tạo.

Cung cách sông lâu lên lão làng, cái trật tự lão quyền, ông bảy mươi phải hỏi ông bảy mươi mốt đã làm thui chột sức trẻ và sự năng động sáng tạo của tuổi trẻ, mặc dầu vẫn tự nhủ rằng con hơn cha là nhà có phúc. Nhưng "hơn" là hơn danh vọng, tước vị, hơn ở sự giàu sang, phú quý, chứ lại không cho hơn về trí tuệ sáng tạo, vì sợ chệch khỏi phương châm nối tiếp, làm theo, không thay đổi những điều mà cha ông đã cho là thiên kinh, địa nghĩa!

Chính đấy là mảnh đất nuôi dưỡng sự trì trệ, an phận thủ thường được củng cổ bằng chủ nghĩa bình quân, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa quan liêu! Chủ nghĩa bình quân gắn liền với lối sống tiểu nông của nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, năng suất quá thấp, không có tích lũy xã hội, triền miên trong sự thiếu thốn. Chủ nghĩa giáo điều gắn liền với lối học từ chương, mọt sách trong rập khuôn theo Tứ thư, Ngũ kinh, không vượt ra ngoài những điều Khổng Tử viết. Chủ nghĩa quan liêu gắn liền với bộ máy cầm quyền rất xa dân, không chú trọng mấy đến SXKD, chỉ sống bằng tô thuế, vì vậy chỉ cần giữ yên chứ không cần phát triển.

Tập quán được thần thánh hóa ấy nuôi dưỡng một tâm lý xấu đều hơn tốt lõi, khôn độc không bằng ngộc đàn, dễ nảy sinh sự đố kỵ với người ngoi lên hơn mình, dẫn đến tâm lý ghét giàu, ghét người giàu, lại được củng cố bằng việc đối lập nghĩa với lợi, coi khinh chữ lợi của đạo đức học Khổng Mạnh. Trong bảng giá trị xã hội theo trình tự thứ bậc sĩ, nông, công, thương thì người đi buôn, tức là người có khả năng lầm giàu nhất bị xếp ở cuối bảng.

Trong quá khứ, tâm lý này đã góp phần kìm hãm tính cơ động xã hội, làm chậm sự phát triển kinh tế. Tâm lý này cũng dễ dàng hậu thuẫn cho những giải pháp duy ý chí muốn xóa bỏ tư sản trong công tư hợp doanh và cải tạo tư bản tư doanh, làm triệt tiêu một nguồn lực cần cho sự phát triển kinh tế sau chiến tranh. Khi bước vào quá trình hội nhập, cần phải cổ vũ và phát triển một đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi, có bản lĩnh dám chịu rủi ro, mạo hiểm để đầu tư vào sản xuất và kinh doanh, chuyển đổi cơ cấu và mở rộng không gian kinh tế thì tâm lý đó sẽ là một trong những lực cản mà theo tôi, còn ít được nhìn nhận một cách thấu đáo đế tìm ra những giải pháp khắc phục.

Trong cái xã hội dĩ nông vi bản ấy, doanh nghiệp và doanh nhân (đội quân chủ lực của sự hội nhập kinh tế quốc tế hôm nay) bị miệt thị, không có điều kiện phát triển. Sau năm l954 doanh nhân đồng nghĩa với giai cấp tư sản, đối tượng của cách mạng XHCN, phải xóa bỏ bằng công tư hợp doanh, bằng cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.

Giờ đây, rõ ràng là không thể quan niệm việc xây dựng một nền kinh tế thị trường văn minh và vững mạnh lại không có những doanh nghiệp phát triển, không có những doanh nhân tài giỏi, có kinh nghiệm và nhất là có trí tuệ, có bản lĩnh để có thể trở thành những đối tác ngang tài ngang sức với các nhà đầu tư nước ngoài mà chúng ta đang trải thảm đón mời.

Để chủ đông tiến hành quá trình hội nhập kinh tế trong bối cánh toàn cầu hóa thì tiền đề cực kỳ quan trong là phải có một đội ngũ những doanh nhân như vây. Muốn có được cái đó thì đường lối, chính sách, pháp luật và thể chế cần phải tương thích với yêu cầu mới đương nhiên là cực kỳ cần thiết. Nhưng cùng với những cái đó, việc chuyển đổi tâm lý và dư luận xã hội còn chịu ảnh hưởng những tàn dư của quan điểm trọng nông ức thương trước đây có ý nghĩa lâu dài và cơ bản. Mặt khác phải khắc phục sự thiếu hiểu biết, thâm chí còn giữ lại những định kiến của một thời về vai trò quan trọng của tài năng kinh doanh, của tri thức và kinh nghiêm quản lý sản xuất và kinh doanh trong cuộc cạnh tranh trên thương trường.

Cần nói rằng, một phần không nhỏ những quan hệ xã hội cứng đờ và hoen rỉ với cả những quan niệm và tư tưỏng vốn được tôn sùng từ ngàn xưa đi kèm những quan hệ ấy chưa tiêu tan, chúng vẫn được thần thánh hóa và có tác động lớn đến quá trình hội nhập kinh tế trong bối cảnh của toàn cầu hóa.

Để thấy cho hết, cảm nhận cho sâu cái gánh nặng quá khứ đó, cần phải có sự đối sánh với tầm suy nghĩ và phương pháp tư duy của thời đại mới, chẳng hạn như ý tưởng: cần được tư duy lại cho tương lai của những nhà khoa học có tầm cỡ của thế giới hiện đại tập trung quanh 3 chủ đề lớn được nêu lên từ năm 1997.

Con đường cũ dừng ở đây, tương lai không phải là sự tiếp tục của quá khứ, thế giới đã thay đổi và kiểu tư duy tuyến tính không còn thích hợp với một thế giới phi tuyến thời đại mới đòi hỏi những cách tổ chức mới, người thắng cuộc trong thế kỷ XXI sẽ là những người có năng lực biến tổ chức của mình thành một cái gì đó thật linh hoạt, có khả năng phản ứng nhanh, chuyển hướng nhanh trong một miền đất đầy trắc trở và bất định.

Rồi chúng ta sẽ đi về đâu, ta cần có một tầm nhìn, một định hướng mục tiêu về tương lai, nhưng không phải bằng cách nhìn vào một bản đồ có sẵn. Không có bản đồ nào cho miền đất chưa khám phá thay vào đó, những người đi đầu sẽ nhìn về phía trước, sáng tạo những ý tưởng mới, phát hiện những chân trời mới, vạch đường để hấp dẫn mọi người cùng đi(1)

Tôi chợt nhớ đến một ý của Đồng chí Phạm Văn Đồng từng nêu lên trong Văn hóa và Đổi mới từ 1994 : "Chúng ta đang đi trên một con đường chưa có bản đồ, chúng ta đang suy nghĩ và nghiên cứu về lý luận, đồng thời chúng ta phải hàng ngày, hàng giờ giải quyết những vấn đề thực tiễn, những bài toán đầy phức tạp và ẩn số...". Quả là khi có được một tầm cao văn hóa và trí tuệ thì người ta dễ bắt gặp những khám phá và sáng tạo của thời đại. Tiếp vào mạch ý trên, tác giả của văn hóa và đổi mới đòi hỏi "chúng ta phải lớn lên và đây chính là sự lớn lên của văn hóa và trí tuệ".

Không thanh toán tận gốc cái căn tính tiểu nông hạn hẹp và thiển cận được nuôi dưỡng trên mặt bằng dân trí thấp thì khó nhận thức được “không có bản đồ nào cho miền đất chưa khám phá" do vậy mà phải có bản lĩnh (nhìn về phía trước, sáng tạo những ý tưởng mới, phát hiện những chân trời mới" và hiểu được rằng "chuẩn mực chính là sự thay đổi"(2)

Chính vì thế, nếu vẫn tự nuôi dưõng và hít thở trong cái bầu khí quyển nông dân cho dù nó trong vắt đến đâu, nếu vẫn chỉ thỏa mãn với cái kiểu tư duy chỉ so sánh mình với chính mình thôi thì không thể đứng vững, hội nhập và phát triển trong cái thế giới đầy biến động khó lường này.


(1) Dẫn lại theo Phan Đình Diệu, Tạp chí xã hội học tháng 02/1999, tr.35.

(2) Xem Chuẩn mực chính là sự thay đổi của Tương Lai trong Tia sáng (Số 5/2001)

Nguồn:  Tạp chí Tia Sáng, 2006

Các tin đã đăng:
Về đầu trang